Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2020

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 


Theo quan điểm của Đảng ta (Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016):  Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức."

Một là, Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tôn tại lâu dài cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH

Đây là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vấn đề dân tộc và tín ngưỡng tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Trên cơ sở thừa nhận tôn giáo là nhu cầu tình thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Do đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải tôn trọng nhu cầu tinh thần, quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.

-  Công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân...

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; không có nghĩa là lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng.

- Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau; Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không phân biệt đối xử với một tôn giáo nào.

Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân bằng pháp luật.

Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là vi phạm pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối, làm mất an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chống đối Đảng, Nhà nước cũng là vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phải bị pháp luật xử lý

 Phải quan tâm đúng mức đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các tôn giáo

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp vĩ đại nhằm giải phóng quần chúng nhân dân khỏi mọi sự áp bức, nô dịch cả về vật chất và tinh thần. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào theo tôn giáo là mục tiêu, nhiệm vụ to lớn của Đảng và Nhà nước ta trong cách mạng XHCN. Điều đó, đòi hỏi phải quan tâm đến cả “phần đạo và phần đời” của đồng bào tôn giáo. Có như vậy, đồng bào các dân tộc.

Hai là,  Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc

- Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Đồng bào các  tôn giáo trước hết là người Việt Nam, sau đó mới là tín đồ tôn giáo. Nói cách khác, là người Việt Nam theo tôn giáo chứ không phải là người theo tôn giáo nhập quốc tịch Việt Nam. Vì vậy, ở đồng bào theo tôn giáo có tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào và ý thức dân tộc sâu sắc. Họ đều mong muốn xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công xã hội, khao khát có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Điều đó phù hợp với mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Mặt khác, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là cơ sở để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp cách mạng.

Trong quá trình cách mạng, đồng bào các tôn giáo ngày càng nhận thức sâu sắc lợi ích của bản thân và của dân tộc mình, tôn giáo mình gắn bó với lợi ích của toàn dân tộc và của cách mạng; tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền và phụ thuộc vào độc lập, tự do của Tổ quốc; Tổ quốc có độc lập, thống nhất thì tôn giáo mới có tự do. Sự thống nhất lợi ích đó là “điểm tương đồng” căn bản, tạo động lực để đồng bào các dân tộc, các tôn giáo một lòng, một dạ theo Đảng làm cách mạng trong đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.

- Thực hiện đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.

Cơ sở của đoàn kết là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[1].

- Kiên quyết đấu tranh chống những hành động gây chia rẽ, làm suy yếu khối đại đoàn kết, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc

Đây là lập trường có tính nguyên tắc trong quan điểm về công tác tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Trong mọi trường hợp, cần phân biệt rõ đâu là vấn đề tôn giáo, đâu là vấn đề các thế lực thù địch lợi dụng chống phá để có biện pháp xử lý đúng đắn.

Ba là,  Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng

Đồng bào các tôn giáo là nhân dân lao động, là quần chúng của Đảng, là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việt Nam có khoảng 24 triệu tín đồ các tôn giáo. Đó là lực lượng to lớn, vì vậy nếu làm tốt công tác vận động quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phải làm cho đồng bào các tôn giáo nhận thức đúng, tin và làm đúng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Điều này xuất phát từ sự khác nhau giữa niềm tin tôn giáo và lý tưởng của CNXH mà sâu xa là thế giới quan tôn giáo và thế giới quan cộng sản.

Làm tốt công tác vận động quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và BVTQ

Bốn là, Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị

Đảng luôn có chủ trương, chính sách đúng đắn về tôn giáo

Nhà nước trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng ban hành pháp luật, chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện. Nhà nước phải có những giải pháp thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc.Trong đó chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, các vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời việc giải quyết các vấn đề về hoạt động hợp pháp của các tổ chức tôn giáo, Nhà nước kiên quyết xử lý đối với mọi hành vi truyền đạo trái phép, lợi dụng tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, làm mất trật tự, an toàn xã hội, gây tổn hại đến đạo đức, lối sống, văn hoá, thuần phong mỹ tục của các dân tộc; xử lý nghiêm những hành vi ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo trong thực hiện nghĩa vụ công dân, những hành vi làm phương hại đến độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống Nhà nước.

Mặt trận, Đoàn thanh niên, Tổng LĐLĐ, Hội CCB, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ... là những tổ chức có vị trí, vai trò quan trọng, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện chính sách của Đảng và nhà nước về dân tộc và tôn giáo.

LLVT là lực lượng nòng cốt, đi đầu và là lực lượng chủ yếu thực hiện tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân hiểu rõ và chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; đồng thời là lực lượng chủ yếu nắm bắt tình hình dân tộc, tôn giáo để tham mưu với Đảng và Nhà nước về Chính sách dân tộc, tôn giáo và trực tiếp chịu trách nhiệm xử lý các vấn đề phức tạp của dân tộc và tôn giáo, xử lý các hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch với Việt Nam.

Năm là,  Vấn đề theo đạo và truyền đạo   

Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ - CP, trong đó quy định chính sách cụ thể về các hoạt động theo đạo và truyền đạo, như sau:

- Đối với tín đồ các tôn giáo: mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà n­ước, không đ­ược hoạt động mê tín dị đoan. Ng­ười n­ước ngoài cư­ trú hợp pháp tại Việt Nam đ­ược sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật Việt Nam.

- Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền: thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi trách nhiệm đã đư­ợc cơ quan nhà n­ước có thẩm quyền chấp thuận. Việc mở tr­ường đào tạo, phong chức cho chức sắc, bổ nhiệm, thuyên chuyển... phải đư­ợc sự chấp thuận của Thủ tư­ớng Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

- Đối với các tổ chức tôn giáo đư­ợc Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì đư­ợc pháp luật bảo hộ.

- Đối với hoạt động tôn giáo: các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự tôn giáo đã đăng ký hàng năm và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép. Những hoạt động khác: các hội nghị, đại hội tôn giáo, in ấn xuất bản các loại kinh sách... phải đ­ược phép của cơ quan nhà n­ước có thẩm quyền và thực hiện tuân thủ theo chính sách, pháp luật của Nhà nư­ớc.

- Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo: Nhà n­ước bảo hộ nơi thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gìn giữ tu bổ nơi thờ tự. Việc sửa chữa lớn các cơ sở thờ tự, xây dựng mới phải đư­ợc phép của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh...

- Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo: hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nư­ớc. Tổ chức, cá nhân nư­ớc ngoài vào Việt nam để hoạt động ở lĩnh vực không phải là tôn giáo, thì không được phép tổ chức điều hành các hoạt động tôn giáo và truyền bá tôn giáo.



[1]  Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 239- 240.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 


Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin về tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những quan điểm về tôn giáo như sau:

 Tôn giáo là một bộ bộ phận của văn hóa

Đây là cách tiếp cận mới từ góc độ hoạt động sinh tồn của con người trong quá trình tồn tại, phát triển. Theo Hồ Chí Minh: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa."[1]

Các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản vǎn hoá tinh thần quý báu của nhân loại.

Bằng tri thức cách mạng, vốn hiểu biết về vǎn hoá sâu sắc và cái nhìn duy vật biện chứng, Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ, cái cốt lõi nhân vǎn trong các tôn giáo. Người đã viết: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy ".

Vì vậy, không ngạc nhiên khi Hồ Chí Minh - Người cộng sản, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam không dưới một lần ca ngợi những người sáng lập ra các tôn giáo một cách thành kính: Chúa Giê su dạy đạo đức và bác ái. Phật thích ca dạy đạo đức và từ bi. Khổng Tử dạy đạo đức và nhân nghĩa.

 Điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có tính tiến bộ

Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một đặc điểm lớn được Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình trong giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

 Tư tưởng tự do tín ngưỡng, tôn giáo

 Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu dài trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Ngay từ khi mới giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của chính phủ Người đã khẳng định: "Thực dân phong kiến tìm cách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị chính phủ ra tuyên bố "tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết".

Ngày 09-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; trong đó ghi nhận: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”.(6) 

Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam (nǎm 1957), Người khẳng định lại: "Chúng tôi xin nói thêm hai điều, nói rõ để tránh sự hiểu lầm: Một là vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người".

- Tự do tôn giáo gắn liền với độc lập dân tộc

Hồ Chí Minh, nước có độc lập thì tôn giáo mới được tự do, phát triển, "Từ ngày nước ta trở nên dân chủ cộng hòa, Hiến pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng thì Phật giáo cũng phát triển thuận lợi. Thế là: Nước có độc lập, thì Đạo Phật mới dễ mở mang"[2];

"Trong lịch sử Việt Nam, lần này là lần đầu (Nôen 1945) mà đồng bào công giáo ta làm lễ Nôen vui vẻ, sung sướng trong nước Việt Nam độc lập, tự do. Tôi tin chắc rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của các vị giám mục Việt Nam, đồng bào công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập đó"[3]

 Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, Người luôn phê phán nghiêm khắc những thái độ, hành vi xâm phạm, hoặc làm phương hại đến quyền tự do chính đáng đó.

Sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương yêu bà con có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau ở Hồ Chí Minh làm cho những người không cùng quan điểm với Người cũng phải kính phục. Chính ông J.Sainteny đã viết trong cuốn sách "Đối diện với Hồ Chí Minh": "Về phần tôi phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào dù rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế diễu đối với bất kỳ một tôn giáo nào".

 Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những quan điểm của mình mà còn giáo dục cán bộ, Đảng viên cũng như đồng bào lương giáo phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đó.

 Tư tưởng đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc

 Tư tưởng đoàn kết lương giáo là một bộ phận có vị trí quan trọng trong tư tưởng của Người về chiến lược đại đoàn kết dân tộc; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, bao trùm trong tư tưởng của Người đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN ở Việt Nam.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Người nói riêng đã được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa phát huy những giá trị vǎn hoá truyền thống của dân tộc qua hàng ngàn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước, cũng như tiếp thu những tinh hoa vǎn hoá của nhân loại (trước hết là những nguyên lý của ch nghĩa Mác - Lênin), đồng thời vận dụng nó một cách sáng tạo vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nước ta. Vì vậy, tư tưởng đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc của Hồ Chí Minh đã đạt đến đỉnh cao truyền thống đoàn kết của nhân dân ta.

Hồ Chí Minh đã viết: "Đồng bào đều biết rằng: ngày bắt đầu kháng chiến, lực lượng quân sự của Pháp mạnh hơn ta, thế mà ta càng ngày càng thắng lợi. Đó là nhờ sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân và sự hǎng hái tham gia kháng chiến của mọi người giáo cũng như lương"; "Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống ấm no, xây dựng tổ quốc, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả các tôn giáo".

+ Đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo.

+ Đoàn kết giữa đồng bào có các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.

+ Đoàn kết giữa đồng bào trong mỗi tôn giáo trong khối đại đoàn kết.

 Đấu tranh bài trừ mê tin dị đoan và lợi dụng tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và BVTQ

Đối với bọn lợi dụng, mượn danh tôn giáo để chống phá cách mạng, chống phá sự nghiệp của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để đồng bào ta, nhất là đồng bào có đạo nhận rõ bộ mặt của chúng.

Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 do Người ký đã chỉ rõ: "Pháp luật sẽ trừng trị kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngǎn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác hoặc những việc làm trái pháp luật " (Điều 7 - Chương 1).

Hồ Chí Minh chĩ rõ "Cái cần phải xóa? Mê tín hủ tục"; "Ra sức làm cho tốt, cho khéo để xóa bỏ những cái có hại như hủ tục, mê tín dị đoan"[4]

Biện pháp đấu tranh xóa mê tín dị đoan là "nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là để gây tình cảm và sau để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín"[5]

Hồ Chí Minh cho rằng, bộ đội và cán bộ làm cho nhân dân nhiều việc tốt, nhưng vẫn còn nhiều mặt chưa tốt, "chưa phải là đã hết cúng bái mê tín. Ví đó là phong tục tập quán lâu đời. Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ không thể chủ quan, nóng vội, muốn làm hết ngay một lúc"[6]

 



[1] Hồ Chí Minh, tt, t.3, Nxb CTQG,  H.2002, tr.458

[2] Hồ Chí MInh, tt. t.5, Sđd, tr.197

[3] Hồ Chí MInh, tt. t.4, Sđd, tr.121-122

 

[4] Hồ Chí Minh, tt, t11, tr.133- 137

[5] Hồ Chí Minh, tt, t.5, tr.410

[6] Hồ Chí Minh, tt, t.11, tr.133

 

Cần nắm nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo dưới CNXH theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin để có quan điểm, chính sách tôn giáo đúng đắn

 


 Một là, tôn trọng tự do, tín ngưỡng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một khái niệm dùng để chỉ quyền của con người được thực hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi một tín ngưỡng của cá nhân một cách tự do, con người được theo hoặc không theo một tín ngưỡng tôn giáo nào, những quyền tự do đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước hiện hành quy định. 

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền được các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo đảm. Điều 18 trong Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền năm 1948 viết: “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự dạy, hành đạo, thờ phụng, nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”[1]

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”,V.I.Lênin viết “Bất kỳ ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không thừa nhận một tôn giáo nào, nghĩa là được làm người vô thần, như bất cứ người xã hội chủ nghĩa nào cũng thường là người vô thần. Mọi sự phân biệt quyền lợi giữa những công dân có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều hoàn toàn không thể dung thứ được”.

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là xuất phát từ việc tôn trọng tự do tư tưởng - một trong những quyền cơ bản của công dân, chính là tôn trọng niềm tin của tín đồ vào một loại hình tôn giáo nào đó mà họ cần đến, vào một loại hình tín ngưỡng mà họ coi là nhu cầu không thể thiếu. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN.

Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân là cơ sở để đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng. Qua đó để tiến hành vận động quần chúng các tôn giáo và hàng ngũ giáo sĩ, chức sắc tôn giáo tham gia vào các hoạt động tiến bộ, yêu nước do Đảng lãnh đạo, tiến hành các hoạt hoạt động tuyên truyền, giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thế giới quan duy vật khoa học quần chúng… Đồng thời đây là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước XHCN.

Những mặt tiêu cực của tôn giáo phải bị khắc phục và đẩy lùi, dần đến chỗ xoá bỏ hoàn toàn chúng.

Đây là một nguyên tắc nhưng cũng là yêu cầu quan trọng nhất cần phải quán triệt trong công tác giải quyết vấn đề tôn giáo của những người cộng sản. Chỉ có thế tư tưởng của ch nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng khoa học chân chính, chủ đạo trong chủ nghĩa xã hội mới có thể đi sâu vào quần chúng nhân dân, mới tạo được nền tảng cơ sở vững chắc cho công cuộc xây dựng xã hội mới.

Trong Chống Đuy-rinh, Ăngghen đã cực lực phê phán thái độ bài tôn giáo cực đoan của Đuy-rinh: "Trong xã hội tự do, không thể có sự thờ cúng; bởi vì mỗi thành viên của xã hội đều khắc phục được cái quan niệm ấu trĩ nguyên thuỷ cho rằng ở đằng sau thiên nhiên hay bên trên thiên nhiên, có những đấng mà người ta có thể dùng những vật hy sinh hay những lời cầu nguyện để tác động đến". "Vì thế, hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa, được hiểu một cách đúng đắn, phải ... phế bỏ mọi trang bị của sự mê hoặc tinh thần, và do đó, phế bỏ tất cả những yếu tố cơ bản của sự thờ cúng"

Người cho rằng tôn giáo chỉ thực sự mất đi khi xã hội đã được cải tạo hoàn toàn: việc nắm giữ cũng như việc sử dụng các tư liệu sản xuất đã được lên kế hoạch, giúp xã hội tự giải phóng mình và giải phóng mọi thành viên trong xã hội khỏi tình trạng nô dịch và áp bức bất công; khi không còn mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên nữa, mà cả mưu sự và thành sự đều từ con người mà ra cả... khi đó tôn giáo - sự phản ánh thế giới tự nhiên một cách sai lạc trong bộ não con người, sẽ tự mất đi, bởi nó sẽ chẳng còn gì để phản ánh nữa.

 Hai là, phải tuyệt đối không được sử dụng các biện pháp bạo lực để xoá bỏ tôn giáo.

Mác, Ăngghen đã nhận định rất đúng về hậu quả của chính sách đàn áp tôn giáo theo chủ trương của Đuy-rinh: "giúp cho tôn giáo đạt tới chỗ thực hiện tinh thần tử vì đạo và kéo dài thêm sự tồn tại của nó";

V.I.Lênin: "Ăngghen đã coi lời tuyên chiến ầm ĩ của họ (phái Blăng ky) với tôn giáo là dại dột. Tuyên chiến như thế là phương pháp tốt nhất làm khích động thêm sự quan tâm của người ta đối với tôn giáo, và làm cho tôn giáo đi đến chỗ tiêu vong thực sự một cách khó khăn hơn"[2]

Vi phạm nguyên tắc này là cố tình đẩy xã hội tới chỗ phân chia, đẩy những người theo đạo vào chỗ buộc phải chống lại chính quyền nhân dân. Vi phạm nguyên tắc này cũng là đi ngược lại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vi phạm nghiêm trọng tới quyền thiết yếu nhất của con người: quyền được tự do; và trong đó có quyền được tự do theo hay không theo một tôn giáo. Chính quyền nhân dân nào vi phạm nguyên tắc này thì không còn là chính quyền của nhân dân nữa, tổ chức đảng nào vi phạm nguyên tắc này thì không còn là đảng cộng sản nữa. Bên cạnh đó, cần phải không ngừng phát huy những giá trị tốt đẹp, tích cực của tín ngưỡng tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa; cần phải nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.

 Ba là, cần không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó có cả mối liên hệ giữa người theo đạo và những người không theo đạo.

Đó là yêu cầu hàng đầu để xây dựng đất nước và xã hội, nhưng cũng là một cách thức quan trọng để những người theo đạo hoà nhập vào với cuộc sống tích cực của xã hội, để họ dần nhận ra rằng cuộc sống hiện tại là quan trọng nhất, để giúp họ chủ động tham gia vào các hoạt động xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; chứ không phải luôn trong trạng thái thụ động, tiêu cực vì chỉ quan tâm tới việc sống sao bây giờ cho mai sau đến được với " nước Thiên Đường " hay " cõi Niết bàn ".

 Bốn là, không ngừng thực hiện công tác giáo dục tuyên truyền, giúp quần chúng nhân dân hiểu nắm được những lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận rõ những tư tưởng duy tâm là hoàn toàn không có căn cứ.

Việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cũng như thế giới quan duy vật không chỉ đẩy lùi những sai lầm trong nhận thức của tư duy tôn giáo, mà chủ yếu là góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân.

 Năm là, phải kết hợp nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân theo đạo với nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, để tuyên truyền chống phá cách mạng. Cuộc đấu tranh này vừa phải khẩn trương, kiên quyết vừa phải thận trọng và có sách lược đúng, nếu không sẽ dễ dàng bị nhìn nhận là chính sách đàn áp tôn giáo.

     Sáu là: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo.

Khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì chính trị ít nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Và từ đó hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có một quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.

+ Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ, mâu thuẫn giữa cách mạng với phản cách mạng, giữa tiến bộ với phản động, phán ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp và mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động.

+ Mặt tư tưởng phản ánh sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng giữa những người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

+ Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, trong đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Có những hoạt động liên quan đến tôn giáo, chúng ta không thể phân biệt được đâu là mặt tư tưởng, đâu là mặt chính trị. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần túy trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc “hữu” trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tôn giáo. Phân biệt hai mặt này để có chủ trương, phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp những vấn đề liên quan đến tôn giáo.

+ Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước XHCN phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn giáo. Ngày nay, các thế lực phản động đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ CNXH ở các nước XHCN còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp công nhân cần nêu cao cảnh giác, giải quyết kịp thời, cương quyết đối với những hoạt động lợi dụng tôn giáo chống CNXH, nhưng cũng phải hết sức khách quan, chính xác, tránh nôn nóng, vội vàng, chủ quan, định kiến.

Bảy là, phải giải quyết vấn đề tôn giáo trên lập trường quan điểm lịch sử, tức là phải nhìn nhận vai trò, tác động của tôn giáo tới đời sống xã hội trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau là có thể rất khác nhau.

Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, mà nó luôn vận động và biến đổi không ngừng tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế xã hội – lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đối với xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.

Bởi vậy mối quan hệ với tôn giáo cũng cần phải rất linh hoạt và mềm dẻo: có những thời điểm phải biết đoàn kết các tôn giáo để chống lại những kẻ thù chung của cả dân tộc; nhưng trong thời điểm khác phải đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học.



[1] Bộ Công An, Tổng cục an ninh, 05/2009: Kỷ yếu Hội thảo Nhân quyền với vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội,tr.54

 

[2] V.I. Lênin, tt, t.17, Nxb TB, M.1981, tr.511

 

Tôn giáo có tính xã hội, quần chúng sâu sắc

 


Trong Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen, Mác viết: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân".

 Ăng ghen: "Cơ đốc giáo cũng như mọi phong trào cách mạng lớn đều do quần chúng tạo nên"[1]; "Cơ đốc giáo cũng như CNXH hiện đại, nắm lấy quần chúng qua hình thức những giáo phái này khác, qua các hình thức các quan điểm cá nhân mâu thuẫn nhau"[2]

Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo luôn phản ánh ý chí, nguyện vọng của những giai cấp nhất định

Những lực lượng thuộc tầng lớp trên của xã hội, có địa vị, có tiền của và có tri thức hơn, đã biết lợi dụng tôn giáo để bảo vệ và củng cố quyền lợi của mình. Đồng thời tôn giáo nhờ đó được phát triển, mở rộng. Đây là cơ sở hình thành liên minh thần quyền- thế quyền

Một sự kiện quan trọng có thể lấy làm minh chứng cho sự tác động của tầng lớp quý tộc tới tôn giáo, đó chính là sự kiện "Công đồng Nicaea": Hoàng đế La mã là Constantine đã triệu tập hội nghị tất cả các giám mục Kitô giáo tại Nicaea (Thổ Nhĩ Kỳ) năm 325 để biên soạn bộ Kinh Thánh Tân Ước với mục đích chính là để thống nhất các chi nhánh của Kitô giáo, đưa tôn giáo này trở thành công cụ để mê hoặc nhân dân, củng cố quyền lực của bản thân hoàng đế.



[1] Mác, Ăng ghen, t.21, H.1995, tr.438

[2] Mác, Ăng ghen, t.21, H.1995, tr.19

 

Tôn giáo, tín ngưỡng chỉ mất đi khi xuất hiện xã hội cộng sản chủ nghĩa

 

 

 Tôn giáo ra đời cùng với sự phát triển sản xuất và tư duy trừu tượngTrong suốt giai đoạn đầu của thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo vẫn chưa tồn tại, mà chỉ đến cuối thời kỳ này, và sang thời kỳ cổ đại thì những tôn giáo đầu tiên mới bắt đầu hình thành. Đó là do chỉ đến thời kỳ này con người mới có đủ những tri thức để xây dựng, hoàn thiện hệ thống kinh sách và tín điều, mà quan trọng nhất là việc xut hiện chữ viết để ghi chép kinh sách.

Khi xem xét những tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ đầu lịch sử, ta nhận thấy chúng mang nhiều đặc điểm xuất phát từ những tín ngưỡng rất sơ khai. Tôn giáo của người Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp - La Mã hay Giéc-manh..., đều là những tôn giáo đa thần (polytheism) mang màu sắc tín ngưỡng "vạn vật hữu linh"; các thần thánh đều đại diện cho những lực lượng thiên nhiên, và "những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hoá một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp". Là đại diện cho những lực lượng tự nhiên chi phối đời sống con người, thần thánh của các tôn giáo chi phối đời sống con người. Và bắt nguồn từ đó, những lực lượng ch mang tính tự nhiên đã dần mang tính xã hội. Và bắt nguồn từ đó, tôn giáo mang tính giai cấp- khi xuất hiện giai cấp và nhà nước trong xã hội chiếm hữu nộ lệ.

Trong bước nhảy vọt từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà chỉ "dần mất đi ảnh hưởng của nó đối với ý thức xã hội", và "chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tôn giáo mới có thể hoàn toàn biến mất và hoàn toàn bị xoá bỏ khỏi đời sống con người".

Không còn tôn giáo khi xã hội không còn nguồn gốc sinh ra tôn giáo

 


 Nguồn gốc tự nhiên của tôn giáo

V. I. Lênin "sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu"[1]

Nguồn gốc kinh tế- xã hội

V.I. Lênin "Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đã đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, những phép màu"[2]

 Nguồn gốc nhận thức

V. I. Lênin "nhận thức của con người không phải là (không đi theo) một đường thẳng, mà là một đường cong đi gần vô hạn, đến một loạt những vòng tròn đến một vòng xoáy ốc. Bất cứ đoạn nào, mảnh nào, đoạn nào của đường cong ấy cũng có thể chuyển hóa (chuyển hóa một cách phiến diện) thành một đường thng độc lập, đầy đủ, đường thẳng này (nếu chỉ thấy cây, không thấy rừng) sẽ dẫn đến vũng bùn, đến chủ nghĩa thầy tu (ở đây nó sẽ bị lợi ích giai cấp của giai cấp thống trị  củng cố lại). Tính đường thẳng và tính phiến diện, sự chết cứng và cứng nhắc, chr nghĩa chủ quan và sự mù quáng chủ quan đó là những nguồn gốc về nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm"[3]

 Nguồn gốc tâm lý

V.I.Lênin "sự sợ hãi đã tạo ra thần linh"[4]

Như vậy nếu tự nhiên, xã hội, tư duy không xuất hiện nguồn gốc sinh ra tôn giáo, thì tôn giáo sẽ không xuất hiện.



[1] V.I. Lêni, tt, t.12, Nxb TB, M.1979, tr. 169- 170

[2] V.I. Lêni, tt, t.12, Nxb TB, M.1979, tr. 169- 170

[3] V.I. Lêni, tt, t.29, Nxb TB, M.1981, tr.385- 386

[4] V.I. Lêni, tt, t.17, Nxb TB, M.1981, tr.515

 

CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỚI QUAN ĐIỂM ĐÚNG ĐẮN VỀ TÔN GIÁO

 


 Theo quan điểm của Mác thì chính con người đã sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Tôn giáo giống như “thuốc phiện” - bởi cả hai tác dụng của chất này: gây nghiện và giảm đau. Tôn giáo dễ làm đầu óc nhân dân mụ mị, mê muội song nó cũng là “chất giảm đau” xoa dịu nỗi thống khổ của nhân dân. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” Ăngghen khẳng định: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người-những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó các lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật - lịch sử, có thể hiểu tôn giáo là trên phương diện nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

 Trên phương diện nghĩa rộng: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên"

 Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội; sinh ra từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tôn giáo phản ánh xã hội một cách hư ảo, sùng bái lực lượng siêu tự nhiên. Các hiện tượng sấm, chớp, mây mưa được thần thánh hóaĐạo Phật cho rằng vạn vật biến đổi theo chu trình bất tận: sinh-trụ-dị-diệt, bất tận không có điểm khởi đầu không có điểm kết thúc, giống như một vòng tròn luân hồi. Do  vậy chết không phải là hết mà là một sự tái sinh, đầu thai ở một kiếp khác theo vòng luân hồi. Công giáo cho rằng con người là do Chúa tạo ra. Con người có hai phần, thể xác và linh hồn. Thể xác là tạo vật như mọi tạo vật khác, linh hồn là phần sinh khí do Thiên chúa giáo truyền vào. Con người khi chết đi về với cát bụi, linh hồn tồn tại vĩnh viễn.

 Trên phương diện nghĩa hẹp: Tôn giáo là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức về lực lượng siêu nhiên, tổ chức, hoạt động tôn thờ lực lượng siêu nhiên.

Tôn giáo là một thực thể xã hội, một thiết chế xã hội- một lực lượng xã hội có tổ chức. Nó có hệ thống giáo lý, giáo luật, cơ sở thờ tự, giáo dân, tín đồ....

* Tín ngưỡng: Có nghĩa là sự ngưỡng mộ, niềm tin đến mức sùng bái vào một hay một số đấng siêu nhiên, lực lượng siêu tự nhiên nào đó và những sức mạnh có thể thu nhận được từ các đấng siêu nhiên được tin tưởng, ngưỡng mộ đến mức sùng tín.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ các vị anh hùng có công với dân tộc, cộng đồng…

Tín ngưỡng gồm có: tín ngưỡng dân tộc (truyền thống) là loại hình tín ngưỡng của từng dân tộc hoặc quốc gia dân tộc, hoặc vùng miền, địa phương; và tín ngưỡng tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng phát triển đến trình độ cao, thể hiện ở chỗ có hệ thống giáo lý, hệ thống tổ chức, lễ nghi và hệ thống cơ sở vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo.

* Mê tín dị đoan: Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông quá mức, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Dị đoan là sự suy đoán một cách nhảm nhí, tùy tiện, sai lệch những điều xảy ra trong cuộc sống. Mê tín dị đoan là chỉ những hành động sai lệch quá mức, gây tổn hại cho cá nhân và cộng đồng, được tạo ra bởi niềm tin mù quáng, nhảm nhí, mê muội… Đây là một biến tướng của tín ngưỡng.

Các hiện tượng: bói toán, lên đồng, gọi hồn, chữa bệnh bằng gọi thầy cúng, trừ tà ma…

Như vậy, tín ngưỡng tôn giáo và mê tín dị đoan đều là niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh của con người. Nhưng đây là các hiện tượng tâm linh có nội dung, hình thức, đặc điểm và vai trò xã hội khác nhau, cần phải được phân biệt để có chính sách, biện pháp phù hợp

Theo đó, chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ ra bản chất của tôn giáo, đó là:

Tôn giáo, tín ngưỡng là sản phẩm của con người, con người đã sáng tạo ra tôn giáo, tín ngưỡng; Tín ngưỡng, tôn giáo phản ánh xuyên tạc, hư ảo hiện thực khách quan thành lực lượng siêu tự nhiên, là "thế giới quan lộn ngược"

Ăng ghen: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ảnh hư ảo- vào đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống của họ; là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức lực lượng siêu trần thế"[2]; Sự phản ánh này biểu hiện sự khốn cùng hiện thực và sự phản kháng tiêu cực của tầng lớp nhân dân bị áp bức

Mác, Ăng ghen: "Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[3].; Tôn giáo làm cho con người trở nên thụ động, cam chịu và tha hóa

Mác, Ăng ghen: "tính có thượng đế" trong lịch sử càng lớn bao nhiêu, thì tính phi con người, tính súc vật càng lớn bấy nhiêu. Thời trung cổ "có Thượng đế" cũng đã dẫn đến chỗ làm cho con người trở thành hoàn toàn như dã thú, dẫn đến chế độ nông nô"[4].

V. I. Lênin: "thứ rượu tinh thần làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách của con người và quên hết những điều họ đòi hỏi để được sống cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người".

 Tôn giáo cũng chứa những giá trị đạo đức, văn hóa nhất định phù hợp với sự phát triển của CNXH- xã hội văn minh, tiến bộ.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, tt, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr. 570

 

[2] Mác, Ăng ghen, t.20, H.1995, tr.437

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr. 570

[4] Mác, Ăng ghen, t.1, H.1995, tr.819