Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ - căn nguyên dẫn đến suy thoái

 

Tập trung dân chủ (TTDC) là nguyên tắc tổ chức cơ bản, là cơ sở bảo đảm hàng đầu để giữ vững bản chất cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Việc xem nhẹ, hạ thấp cũng như nhận thức không thấu đáo, thực hiện không đến nơi đến chốn nguyên tắc này không chỉ làm tổn hại đến vị thế, sức mạnh của Đảng, mà còn là một trong những căn nguyên dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.Một số quan chức cao cấp bị cách chức vì vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. TTDC là một trong những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức cộng sản và là một trong những đặc trưng cốt lõi để phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các đảng phái chính trị khác. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định TTDC là nguyên tắc cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong mọi tổ chức và hoạt động của Đảng. Vấn đề căn cốt này đã trang bị cho học viên tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức về Đảng và chuẩn bị đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Đối với tổ chức đảng các cấp, việc tuân thủ, thực hiện TTDC không chỉ là nguyên tắc lãnh đạo, hoạt động và sinh hoạt Đảng, mà còn là điều kiện bảo đảm để phát huy trí tuệ tập thể, mở rộng dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Nhận thức chung là như vậy, nhưng thời gian qua, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng đã “vi phạm nguyên tắc TTDC, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành”, một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã chỉ ra.

Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ - căn nguyên dẫn đến suy thoái

Sự vi phạm nguyên tắc TTDC biểu hiện ở nhiều khía cạnh, nhưng dễ thấy nhất là hiện tượng tách rời giữa tập trung và dân chủ; lợi dụng sự tập trung để lấy tập thể làm “bình phong” che chắn, lấp liếm nhằm “ý chí hóa cá nhân lãnh đạo” dẫn tới các hành vi độc đoán, gia trưởng của người lãnh đạo. Trong khi đó, phần vì nể nang, xuê xoa, dễ dãi; phần khác do ngại va chạm, lại đoàn kết theo kiểu hình thức, xuôi chiều và không loại trừ cả tư tưởng “lợi ích nhóm” mà các thành viên trong ban thường vụ, cấp ủy ở một số nơi đã bị “định hướng, lèo lái” theo ý chí của người lãnh đạo. Thực tế cho thấy, không ít chủ trương, nghị quyết của ban thường vụ, cấp ủy đã không được bàn bạc, thảo luận thấu đáo ở mọi khía cạnh, nên khi ban hành và đi vào cuộc sống hoặc chưa phát huy tác dụng và mang lại hiệu quả như mong muốn, hoặc đã bị “nhóm lợi ích” chi phối dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Đáng báo động hơn, sự vi phạm nguyên tắc TTDC không chỉ xảy ra ở những tổ chức đảng cơ sở thường có một bộ phận cán bộ, đảng viên trình độ, hiểu biết hạn chế, mà xảy ra ở cả ban thường vụ, cấp ủy cấp huyện, cấp tỉnh, cấp ngành Trung ương. Thời gian gần đây, dư luận xã hội không khỏi quan ngại trước những vụ sai phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng liên quan đến nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ cao cấp của Đảng đều có một nguyên nhân chủ yếu là xa rời, thậm chí làm biến dạng, méo mó bản chất của nguyên tắc TTDC.

Trung ương đã kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2010-2015; Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015-2020; Ban cán sự đảng Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2011-2016; Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông nhiệm kỳ 2011-2016… vì các tổ chức đảng này đã có biểu hiện vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy. Ngoài ra, nhiều cấp ủy cũng bị đề nghị xem xét, thi hành kỷ luật vì lý do vi phạm nguyên tắc TTDC, như: Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an); Ban Thường vụ Huyện ủy Hướng Hóa (Quảng Trị) nhiệm kỳ 2015-2020…

Đáng nói hơn, không ít cán bộ cao cấp, nguyên cán bộ cao cấp của Đảng đã bị cách chức, xóa chức như các ông: Nguyễn Xuân Anh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng; Phạm Văn Vọng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; Lê Phước Thanh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam; Vũ Huy Hoàng, nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương; Nguyễn Bắc Son, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Nguyễn Phong Quang, nguyên Phó trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ; Trần Văn Minh, nguyên Phó bí thư Thành ủy, nguyên Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng… Những cán bộ cao cấp này đều có chung một vi phạm, khuyết điểm đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ ra là: “Vi phạm nguyên tắc TTDC” và có biểu hiện thiếu dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Mới đây, một trong những vi phạm rất nghiêm trọng đến mức phải xem xét, thi hành kỷ luật đối với ông Tất Thành Cang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Thường trực Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận, cũng liên quan đến khuyết điểm “Vi phạm nguyên tắc TTDC”.

Tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ để giữ vững sức mạnh lãnh đạo của Đảng

Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng bao trùm, cơ bản và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc TTDC thì bắt buộc mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải chấp hành, thực hiện đến nơi đến chốn. Nguyên tắc này được ví như “la bàn” có vai trò định hướng cho đội ngũ đảng viên khép mình vào khuôn khổ tổ chức, tự giác chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị và quy định của Đảng. Nếu xem nhẹ, xa rời hoặc nhận thức không đúng, thực hiện không thấu đáo, hành xử thiếu nhất quán nguyên tắc này sẽ khiến cán bộ, đảng viên “đi chệch" quỹ đạo, từ đó có thể dẫn đến nhiều khuyết điểm, vi phạm trong công tác và trong sinh hoạt Đảng. Hàng loạt tổ chức đảng, đảng viên, nhất là những cán bộ cao cấp của Đảng bị cách chức, bị kỷ luật nêu trên, là minh chứng sinh động, rõ ràng nhất về việc xa rời nguyên tắc TTDC.

V.I. Lênin, một trong những lãnh tụ của giai cấp công nhân trên toàn thế giới, người đầu tiên nhắc tới khái niệm “tập trung dân chủ” đã giải thích rằng, một trong những nội dung chính của nguyên tắc này là mọi đảng viên được tự do trong thảo luận nhưng phải thống nhất trong hành động. Là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Chỉ có sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức, ý chí và hành động mới bảo đảm cho Đảng thể hiện và thực hiện sứ mệnh cầm quyền của mình trong xã hội.

Một câu hỏi đặt ra là: Tại sao một nguyên tắc tổ chức cao nhất của Đảng lại không được tuân thủ, thực hiện nghiêm túc ở nhiều cấp ủy, tổ chức đảng? Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng này, nhưng lý do chủ yếu là không ít cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy vừa không bám sát vào các nội dung nguyên tắc, quy chế làm việc của cấp ủy, thiếu bàn bạc dân chủ trong nội bộ, vừa lợi dụng vị trí, chức trách, quyền hạn được giao để có những biểu hiện áp đặt ý kiến chủ quan cá nhân khiến nguyên tắc bị vi phạm, méo mó. Một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc TTDC là thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nhưng một số cán bộ chủ chốt của cấp ủy, chính quyền và các cơ quan, ban, ngành vì động cơ, mục đích vụ lợi mà không thực sự tôn trọng, phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể, né tránh sự giám sát của tập thể và đề cao quá mức vai trò cá nhân dẫn đến hiện tượng mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền.

Vì vậy, vấn đề cấp bách, mấu chốt hiện nay để đưa nguyên tắc TTDC vào đúng quỹ đạo của nó, cũng như bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện triệt để, hiệu quả ở mọi cấp ủy, tổ chức đảng là phải sớm ban hành và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Không có cơ chế kiểm soát quyền lực, nguyên tắc TTDC của Đảng vẫn rất dễ bị nhiều nơi, nhiều cán bộ lãnh đạo làm biến dạng, méo mó quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước, biến quyền lực công thành quyền lực tư, từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy khôn lường cho tổ chức đảng và dễ làm tổn thất cán bộ.

Lịch sử của các đảng cộng sản và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, cũng như bài học đổ vỡ, tan rã, biến chất của nhiều đảng cộng sản ở châu Âu cho chúng ta bài học “xương máu”: Ở đâu, khi nào mà các lãnh tụ, người lãnh đạo, người đứng đầu của các đảng cộng sản và tổ chức đảng luôn tuyệt đối tuân thủ, coi trọng chấp hành và thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả nguyên tắc TTDC, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thì ở đó, lúc đó, đảng cộng sản giữ được vị thế, vai trò, sức mạnh lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội.

TTDC là nguyên tắc sống còn của đảng cộng sản. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm một trong những vấn đề cốt lõi thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ những bài học kỷ luật liên quan đến nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ cao cấp của Đảng thời gian qua cho thấy, đã đến lúc các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng phải quan tâm hơn nữa việc tuyên truyền, phổ biến, học tập nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ, đảng viên về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung của nguyên tắc TTDC; đồng thời vừa chú trọng mở rộng, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường siết chặt kỷ cương, kỷ luật Đảng; kiên quyết ngăn chặn, xử lý kịp thời những biểu hiện manh nha vi phạm nguyên tắc này. Bên cạnh đó, cần phải phòng, chống, đấu tranh với mọi biểu hiện tập trung hà khắc, độc đoán, chuyên quyền, cũng như các biểu hiện dân chủ tùy tiện, vô tổ chức, vô chính phủ. Chỉ có như vậy mới góp phần củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, bảo đảm cho vai trò lãnh đạo và sức mạnh của Đảng được thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến chi bộ.

Vun trồng cho nguyên khí thịnh

 

Tính đến nay, cơ quan điều tra các cấp đã khởi tố hơn 70 bị can liên quan đến vụ nâng khống giá sinh phẩm xét nghiệm Covid-19 xảy ra tại Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á) và các đơn vị, địa phương liên quan.

Trong số các bị can, có nhiều người là trí thức, có học hàm, học vị cao, từng có đóng góp lớn, quan trọng cho khoa học. Nhìn lại công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các vụ án tham nhũng, tiêu cực đã được điều tra, xử lý từ nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã có hàng trăm trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam. Đó là một mất mát rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng để nguyên khí quốc gia hưng thịnh thì không thể có vùng cấm, không thể có ngoại lệ...

Khi trí thức suy thoái

Trong vụ án tham nhũng, tiêu cực liên quan đến Công ty Việt Á, y tế và khoa học công nghệ là những ngành bị thiệt hại nặng nề nhất về nguồn nhân lực khi có hàng loạt trí thức và đảng viên trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam phục vụ công tác điều tra. Trong số đó, nhiều người có học hàm, học vị cao, có trình độ cao cấp lý luận chính trị; được phong tặng danh hiệu cao quý; giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt các cấp ở bộ, ngành, địa phương. Nghiên cứu quá trình học tập, công tác của những trí thức thuộc lớp tinh hoa này, dư luận xã hội không khỏi tiếc nuối. Tiếc là bởi, trước khi các hành vi tham nhũng, tiêu cực bị phát hiện, họ từng có quá trình học tập, công tác, cống hiến đáng ngưỡng mộ. Nhiều đề tài khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các cá nhân và nhóm tác giả có họ tham gia đều có tính ứng dụng, giá trị thực tiễn cao. Không ít người đang là “hạt giống đỏ”, nằm trong quy trình cơ cấu, bổ nhiệm các chức vụ cao hơn trong công tác cán bộ. Nếu biết giữ mình trong sạch, không sa ngã trước những cám dỗ vật chất, không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những trí thức ấy thực sự là tài sản quý góp phần làm nên nguyên khí quốc gia. Họ không chỉ đóng góp cho khoa học trên cương vị, chức trách được giao mà còn tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực kế cận và kế tiếp cho đất nước.

Vun trồng cho nguyên khí thịnh

Cũng chính vì có cảm giác tiếc nuối ấy nên trong dư luận xã hội đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính cực đoan, võ đoán, tiêu cực. Họ cho rằng, tham nhũng, tiêu cực là do cơ chế quản lý. Rằng, muốn chống tham nhũng, tiêu cực thì phải thay đổi từ gốc, tức là từ cơ chế quản lý của Nhà nước, từ chủ trương, đường lối của Đảng. Nếu chỉ chống bằng điều tra, bắt bớ, thì “tra đâu sai đó”, “khui đâu dính đó”... Thậm chí, một số người nhân danh “đấu tranh phản biện” còn cho rằng, trí thức Việt Nam đang vào thời kỳ “mạt vận”, rằng nếu cứ bắt nhiều như thế, đất nước sẽ rất khó thu hút, giữ chân hiền tài...

 

Đảng ta rất coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là một trong những quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy, khi hàng loạt trí thức, trong đó có nhiều trí thức giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt vướng vào vòng lao lý, các phần tử cực đoan có tư tưởng chống đối đã nhân cơ hội “té nước theo mưa”. Những quan điểm cực đoan, sai trái từ một số đối tượng trong nước và đối tượng lưu vong ở nước ngoài đã được các thế lực thù địch tập trung khai thác. Họ lấy đó làm cái cớ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền, công kích, chống phá Đảng và Nhà nước, đòi thay đổi thể chế chính trị, cổ xúy đa nguyên, đa đảng, kích động đội ngũ trí thức từ bỏ Đảng, quay lưng với lợi ích quốc gia-dân tộc...

Chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên của suy thoái

Danh sĩ Thân Nhân Trung từ thế kỷ 15 đã khái quát: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp...”. Bên cạnh đề cao vai trò của hiền tài, danh sĩ nổi tiếng thời hậu Lê cũng đã chỉ ra những nguy cơ, biểu hiện sa ngã, tiêu cực có thể khiến hiền tài trở thành tội đồ của đất nước. Ông viết: “... Trong số đó cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng, hoặc sa ngã vào cùng loại với bọn gian ác... Thảng hoặc chỉ tu sức văn vẻ bên ngoài, đức hạnh thiếu thốn bên trong, điều thấy không bằng điều nghe, việc làm trái với điều học, hạnh kiểm sa sút, danh giáo nhuốc nhơ...”.

Nêu một dẫn chứng như vậy để thấy, sự tha hóa đạo đức trong đội ngũ hiền tài không chỉ là mặt trái của xã hội thời nay mà nó đã tồn tại, diễn biến song song với sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, các triều đại lịch sử. Bởi trí thức là tầng lớp được xã hội trọng vọng, nên nếu không giữ vững tư cách, phẩm chất, không thấy rõ bổn phận, trách nhiệm phụng sự quốc gia, phụng sự nhân dân thì rất dễ sa ngã. Và khi sa ngã là trí thức đã tự đẩy mình xuống “cùng loại với bọn gian ác”, “danh giáo nhuốc nhơ”... Nguyên nhân là bởi: “Chỉ tu sức văn vẻ bên ngoài, đức hạnh thiếu thốn bên trong, điều thấy không bằng điều nghe, việc làm trái với điều học...”.

Ngẫm thông điệp của ông cha, soi rọi trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay mới thấy, đó đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Sự suy thoái của trí thức và đảng viên trí thức cũng chính từ căn nguyên ấy mà ra. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: "Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân".

Chăm lo vun trồng, diệt trừ sâu bệnh

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, mở rộng cơ chế, tạo điều kiện để các nhà khoa học, đội ngũ trí thức tham gia ngày càng nhiều hơn, sâu hơn vào các hoạt động kinh tế-xã hội, giữ các cương vị chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp, nhất là ở các bộ, ngành. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học... Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học”... Đảng ta chủ trương phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài.

Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa, phát triển tư tưởng của tiên tổ, ông cha, lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên, củng cố sự bền vững của quốc gia... Với tinh thần lấy xây để chống, xây kết hợp với chống, muốn vun trồng cho nguyên khí hưng thịnh, bên cạnh các chính sách trọng dụng, đãi ngộ ngày càng cao, Đảng luôn coi trọng phòng, chống suy thoái, tiêu cực. Diệt trừ sâu bệnh là việc không thể thiếu trong quá trình vun trồng, chăm sóc cho nguyên khí quốc gia.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Đảng ta đã mở rộng phạm vi xây dựng, chỉnh đốn cả trong hệ thống chính trị. Cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực diễn ra ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã đưa thêm yếu tố tiêu cực vào chứ không phải chỉ có phòng, chống tham nhũng. Tiêu cực ở đây rất rộng nhưng chủ yếu là sự suy thoái về phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...

 

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay đã bám sát quan điểm chỉ đạo được nêu rõ trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đó là: Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội...

Như vậy, việc đấu tranh để lôi ra những thành phần suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ trí thức và đảng viên trí thức là chủ trương được thể hiện rất rõ trong các nghị quyết của Đảng. Đây là cuộc đấu tranh nhằm làm trong sạch đội ngũ, để trí thức Việt Nam thực sự là đội ngũ vừa có đức, vừa có tài, là cách vun trồng cho nguyên khí thịnh. Những luận điệu suy diễn, lấy cớ nhiều trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam do tham nhũng, tiêu cực rồi quy chụp, chỉ trích do Đảng lãnh đạo, cơ chế quản lý yếu kém là thủ đoạn đánh tráo khái niệm của các thế lực thù địch và các phần tử phản động. Trước các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, kích động kiểu “nội công ngoại kích” nhắm vào đội ngũ trí thức, nhằm làm phân hóa, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ trí thức và đảng viên trí thức, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện, có biện pháp đấu tranh, phản bác. Chúng ta cần nhận thức đúng bản chất vấn đề để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự trong sạch và củng cố vị thế, vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng đất nước hùng cường.

Sứ mệnh tiên phong của những tài năng lớn

 

Nói đến người nổi tiếng (NNT) là nói đến tài năng. Những tài năng lớn của thời đại đồng thời là những nhân cách lớn. Để xây dựng đất nước hùng cường, không thể thiếu vai trò của nhân tài.Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, làm thất bại mọi âm mưu, chiến lược chống phá của các thế lực thù địch, không thể thiếu vai trò của những tài năng lớn. Phấn đấu có nhiều tài năng lớn trong đội ngũ NNT vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp, được Đảng ta đặc biệt quan tâm...

Phấn đấu có nhiều tài năng lớn

Như các bài trước đã đề cập, chưa bao giờ đất nước ta có lực lượng NNT đông đảo như hiện nay. Đơn cử trong lĩnh vực văn học, hiện cả nước có hơn 1.000 nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bên cạnh đó là một lực lượng sáng tác đông đảo thuộc hội văn học-nghệ thuật các địa phương và một số lượng lớn người sáng tác tự do. Trong số đó có nhiều cây bút nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn đến đông đảo công chúng. Hằng năm, số đầu sách về lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, văn học xuất bản ra thị trường lên đến con số hàng nghìn. Số lượng tác giả, tác phẩm rất nhiều, nhưng lại hiếm tác phẩm đỉnh cao. Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 của Đảng đã đánh giá: “Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người...”.

Chúng ta đều biết, việc đánh giá tài năng, công trạng của tác giả phải thông qua tác phẩm, công trình sáng tạo. Thiếu vắng những tác phẩm tầm cỡ thời đại, đồng nghĩa chúng ta đang thiếu những tài năng lớn. Đó có thể là những nhân tố chưa xuất hiện, có thể là những tiềm năng chưa được khai mở, phát huy. Để có tác phẩm lớn, phải bắt nguồn từ chăm lo xây dựng, bồi dưỡng để đất nước xuất hiện những tài năng lớn. Với phương châm lấy xây để chống, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi phải có những tác phẩm đỉnh cao trong môi trường văn hóa, văn học, nghệ thuật để thực hiện sứ mệnh định hướng tư tưởng, định hướng thẩm mỹ, bồi đắp lý tưởng của Đảng cho công chúng.

Bài 4: Sứ mệnh tiên phong của những tài năng lớn (tiếp theo và hết)

 Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của tác giả, tác phẩm mang tầm thời đại, Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 của Đảng đặt mục tiêu, giải pháp rất cụ thể: “Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà”... “Phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay...”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh giải pháp: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.

Như vậy, để có nhiều tài năng lớn, không thể trông chờ vào quy luật vận động của thị trường, mà phải có chiến lược ươm mầm, đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, khoa học. Tài năng lớn chỉ có thể xuất hiện ở một nhân cách lớn, đó là người được giáo dục chu đáo về đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo, là người sở hữu nguồn năng lượng nội sinh được chưng cất, thăng hoa từ tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và truyền thống của tiên tổ, ông cha. Tài năng lớn là sứ giả của văn hóa dân tộc, giữ sứ mệnh tiên phong ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ NNT và đời sống xã hội; củng cố, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới...

Xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của Đảng và nhân dân

Chính sách ưu đãi, trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế đã sản sinh ra những tài năng lớn trên lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Sự góp mặt của những doanh nhân, nhà khoa học có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng góp phần giúp nền kinh tế đất nước khởi sắc, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động.

Quan điểm của Đảng ta rất rõ ràng, đó là đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước hùng cường. Vì vậy, để lĩnh vực văn hóa, tư tưởng có nhiều tài năng lớn, giữ vai trò tiên phong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Đảng trong lĩnh vực này cần được cụ thể hóa, đi và cuộc sống ngay từ cơ sở.

Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy trong mọi giai đoạn lịch sử, Đảng và Bác Hồ đều rất quan tâm, chăm lo thu hút, trọng dụng nhân tài. Nhờ đó, trong những giai đoạn khó khăn nhất, đất nước vẫn có một đội ngũ tài năng lớn. Sự đóng góp của họ đã tạo sức mạnh đột biến, đột phá, góp phần giúp chúng ta giành chiến thắng trên các chiến trường, trên các mặt trận, trong đó mặt trận tư tưởng chính trị, văn hóa giữ vai trò là nền tảng.

Những tài năng lớn được sử sách lưu danh, dân tộc tôn vinh như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Văn Cao, Thanh Tịnh... không chỉ là những văn nghệ sĩ nổi tiếng mà tác phẩm của họ còn mang thông điệp, tư tưởng thời đại, có ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan, ý thức hệ của các tầng lớp nhân dân. Đáng chú ý là, trong số nhiều tài năng lớn, có những người từng dao động, ngả nghiêng về tư tưởng, nhưng khi thay đổi ý thức hệ, họ đã một lòng một dạ đi theo Đảng phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Năm 1947, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ cam go, quyết liệt, để giúp đất nước và lực lượng kháng chiến có được những tài năng lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”. Người nghiêm khắc chấn chỉnh tư tưởng, nhận thức lệch lạc, cực đoan trong thu hút, trọng dụng nhân tài. Người viết: “Rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Chúng ta phải tẩy sạch các bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện”. Học tập, vận dụng phong cách “Sửa đổi lối làm việc” của Bác, trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nhất là từ những nhiệm kỳ đại hội gần đây, với chủ trương hòa hợp dân tộc, Đảng ta ngày càng coi trọng thu hút nhân tài trong cộng đồng kiều bào. Chỉ tính riêng trong nghệ thuật điện ảnh, nhiều nghệ sĩ Việt kiều trở về nước hoạt động sáng tạo góp phần giúp nghệ thuật thứ bảy khởi sắc, có một số tác phẩm điện ảnh vươn tầm quốc tế. Đó là những tín hiệu đáng mừng.

Tài năng trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, văn học, nghệ thuật của người Việt Nam không thiếu. Nhưng để có những tài năng lớn, từ đó cho ra đời những tác phẩm mang tầm thời đại, phản ánh sinh động, xứng tầm vóc công cuộc đổi mới vĩ đại của đất nước trong hơn 35 năm qua, đòi hỏi những tài năng ấy phải có một tầm văn hóa, tầm tư tưởng, tầm nhân cách lớn.

Muốn có điều đó, phải bắt đầu từ công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Đẩy mạnh việc giáo dục, đào tạo, trang bị lý luận chính trị vững chắc, bồi dưỡng truyền thống văn hóa dân tộc, tinh thần yêu nước cho đội ngũ NNT là một trong những vấn đề ưu tiên cần làm hiện nay. Đảng ta xác định: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong toàn dân, thì tinh thần ấy, ý chí ấy, khát vọng ấy cần được thổi bùng lên thành nhu cầu tự thân và khát vọng của những NNT. Tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chủ quản; các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội... các cấp với vai trò quản lý, “bà đỡ” của NNT, cần cụ thể hóa chủ trương của Đảng, xác định rõ phương hướng, kế hoạch, chương trình hành động sát thực, phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng tài năng, đón đợi sự xuất hiện của nhiều tài năng lớn.

Với tinh thần lấy xây để chống, khi NNT ý thức rõ trách nhiệm xã hội, khi tài năng lớn là ngọn cờ tiên phong, chúng ta sẽ củng cố vững chắc ý thức hệ của Đảng trong đội ngũ NNT, tạo bức tường thành tư tưởng chính trị vững chắc, ngăn chặn suy thoái, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nổi tiếng, tai tiếng và vết trượt suy thoái

 

Mọi thời đại từ cổ chí kim, người nổi tiếng (NNT) luôn có vị thế quan trọng. Phong cách, lối sống của NNT có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.

Ngày nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin (CNTT) và không gian mạng, quan niệm về NNT, phạm vi hoạt động, tầm ảnh hưởng của NNT có sự chuyển đổi căn bản. Ở nước ta, chưa bao giờ NNT có môi trường tự do sáng tạo, có điều kiện khẳng định năng lực, cống hiến cho xã hội thuận lợi như ngày nay. Chính vì vậy, bên cạnh thể hiện trách nhiệm xã hội, NNT phải có bổn phận tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng...

Người nổi tiếng - họ là ai?

NNT là một bộ phận công dân được coi là tinh hoa của xã hội. Quan niệm về NNT ở mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi hoàn cảnh xã hội... có sự chuyển dịch, tiếp biến riêng trong nội hàm. Chính vì vậy, quan điểm chính trị, xu hướng sáng tạo, mục tiêu cống hiến... của NNT không thể tách rời hệ tư tưởng của đảng cầm quyền và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. “Bách khoa toàn thư mở” trên internet giải thích thuật ngữ NNT gồm hai trường nghĩa như sau: NNT hay “celeb” ý chỉ một cá nhân hay một nhóm người có danh tiếng, được công chúng thừa nhận một cách rộng rãi, được các phương tiện truyền thông đại chúng chú ý đến. Họ có thể là các danh y, danh thủ, danh họa, danh ca, danh hài... NNT hay danh nhân, nghĩa là người có danh tiếng bởi có công trạng với xã hội và được xã hội ghi nhận. Họ có thể là những nhà văn hóa, nhà quân sự, nhà khoa học...

Như vậy, nói đến NNT là nói đến những con người có danh tiếng, hoạt động và lao động nghề nghiệp của họ có sự nổi trội, vượt trội về tài năng, thành tích, hiệu quả cống hiến, có công trạng với xã hội, được đông đảo công chúng biết đến và được xã hội ghi nhận, tôn vinh.

Trong mọi hoạt động kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội... NNT giữ vị thế quan trọng, đặc biệt là việc quảng bá hình ảnh đất nước, xây dựng và quảng bá thương hiệu, sứ giả văn hóa, xúc tiến phát triển du lịch, thu hút đầu tư, công tác từ thiện xã hội... Trong các hoạt động, sự xuất hiện, tham gia của NNT như là một hình ảnh bảo chứng, bảo trợ cho giá trị chất lượng và mức độ lan tỏa của sự kiện, lĩnh vực được công chúng, xã hội quan tâm.

Trước đây, khi CNTT, internet chưa phát triển, trong đời sống văn hóa, tinh thần, tâm lý xã hội, NNT xuất hiện và được công chúng biết đến nhiều nhất là những lãnh tụ, anh hùng, chiến sĩ, những tên tuổi tài năng trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật, thể thao... Nhiều NNT đã đi vào sử sách, neo lại trong nền văn hóa dân tộc thành những hình tượng kinh điển, trở thành tấm gương sáng về đạo đức, tài năng, công trạng đối với đất nước, được xã hội vinh danh. Những tên tuổi lớn trên các lĩnh vực, có công lao đóng góp to lớn cho đất nước đều có sức sống vượt thời gian, trở thành giá trị bất biến, được hậu thế tự hào học tập, noi theo...

Trong thời đại bùng nổ CNTT và internet, quan niệm về NNT được mở rộng hơn, phạm vi xuất hiện của NNT đa dạng, phong phú hơn với tốc độ nhanh hơn. Bên cạnh những lĩnh vực truyền thống, ngày nay, có nhiều NNT trong giới doanh nghiệp, doanh nhân, những người tham gia hoạt động xã hội, người có hành động dũng cảm, phi thường... Sức lan tỏa của không gian mạng có thể làm cho một cá nhân hay một nhóm người nào đó từ chỗ vô danh đến nổi tiếng chỉ trong khoảnh khắc. Đó có thể là một anh tài xế có hành động phi thường, cứu mạng em bé rơi từ tầng cao xuống đất. Đó là anh chiến sĩ cảnh sát dũng cảm cứu được cả nhóm thanh niên đuối nước khi đi tắm biển. Đó là anh bộ đội quên mình cứu dân trong lũ quét... Cũng có những nghệ sĩ không hẳn tài năng hơn đồng nghiệp, nhưng lại nổi tiếng hơn nhiều nhờ những hoạt động từ thiện nhiệt tâm, nhiệt thành và hiệu quả...

Bài 1: Nổi tiếng, tai tiếng và vết trượt suy thoái

Với sự bùng nổ công nghệ thông tin và không gian mạng, quan niệm về người nổi tiếng có sự chuyển đổi căn bản. Ảnh minh họa: linkedin.com

 Hội chứng "ăn theo" và mầm mống suy thoái

Cho dù ở thời đại nào, hoàn cảnh xã hội nào thì NNT được xã hội công nhận, tôn vinh phải là người có đức, có tài, có cống hiến vì sự phát triển của đất nước. Nhấn mạnh những yếu tố này để phân biệt NNT với những thành phần có thể được nhiều người biết đến, rất “nổi” nhưng không có công trạng, không đóng góp cho sự phát triển của xã hội thì đó không phải là NNT.

Trên thực tế, một bộ phận không nhỏ truyền thông và công chúng trên không gian mạng hiện nay đang có sự nhầm lẫn về vấn đề này. Câu chuyện liên quan đến bà Nguyễn Phương Hằng ở Bình Dương là một ví dụ. Trước khi bị cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự, bà Hằng là nhân vật tạo "sóng gió" trên không gian mạng bằng những buổi livestream với lượng người tương tác, theo dõi lên đến hàng chục vạn lượt. Nhiều người đã coi bà Hằng là NNT, bày tỏ thái độ ngưỡng mộ một cách cực đoan, thái quá, hùa vào cổ xúy khiến bà Hằng ngộ nhận năng lực bản thân, ngộ nhận quyền lực “ảo”, gây ra những hệ lụy không nhỏ cho môi trường văn hóa và an ninh trật tự.

Những hành vi vi phạm pháp luật của bà Hằng sẽ được điều tra, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Điều đáng tiếc là vì sự tò mò, ngộ nhận, nhận thức lệch lạc và vì một lợi ích nào đó nên đã có một số cán bộ, trí thức, trong đó có người là tiến sĩ, giảng viên, luật sư... tham gia giúp sức, tiếp tay cho hành vi sai trái này. Xét về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, hành vi tiếp tay cho việc làm sai trái này là một biểu hiện suy thoái của cán bộ, công chức. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ hành vi này là: “Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân...”.

Môi trường số và đời sống không gian mạng đã sản sinh ra không ít những trường hợp tương tự, với quy mô, tính chất khác nhau. Một anh nông dân làm vườn có giọng hát nghêu ngao gây cười lập tức nổi đình nổi đám trên không gian mạng. Một thanh niên phong cách mang mặc, đầu tóc dị hợm, phát ngôn gây sốc cũng lập tức trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý. Một cán bộ có thái độ bất mãn với tổ chức, sau khi nghỉ hưu, nghỉ việc, có những phát ngôn mang tính chỉ trích cũng lập tức nổi như cồn...

Những trường hợp tương tự như đã dẫn, đúng là có “tiếng” và rất “nổi”, nhưng không thể xếp họ vào đội ngũ NNT. Thực chất, họ là những người “tai tiếng”, gây chú ý bằng chiêu trò, scandal... Những gì họ tạo ra không mang lại lợi ích cho cộng đồng, đất nước, ngược lại còn làm rối ren môi trường văn hóa và an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và quần chúng. Đáng bàn là một bộ phận công chúng lại coi họ là NNT, trong đó có cả đảng viên, trí thức, công chức, đoàn viên, thanh niên... trong hệ thống chính trị. Do nhận thức lệch lạc, tư duy lệch chuẩn nên không ít người đã hùa theo những hành vi lập dị, sai trái, góp thêm tác nhân làm phức tạp đời sống xã hội, tạo cớ cho thế lực thù địch thực hiện các chiến dịch tuyên truyền chống phá đất nước.

Trong bối cảnh Đảng ta quyết liệt xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ và đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị cần có nhận thức thấu đáo, đầy đủ về nguy cơ, biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đã mở rộng phạm vi xây dựng, chỉnh đốn, phòng, chống suy thoái không chỉ trong tổ chức đảng các cấp mà cả trong hệ thống chính trị, không chỉ cán bộ, đảng viên mà cả tầng lớp công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống chính trị. Đảng xác định phải kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực diễn ra ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Tiêu cực ở đây chủ yếu là sự suy thoái về phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...

Việc cán bộ, trí thức, công chức, viên chức... dù trực tiếp hay gián tiếp cổ súy cho các hành vi sai trái, tiếp tay cho những thành phần tai tiếng trong đời sống xã hội, lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân... là hành vi tiêu cực, biểu hiện của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần có nhận thức đúng, không có bất cứ cá nhân, tổ chức nào, dù nổi tiếng đến đâu, có quyền đứng trên luật pháp, đứng ngoài những quy chuẩn đạo đức xã hội. Tiếp tay cho cái sai vừa là biểu hiện suy thoái, vừa là hành vi vi phạm pháp luật. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... cần có thái độ đấu tranh thẳng thắn với những hành vi sai trái ngay trong môi trường công sở, góp phần phòng ngừa, xử lý từ gốc các biểu hiện suy thoái trong hệ thống chính trị các cấp.

Nhận thức đúng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Tham nhũng là một thuộc tính trong xã hội có giai cấp. Chống tham nhũng, vì thế, là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go và vô cùng phức tạp. Thành bại của cuộc đấu tranh này phụ thuộc vào bản lĩnh của đảng cầm quyền, hiệu lực của hệ thống pháp luật và đặc biệt là sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân.

Ở nước ta, tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ hàng đầu đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân. Mục tiêu của cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp này là vì nhân dân...

Chấn chỉnh nhận thức lệch lạc, suy diễn tiêu cực

Sở dĩ phải nhắc lại, nhấn mạnh những vấn đề nguyên tắc có ý nghĩa căn bản trên đây là bởi, trong dư luận xã hội (trong đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên) đã và đang nảy sinh những nhận thức lệch lạc về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Trong những ngày qua, sau khi cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long; cựu Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh và cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Công Tạc bị khởi tố, bắt tạm giam, dư luận xã hội xuất hiện những thông tin mang tính võ đoán, suy diễn cực đoan, tiêu cực.

Trên không gian mạng, những đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối đã suy diễn rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay thực chất là “cuộc thanh trừng nội bộ”, là “các phe phái trong Đảng đấu đá lẫn nhau”... Những cụm từ như “bê bối”, “đụng đến đâu sai đến đó”, “tham nhũng cả hệ thống”, “càng chống, tham nhũng càng nhiều”... được họ sử dụng để chứng minh cho kiểu suy diễn sai lệch, tiêu cực nói trên.

Vấn đề này được nhiều phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại tập trung khai thác, làm căn cứ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đất nước với quy mô, cường độ ngày càng tăng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... nảy sinh tư tưởng làm việc cầm chừng, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám đột phá, sáng tạo... Những biểu hiện tư tưởng, luồng thông tin tiêu cực ấy ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hóa, trận địa tư tưởng chính trị trong Đảng, nhất là tổ chức đảng các cấp ở những bộ, ngành, địa phương... có cán bộ chủ chốt tham nhũng, tiêu cực vừa bị bắt tạm giam.

Nhận thức đúng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

 Cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị giống như là những “đầu tàu”. Khi “đầu tàu” gặp trục trặc, bị hỏng hóc phải thay thế, tất yếu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cả hệ thống. Những dao động, xáo trộn về tâm lý, tình cảm... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức của hệ thống ấy là trạng thái tâm lý bình thường. Tuy nhiên, nếu để nó diễn biến theo chiều hướng cực đoan, tiêu cực, làm nảy sinh tư tưởng chán nản, bi quan, thậm chí là bất mãn, có những phát ngôn thiếu tinh thần xây dựng, để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước... thì đó là điều không thể chấp nhận. Trong cán bộ, đảng viên và hệ thống chính trị, những biểu hiện đó cũng chính là mầm mống của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm, cần được chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.

Tính nhân đạo, nhân văn của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực

Có thể thấy, nguyên nhân của lối suy diễn tiêu cực nêu trên trước hết là do nhận thức của một số cá nhân chưa đúng, bị tác động bởi những luận điệu sai trái do các thế lực thù địch và phần tử phản động rêu rao, xuyên tạc. Những biểu hiện này không phải đến bây giờ mới diễn ra mà nó tồn tại âm ỉ, là một mặt trái của đời sống xã hội, khi có tình huống tác động lại bùng lên cục bộ. Chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp. Trong xã hội có giai cấp, không một quốc gia, dân tộc nào có thể triệt tiêu hoàn toàn tham nhũng. Vai trò của đảng cầm quyền và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật chỉ có thể ngăn chặn, xử lý, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi tham nhũng.

Ở nước ta, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính là để làm trong sạch bộ máy, để hệ thống chính trị phục vụ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có mục đích nào khác ngoài việc để cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị xứng đáng hơn với niềm tin và sự phó thác của nhân dân.

Với bản chất nhân đạo, nhân văn xã hội chủ nghĩa, việc kiểm tra, điều tra, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực là để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật một người để cứu muôn người”... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, khẳng định, kỷ luật, xử lý đồng chí, đồng đội của mình là rất day dứt, đau xót, nhưng đó là việc phải làm, không thể khác được. Phải làm nghiêm, làm mạnh để ai cũng phải có ý thức giữ mình trong sạch, ai đã trót “nhúng chàm” thì phải tự gột rửa để xứng đáng hơn với niềm tin, sự gửi gắm của nhân dân.

Như vậy, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị phải làm thường xuyên, kiên trì, kiên quyết. Việc nhiều cán bộ cấp cao, đứng đầu một số bộ, ngành, địa phương... suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng bị điều tra, xử lý là một tổn thất, một nỗi đau của Đảng, nhưng để cơ thể khỏe mạnh, không thể không “phẫu thuật” cắt bỏ những “khối u”, những “tế bào” độc hại...

Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ở Thủ đô kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trắng đêm trăn trở, dằn vặt, day dứt trước khi quyết định xử tử Trần Dụ Châu vì tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến. Dù rất đau đớn, nhưng Người đã bác đơn xin ân giảm án tử hình của Trần Dụ Châu. Người nói: “Nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”. Vụ án chống tham nhũng điển hình xảy ra cách đây hơn 70 năm, đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Quan điểm nhân văn, nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xử lý cán bộ tham nhũng, tiêu cực là sự thể hiện vừa bao quát vừa cụ thể tính nhân văn xã hội chủ nghĩa, tất cả đều vì tiền đồ của đất nước, vì cuộc sống của nhân dân.

Với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua thực sự là một cuộc chiến của toàn Đảng, toàn dân. Lôi ra được những “con sâu” trong bộ máy công quyền, lợi dụng dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch để trục lợi là sự cố gắng nỗ lực, vào cuộc quyết liệt của các cơ quan, lực lượng chức năng, thể hiện tinh thần, ý chí đấu tranh của Đảng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ...

Là cán bộ, đảng viên, chúng ta không vui sướng, hả hê khi đồng chí, đồng đội mình suy thoái, biến chất, nhưng cũng không thể thờ ơ, bàng quan, vô cảm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; càng không thể chỉ thấy hiện tượng mà quên bản chất, dẫn đến nảy sinh tư tưởng sợ sai, sợ trách nhiệm... Để thúc đẩy phát triển, phải gắn chặt giữa đoàn kết và đấu tranh, giữa xây và chống với tinh thần lấy xây để chống. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, khi Đảng, Nhà nước ta ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương, những thành phần “sâu mọt” trong nội bộ tổ chức đảng và hệ thống chính trị sẽ tiếp tục được lôi ra ánh sáng công lý.

Với nhận thức, bản lĩnh của cán bộ, đảng viên, chúng ta phải đi sâu vào bản chất, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết để thấy rõ tính nhân đạo, nhân văn của Đảng. Những luận điệu cho rằng, Đảng, Nhà nước “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, “đấu đá phe cánh”... thực chất là những luận điệu phản động, hại dân, hại nước. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong hệ thống chính trị cần nêu cao bản lĩnh, nhận thức thấu đáo bản chất vấn đề để củng cố trận địa tư tưởng chính trị, trau dồi phẩm chất đạo đức, xây dựng và tăng cường lòng tin trong nhân dân đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Công tác kiểm tra phải đi trước một bước

 

Phát biểu kết luận cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tổ chức ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Từ thực tế công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã rút ra kinh nghiệm hoàn toàn đúng cả về lý luận, thực tiễn và đường lối. Đó là công tác kiểm tra của Đảng phải đi trước một bước, kiểm tra dấu hiệu vi phạm, cứ có dấu hiệu là Ủy ban kiểm tra có quyền vào kiểm tra. Đây là kinh nghiệm hay, đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng trước, rồi đến kỷ luật về hành chính, tiếp đến là xử lý hình sự... Các vụ án đã được xử lý nghiêm nhưng cũng rất nhân văn, tài sản thu hồi lớn, nhưng cái lớn nhất vẫn là củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị...

Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Tinh thần của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và chỉ đạo của Tổng Bí thư cần được cụ thể hóa thành chủ trương, giải pháp, hành động thiết thực ở mỗi địa phương. Đặc biệt là vai trò của công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra phải đi trước một bước để sớm phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự đi trước của tổ chức đảng trong kiểm tra, xử lý sai phạm vừa là tính tiên phong trong lãnh đạo, vừa thể hiện tính nhân đạo, nhân văn, mọi chủ trương, hành động của Đảng đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền lợi của nhân dân.

Người nổi tiếng không thể “nhắm mắt mà đi”

 

Nếu như trước đây, cùng với tài năng bẩm sinh, một cá nhân hay tập thể phải trải qua thời gian học tập, lao động, cống hiến, hy sinh... bền bỉ mới có thể trở thành người nổi tiếng (NNT), thì nay, trong nhiều trường hợp, sự nổi tiếng đến một cách nhanh chóng, nhất là trên thị trường giải trí.

Nhiều người trong các lĩnh vực âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, thời trang... nhờ công nghệ lăng xê đã nổi lên thành “ngôi sao” chỉ trong thời gian rất ngắn. Thực trạng này là môi trường phát sinh ngày càng nhiều mặt trái trong đội ngũ NNT. Trong đó, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... là vấn đề rất đáng lưu tâm.

"Quyền lực mềm" và trách nhiệm xã hội

“Quyền lực mềm” (tiếng Anh là "soft power") là một khái niệm do giáo sư người Mỹ Joseph Samuel Nye, Jr. ở Đại học Harvard đưa ra lần đầu tiên năm 1990. Thuật ngữ này hiện được sử dụng rộng rãi, nội hàm có sự bổ sung, điều chỉnh, phát triển ở những môi trường, lĩnh vực, giai đoạn khác nhau. Hiểu một cách khái quát, “quyền lực mềm” là dùng khả năng giành được những thứ mình muốn thông qua việc gây ảnh hưởng để khiến người khác làm theo ý mình. Ngược lại với “quyền lực cứng”, “quyền lực mềm” không mang tính ép buộc mà được thực hiện bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác, làm thay đổi cách suy nghĩ của người khác, qua đó khiến người khác mong muốn và làm theo điều mà mình mong muốn. “Quyền lực mềm” được thực hiện thông qua sự hấp dẫn và thuyết phục.

Với đặc điểm đó, NNT nắm giữ lợi thế vô cùng quan trọng khi sử dụng “quyền lực mềm”. Bằng sự nổi tiếng và tầm ảnh hưởng xã hội với lượng người hâm mộ đông đảo, NNT rất thuận lợi khi đứng ra kêu gọi, tập hợp sự chung tay, góp sức của cộng đồng trong các hoạt động xã hội. Ở nước ta hiện nay, có những NNT có lượng lớn người hâm mộ. Tài khoản cá nhân trên các nền tảng mạng xã hội của họ thu hút sự theo dõi, tương tác của hàng triệu người, cả trong nước và quốc tế. Nhờ đó, khi họ thực hiện các hoạt động xã hội, có hàng vạn người tự giác, tự nguyện ủng hộ, tham gia.

Bài 2: Người nổi tiếng không thể “nhắm mắt mà đi”

Hàng loạt người nổi tiếng tham gia quảng cáo cho các nhãn hàng trên mạng xã hội.

Vợ chồng cựu danh thủ Công Vinh và ca sĩ, diễn viên Thủy Tiên là một dẫn chứng điển hình. Bằng sự ảnh hưởng, nhiệt huyết và trách nhiệm xã hội, những năm qua, họ đã thực hiện các hoạt động thiện nguyện ủng hộ, giúp đỡ đồng bào vùng lũ các tỉnh miền Trung với sự tham gia của đông đảo nhà hảo tâm, số tiền quyên góp lên đến hàng trăm tỷ đồng. Sức lan tỏa tinh thần thiện nguyện và hiệu quả hoạt động từ thiện xã hội từ những NNT như vậy là vô cùng lớn.

Hay khi đại dịch Covid-19 bùng phát ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam nửa cuối năm 2021, sự tham gia của NNT trên các lĩnh vực đã tạo hiệu ứng xã hội rất mạnh mẽ. Bên cạnh hiệu quả huy động nguồn lực xã hội lên đến hàng trăm tỷ đồng phục vụ công tác phòng, chống dịch, đại đa số NNT đã thể hiện rõ trách nhiệm xã hội, lan truyền năng lượng tích cực, tinh thần lạc quan, tạo động lực giúp người dân vững tin vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Sự tham gia tích cực, nhiệt huyết của NNT giúp cấp ủy, chính quyền, cơ quan Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị-xã hội các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác phòng, chống dịch; huy động các nguồn lực chăm lo an sinh xã hội, phục hồi sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới...

Đừng để ai "nhắm mắt mà đi"

Môi trường tự do, dân chủ, quyền tự do ngôn luận và sự ảnh hưởng toàn diện, sâu sắc của công nghệ thông tin, internet hiện nay là điều kiện lý tưởng để NNT bộc lộ tài năng, thể hiện khát khao cống hiến. Tuy nhiên, sự thông thoáng và tiện ích, tiện lợi ấy cũng sinh ra ngày càng nhiều mặt trái của xã hội. Đặc biệt, với những người trẻ, sự nổi tiếng nhanh chóng mà theo cách nói của thị trường giải trí là “ngủ một đêm thức dậy thành sao” hay “chớp mắt thành sao”... khiến không ít người ngộ nhận năng lực, mắc bệnh “ngôi sao”, tự huyễn hoặc bản thân... Biểu hiện phổ biến của tình trạng này là những phát ngôn gây sốc, phản cảm, gây scandal trên mạng xã hội, tạo phong cách lập dị, sa ngã vào tệ nạn xã hội...

Từ sự lệch chuẩn trong văn hóa ứng xử, một bộ phận cá biệt NNT đã bị các phần tử cực đoan, bất mãn, có tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước lợi dụng, lôi kéo, giật dây. Họ tham gia luận bàn, trả lời phỏng vấn các phương tiện truyền thông ở hải ngoại về các vấn đề chính trị của đất nước với kiểu lập ngôn võ đoán, phiến diện, cực đoan. Có trường hợp thậm chí còn phát ngôn kích động người dân tụ tập biểu tình chống đối Đảng, Nhà nước, cổ xúy các hành vi xuyên tạc của các đối tượng phản động lưu vong.

Chuyện một danh hài trẻ nổi tiếng ở phía Bắc là một ví dụ. Anh này giỏi nghề, diễn xuất tốt, thành công với nhiều vai diễn trên sân khấu, nhưng khi bàn về các vấn đề chính trị của đất nước thì đã để lộ “gót chân Achilles” là một người kém hiểu biết, lỗ mỗ kiến thức lý luận. Vì vậy, những phát ngôn gây sốc, phản cảm của anh bị nhiều đồng nghiệp đánh giá là “nói xằng bậy”. Vậy nhưng, vì anh là NNT nên mỗi lời nói, hành vi ứng xử đều có sự ảnh hưởng đến một bộ phận đông đảo khán giả và môi trường văn hóa không gian mạng.

 

Tương tự, có người là nhà khoa học, đạo diễn điện ảnh, nhà thơ, nhà văn, bác sĩ, doanh nhân nổi tiếng... cũng có lúc phát ngôn cực đoan, ngẫu hứng cá nhân, gây tổn hại đến niềm tôn kính lãnh tụ của nhân dân, ảnh hưởng đến mối quan hệ máu thịt giữ Đảng với dân, gây chia rẽ nội bộ, hoang mang dư luận xã hội...

Không ai phủ nhận, NNT là những người có tài, nhưng biển học là vô bờ, tri thức nhân loại là vô tận. Mỗi người chỉ có thế mạnh và thành danh ở lĩnh vực chuyên môn của mình. Lấy danh nghĩa của sự nổi tiếng để phát ngôn, luận bàn những vấn đề nằm ngoài khả năng bao quát và hiểu biết của mình để lập ngôn kiểu võ đoán, quy chụp là rất tai hại. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến nỗ lực làm trong sạch nội bộ của Đảng, cản trở công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tạo tâm lý bi quan, hoài nghi trong đời sống xã hội. Đó còn là cớ để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến dịch tuyên truyền kích động, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ... nổi tiếng không có nghĩa là người đó có kiến thức uyên thâm, am hiểu tường tận về ngành điều tra, xét xử, nghiên cứu lịch sử... Việc luận bàn, phán xét những vấn đề đang được dư luận quan tâm khi bản thân mình không có chứng cứ, không có chuyên môn, suy diễn theo cảm tính gây hoang mang dư luận... hoàn toàn không mang ý thức xây dựng. Đó là kiểu lợi dụng quyền tự do ngôn luận, lạm dụng “quyền lực mềm”, sa đà vào kiểu phản biện mang tính ngụy biện, ám chỉ, miệt thị... các tổ chức trong hệ thống chính trị, lèo lái dư luận theo hướng tiêu cực.

Những hành vi này nếu không kịp thời có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục sẽ khiến cá nhân sa vào vết trượt suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rất nguy hiểm. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã chỉ rõ: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Căn nguyên của những mặt trái này là do một bộ phận NNT thiếu tu dưỡng rèn luyện, hạn chế nhận thức lý luận chính trị, non kém bản lĩnh, dễ dao động, ngả nghiêng, bị tác động, lôi kéo từ những thành phần bất mãn, từ mặt trái của cơ chế thị trường... Một bộ phận người trẻ nổi tiếng một cách nhanh chóng bị hổng kiến thức chính trị-xã hội, thiếu nền tảng tư duy lý luận. Việc tổ chức học tập, giáo dục lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp đối với NNT chưa được các tổ chức, hội, đoàn, địa phương... quan tâm đúng mức. Hạn chế về lý luận chính trị, thậm chí là bị hổng nền tảng lý luận khiến một bộ phận NNT không xác định đúng đắn mục tiêu phấn đấu, định hướng lao động sáng tạo, cống hiến.

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi...”. Người nhấn mạnh: “Phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”... Với NNT hiện nay, nếu “nhắm mắt mà đi”, sự ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội rất khó lường. Các biểu hiện tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận NNT cũng từ đó mà ra.

Môi trường công nghệ số chính là đường băng cho NNT cất cánh bay cao, bay xa trong niềm tự hào dân tộc. Với “quyền lực mềm” đặc trưng, đặc biệt, NNT cần xác định rõ trách nhiệm xã hội, ý thức, bổn phận phòng ngừa suy thoái. Công tác quản lý, vai trò “bà đỡ” của các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội... các cấp cần đặt trọng tâm phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ NNT, không để ai phải “nhắm mắt mà đi”...

 

 

Suy thoái không trừ một ai

 Sai phạm của những cá nhân nêu trên đã được Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ rõ: ...Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách nhà nước; ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch Covid-19; gây bức xúc trong xã hội; ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng...

Ngăn chặn suy thoái từ sớm, từ xa

  Ông Chu Ngọc Anh (trái) và ông Nguyễn Thanh Long. Nguồn: TTXVN.

Kết luận này dựa trên kết quả kiểm tra cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng. Căn cứ nội dung, tính chất, mức độ hậu quả, nguyên nhân vi phạm, theo quy định của Đảng về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Ban cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ nhiệm kỳ 2016-2021, Ban cán sự Đảng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2016-2021. Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Phạm Công Tạc. Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Chu Ngọc Anh và ông Nguyễn Thanh Long.

Trong kết luận sai phạm của những cá nhân nêu trên, cụm từ “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” được nhấn mạnh, đặt lên hàng đầu. Điều này khẳng định, suy thoái là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là gốc rễ dẫn đến những sai phạm, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước của những cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị của đất nước.

Sự nguy hại của suy thoái đã được Đảng ta cảnh báo, nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để lại hậu quả, nguy cơ vô cùng tai hại đối với Đảng và dân tộc. Cán bộ giữ chức vụ càng cao bị suy thoái thì hậu quả, nguy cơ đối với Đảng, với chế độ càng lớn. Nhìn lại những vụ việc, vụ án tham nhũng được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm thời gian qua, trong đó có nhiều cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị đưa ra xét xử, chúng ta thấy, tính chất, mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng.

Đây là lần đầu tiên kể từ Đại hội XII, Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, kết luận hành vi sai phạm của những cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý là “suy thoái về tư tưởng chính trị”.

Đây cũng là lần đầu tiên trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ Đại hội XII, việc xử lý sai phạm của cán bộ, đảng viên cấp cao và hành vi vi phạm pháp luật của công dân được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và cơ quan hành pháp các cấp thực hiện kịp thời, nhanh chóng, chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Việc xử lý nghiêm khắc, kịp thời, thống nhất, đồng bộ... đối với những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước thể hiện tinh thần quyết liệt, không có vùng cấm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Qua những vụ việc này cho thấy, suy thoái như là một loại “virus” lây bệnh nguy hiểm, không trừ một ai. Nó có thể tấn công, làm biến dạng, biến chất ngay cả những người được đào tạo bài bản, có học hàm, học vị cao; ngay cả những cán bộ giữ cương vị chủ chốt, trọng trách trong Đảng.

Thống nhất nhận thức, không suy diễn cực đoan

Trước việc nhiều cán bộ chủ chốt của một số bộ, ngành, địa phương bị xử lý kỷ luật, bắt tạm giam, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bộc lộ tâm lý cực đoan, sợ sai, sợ trách nhiệm, nảy sinh tư tưởng “mũ ni che tai”, “dĩ hòa vi quý”... Một số người bày tỏ thái độ bi quan, cho rằng, cán bộ bây giờ làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, muốn không sai thì tốt nhất là không làm... Dù chỉ là cá biệt, song những biểu hiện tư tưởng cực đoan ấy cần phải được chấn chỉnh, loại bỏ ngay. Bởi suy diễn tiêu cực, sai đường lối, chủ trương của Đảng cũng chính là một biểu hiện của suy thoái.

Cần thấy rằng, việc xử lý những cán bộ vi phạm là nỗ lực làm trong sạch nội bộ Đảng, làm cho Đảng mạnh hơn, ngày càng xứng đáng với niềm tin và mong đợi của nhân dân. Đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng là một cuộc đấu tranh cam go, phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì, kiên quyết.

Sự thành công phụ thuộc vào ý chí, thống nhất hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó nằm ngay trong tư duy, tư tưởng, hành động của cán bộ, đảng viên. Vấn đề này đã được Đảng ta nhấn mạnh trong hệ thống văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, nền nếp, vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quan liêu tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa... việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức lối sống chưa mạnh mẽ. Tự phê bình và phê bình ở một số nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi”...

Như vậy, những biểu hiện, nguyên nhân, hậu quả của suy thoái trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta nhận diện, cảnh báo và đề ra các giải pháp đấu tranh. Việc vi phạm là do cá nhân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bị chi phối, sa ngã bởi chủ nghĩa cá nhân; do cấp ủy, tổ chức đảng thiếu tính chiến đấu, phê bình, tự phê bình còn hình thức, nể nang, né tránh, ngại va chạm... Đổ lỗi do cơ chế, chính sách rồi suy diễn tiêu cực, dẫn đến làm việc cầm chừng, né tránh là hành vi ngụy biện, tạo môi trường cho chủ nghĩa cá nhân phát triển.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật một người để cứu muôn người”, việc xử lý những cán bộ suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống... chính là nhằm răn đe, cảnh tỉnh đối với mọi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Thay vì nảy sinh tư tưởng cực đoan, cán bộ, đảng viên và từng tổ chức đảng phải xốc lại tư tưởng, thống nhất nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng để mài sắc ý chí chiến đấu, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân.

Phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa

Báo cáo chính trị Đại hội XII, trong phần phương hướng nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: “Chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta bổ sung, nhấn mạnh: “Phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.

 

Như vậy, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với cán bộ giữ trọng trách trong Đảng và hệ thống chính trị của đất nước, chính là một trong những yếu tố bất lợi, yếu tố gây nguy cơ đột biến ngay từ bên trong. Đây cũng chính là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống phá, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong các bài viết, bài phát biểu liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần đề cập, nhấn mạnh việc chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Tổng Bí thư cho rằng, bên cạnh “pháp trị” phải coi trọng “đức trị”; bên cạnh “pháp lý” phải đề cao “đạo lý”... “Đức trị”, “đạo lý” là cái gốc, là nền tảng để thực hiện hiệu quả “pháp lý”, “pháp trị”... Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, công tác kiểm tra phải chủ động đi trước một bước. Phải kiểm tra thường xuyên kết hợp với kiểm tra khi đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.

Để “vũ trang” cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... trên cơ sở Điều lệ Đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động. Đó là cơ sở, nền tảng để chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Muốn phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị từ sớm, từ xa, cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng phải lấy yếu tố văn hóa Đảng làm trọng, đặt đạo đức của Đảng lên hàng đầu.

Sinh thời, Bác Hồ dạy: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là vì thế. Khi cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ trì các cấp có đầy đủ văn hóa, đạo đức của Đảng, sẽ có nguồn lực nội sinh đẩy lùi, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn suy thoái từ sớm, từ xa...

Ngại phê bình, góp ý - không chỉ là suy thoái...

 

Thời gian qua, khá nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật và pháp luật, phải xử lý nghiêm khắc. Điều rất đáng báo động là, đa số những người này có vi phạm kéo dài, thậm chí suốt vài năm và với nhiều hành vi, thế nhưng cấp ủy, chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác lại “không biết”, hoặc biết rõ nhưng...“mũ ni che tai”!

1. “Ông ấy bây giờ mới bị xử lý là quá muộn”; “Vi phạm lâu rồi, bây giờ cấp trên mới biết thôi”; “Nhiều người trong cơ quan biết sếp vi phạm nhưng sợ “đấu tranh, tránh đâu”...

Không ít lần tôi được nghe như thế khi hỏi chuyện những người quen ở cơ quan, đơn vị, địa phương có cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật.

Ví dụ thì rất nhiều và có lẽ cũng chẳng cần nêu ra. Chỉ riêng những kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay đã cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng từ lâu, chủ yếu là: Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát dẫn đến gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước; suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản; tham nhũng... Những vi phạm này, không thể nói là các đồng chí trong cấp ủy, ban lãnh đạo và chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác với cán bộ, đảng viên đó đều... không biết!

Bên cạnh những vi phạm nghiêm trọng, khá nhiều cán bộ, đảng viên có những khuyết điểm, như: Độc đoán, gia trưởng, tham gia tệ nạn xã hội, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu... Đồng chí, đồng đội, nhân viên là những người trực tiếp chịu tác động hoặc được chứng kiến, nhưng vẫn không mạnh dạn góp ý, phê bình!

Chính vì không được thẳng thắn góp ý, phê phán nên những cán bộ, đảng viên đó càng “tự tung tự tác”, “cái sảy nảy cái ung”, vi phạm tăng thêm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Ngoài những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không phê bình, ngại góp ý với đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp, nhất là với cấp trên, như: Sợ mất lòng, sợ bị trù dập, quy chụp là gây mất đoàn kết; vì cùng có chung lợi ích; hoặc đơn giản là tâm lý “an phận thủ thường”, sợ bị hiểu sai... thì lâu nay, không ít cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có quan điểm “việc ai nấy làm”, không tham gia vào công việc và cuộc sống của người khác. Sự thờ ơ, vô cảm trước những việc sai trái, biết rõ những sai phạm, khuyết điểm của đồng nghiệp, đồng chí, đồng đội mà không thẳng thắn góp ý, phê bình đã dẫn đến nhiều hệ lụy: Cán bộ, đảng viên tiếp tục vi phạm, làm suy yếu tổ chức, ảnh hưởng sự trong sạch vững mạnh và uy tín của Đảng. 

2. “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau...” và “đoàn kết xuôi chiều” là một trong những biểu hiện của sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ.

Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) của Đảng thẳng thắn đánh giá: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm...

Để thực hiện mục tiêu kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã xác định nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; trong đó nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, nhất là cấp ủy, thường vụ cấp ủy, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Bên cạnh đó, chú trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện từ nội bộ để chấn chỉnh ngay những vi phạm từ khi mới phát sinh, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm, sai phạm lớn.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng với rất nhiều giải pháp, nhưng quan trọng nhất, theo Người, trước hết là phải “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (bài báo Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng). Muốn thực hiện được điều này, Người chỉ rõ: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Ðảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”...

Bác Hồ nhấn mạnh “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc” vì tất cả hoạt động của chi bộ chủ yếu được thông qua sinh hoạt với 3 hình thức: Sinh hoạt lãnh đạo; sinh hoạt học tập; sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Mỗi hình thức sinh hoạt có yêu cầu riêng, nhưng đều phải có tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, trên cơ sở thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đó là: Tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình.

Thế nhưng, tình trạng ngại phê bình, “ngại nói thật” trong sinh hoạt chi bộ và cả sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ vẫn khá phổ biến. Đây là nguyên nhân cơ bản làm mất tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, dẫn đến không kịp thời ngăn ngừa những vi phạm của cán bộ, đảng viên, để xảy ra sai phạm kéo dài và nghiêm trọng. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên có sai phạm mà vẫn được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ và đề nghị khen thưởng, bổ nhiệm.

Thật đáng buồn khi hầu hết các vụ việc cán bộ, đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống, kỷ luật, pháp luật, nhất là tham nhũng... đều do quần chúng nhân dân, báo chí hoặc cơ quan chức năng cấp trên phát hiện. Trong khi đó, chi bộ, cấp ủy là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và tiến hành kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên; người cùng chi bộ, cùng cơ quan thường xuyên gần gũi, công tác, hiểu hết tính cách cũng như những việc làm của nhau-như “cùng nằm trong chăn mà lại... không biết chăn có rận”!?

Rõ ràng, việc cần làm ngay là phải quy trách nhiệm, xử lý kỷ luật nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên cùng sinh hoạt trong cấp ủy, chi bộ mà không phê bình, góp ý, để đồng chí, đồng đội vi phạm pháp luật, kỷ luật, nhất là với những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài (như Bộ luật Hình sự đã quy định tội danh “không tố giác tội phạm” và “che giấu tội phạm”). Bên cạnh đó, cần ban hành quy định bình xét cán bộ, đảng viên theo thang điểm 10 trên từng nội dung, trong đó có tinh thần tự phê bình và phê bình...; đồng thời xếp loại cán bộ, đảng viên trong từng chi bộ theo số thứ tự (từ tốt nhất đến yếu nhất) để tăng tính đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng, bảo đảm kết quả bình xét thực chất hơn, tránh tình trạng "tạo điều kiện cho nhau cùng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng “dĩ hòa vi quý”, nể nang, né tránh, thấy sai không đấu tranh.

3. “Tôi vô cùng cảm ơn anh đã rất kiên trì, dũng cảm, chân thành góp ý, giúp tôi sửa được tính nóng nảy, gia trưởng, đồng thời biết tôn trọng, lắng nghe cấp dưới. Nếu không, sai lầm của tôi không chỉ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà tôi còn mất hết tình cảm đồng đội, bạn bè”.

Hầu như lần nào làm nhiệm vụ lái xe “tháp tùng” bố đi dự gặp mặt hội truyền thống của đơn vị cũ, tôi cũng được nghe một bác nguyên là trung đoàn trưởng nói với bố tôi như vậy.

Chuyện là, thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, bố tôi là trợ lý tác chiến trung đoàn. Thấy đồng chí trung đoàn trưởng nóng tính, “quân phiệt miệng”, thường xuyên quát mắng cấp dưới khiến anh em vừa sợ vừa không hài lòng nên trong các cuộc họp chẳng ai ý kiến gì, nhưng khi ra ngoài thì xì xào với nhau; sau hai lần chân thành góp ý nhưng bị trung đoàn trưởng gạt phăng, bố tôi đã định “mặc kệ”. Nhưng một hôm, nghe các tiểu đoàn trưởng và sĩ quan tham mưu bàn tán rằng phương án tác chiến do trung đoàn trưởng quyết định không hợp lý, dễ bị thất bại, bố tôi cũng thấy như vậy nên quyết định phải ý kiến với thủ trưởng.

“Được nhận” những lời khó nghe, bố tôi ức chảy nước mắt, chạy về hầm. Không thể để một quyết định nặng tính chủ quan, sai lầm có thể dẫn đến “nướng quân”, bố tôi quyết tâm viết thư gửi trung đoàn trưởng. Lá thư đó rất dài, ngoài nêu những bất hợp lý của phương án tác chiến còn góp ý riêng với thủ trưởng cần bỏ tính gia trưởng, “quân phiệt miệng” khiến cấp dưới ức chế và không thể phát huy dân chủ trong đơn vị, thậm chí cán bộ, chiến sĩ chán nản... Cuối thư, bố tôi mạnh dạn viết: Nếu trung đoàn trưởng không tiếp thu phê bình và chỉnh sửa thì tôi sẽ viết thư gửi chỉ huy sư đoàn. Còn nếu tôi sai thì tôi xin hoàn toàn chịu kỷ luật!

Thật may, lá thư này đã khiến đồng chí trung đoàn trưởng thay đổi. Ông gọi bố tôi lên nói lời cảm ơn...

“Phê bình cho đúng để trị bệnh cứu người” là tư tưởng có tính nhân văn rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ: Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng khác nào có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh tình lại càng nặng thêm. Do vậy, đối với đảng viên, cán bộ mà nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc thì khác nào thấy đồng chí mình ốm mà không chữa cho họ... Biết người ta sai mà không nói cho người ta sửa tức là hại người. Tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Càng yêu thương thì càng phải thẳng thắn phê bình, có như vậy mới thực sự giúp nhau tiến bộ.

Cổ nhân cũng đã đúc rút: Những người chân thành, mạnh dạn phê bình bạn chính là người bạn tốt và điều gì xuất phát từ trái tim sẽ đi tới được trái tim. Ngược lại, những ai biết rõ bạn đang làm sai mà không khuyên can thì đó chính là người xấu.

Có thể khẳng định, việc chân thành, thẳng thắn phê bình, góp ý không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong sinh hoạt đảng và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị mà còn thể hiện tình người sâu sắc, nhân văn. Việc biết đồng chí, đồng đội đang mắc khuyết điểm, lầm đường lạc lối mà vẫn “mũ ni che tai” chính là làm hại tổ chức và đồng chí, đồng đội. “Tội” này cần phải kiên quyết đấu tranh, phê phán, cả trong công tác và trong cuộc sống đời thường.

Chiến sĩ trên mặt trận mới

 Cách đây hơn 70 năm, vào ngày 5-1-1952, trong bối cảnh toàn dân tộc đang thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã gửi thư cho các họa sĩ, nhắn gửi đến toàn thể văn nghệ sĩ, người nổi tiếng (NNT).

Người căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bảy thập kỷ trôi qua, lịch sử trải qua bao biến cố thăng trầm, soi rọi vào mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, lời dạy của Người vẫn nóng hổi tính thời sự...

Không bàng quan, đứng ngoài cuộc

Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa nghệ thuật là lĩnh vực có số lượng NNT nhiều nhất. Chỉ tính riêng các loại hình nghệ thuật, đến nay đã có hơn 450 người được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Bên cạnh đó là số lượng đông đảo Nghệ sĩ Ưu tú.

Giới văn nghệ sĩ, nhất là những NNT hoạt động trong môi trường nghệ thuật biểu diễn, là lực lượng có ảnh hưởng xã hội rất rộng rãi. Đây cũng chính là môi trường nhạy cảm, văn nghệ sĩ dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi các trào lưu, xu hướng nghệ thuật của các nền văn hóa trên thế giới.

Bài 3: Chiến sĩ trên mặt trận mới

Trong bối cảnh hội nhập, giao thoa văn hóa, các thế lực thù địch, lực lượng chống phá đất nước luôn tìm mọi cách tác động, lôi kéo NNT bằng những phương thức, thủ đoạn rất tinh vi. Kể từ khi đất nước đổi mới (năm 1986), đặc biệt, trong hai thập niên đầu thế kỷ 21, đã có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng sa chân vào con đường lầm lỗi, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Khi tài năng đang vào độ chín, là những ngôi sao sáng trên màn ảnh, sân khấu, là thần tượng của đông đảo giới trẻ, họ trở thành mục tiêu tấn công, lôi kéo của các thế lực thù địch. Vì non kém bản lĩnh, nhận thức hạn chế, lại bị vầng hào quang ảo do các thế lực dựng lên mê hoặc, những nghệ sĩ này đã dao động, ngả nghiêng, trở thành công cụ cho các thế lực thù địch lợi dụng phát ngôn, xuyên tạc lịch sử, đi ngược lại lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Những biểu hiện ấy chính là sự suy thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận NNT.

Với chính sách nhân đạo, nhân văn và chủ trương hòa hợp dân tộc, Đảng, Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để những nghệ sĩ, trong đó có nhiều NNT ở hải ngoại trở về quê hương hoạt động nghệ thuật. Ngay cả những người từng mắc sai lầm, sau khi ăn năn, hối cải, cũng được đất nước, quê hương dang rộng vòng tay chào đón trở về.

Thị trường giải trí, môi trường biểu diễn nghệ thuật trong nước, vì thế có thêm nhiều sắc màu, phong cách đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số nghệ sĩ về nước tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật trong nghệ thuật biểu diễn, vẫn có một số gương mặt thiếu tự giác, thiếu chuẩn mực, công khai vi phạm các quy định, gây khó khăn cho công tác quản lý của cơ quan chức năng.

Đáng nói là, các thành phần cực đoan chính trị, phản động, thế lực thù địch lại bám vào những hành vi sai trái của một số nghệ sĩ để chỉ trích cơ quan chức năng các cấp, xuyên tạc, bôi nhọ đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước. Kiểu tạo cớ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền kích động, chống phá Đảng, Nhà nước từ môi trường lao động nghề nghiệp của NNT, nhất là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, là thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch.

Trong bối cảnh Đảng ta đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, việc đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một mặt trận.

Đó là cuộc đấu tranh ý thức hệ đầy cam go, phức tạp. Văn nghệ sĩ, NNT là những chiến sĩ trên mặt trận mới, đầy quyết liệt, khó khăn, thử thách. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay là nhiệm vụ vẻ vang, lâu dài, quyết liệt, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, truyền thống ngàn đời của tiên tổ, ông cha. NNT cần thấy rõ trách nhiệm, bổn phận của mình, không bàng quan, không đứng ngoài cuộc. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021,

Đảng ta đã xác định: Chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng. Đảng ta chủ trương đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa; đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật...

Quan điểm này là sự cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong tình hình mới; là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, văn học, nghệ thuật và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn mới.

Củng cố, lan tỏa hệ giá trị của người nổi tiếng

Có thể nói, chưa bao giờ đất nước ta có một đội ngũ NNT đông đảo trên các lĩnh vực đời sống xã hội như hiện nay. Trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta đang có một đội ngũ chiến sĩ hùng hậu. Đại đa số NNT đều được trang bị kiến thức lý luận chính trị, tham gia sinh hoạt, lao động sáng tạo trong các tổ chức chính trị-xã hội.

 

Lực lượng đông đảo, nền tảng vững vàng, vấn đề cần làm là xốc lại tinh thần, thống nhất nhận thức và hành động để mỗi NNT thực sự là một chiến sĩ, chiến đấu cho sự trường tồn của dân tộc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn: “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp”.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra chủ trương, phương châm, sách lược của cuộc đấu tranh này là lấy xây để chống, xây kết hợp với chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu. Trên hết và trước hết, đội ngũ NNT phải xốc lại tinh thần bằng rèn luyện đạo đức cách mạng, biểu hiện cao nhất là lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Càng nổi tiếng càng phải khiêm tốn, hòa mình với quần chúng, tự giác học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp... như lời dạy của Bác.

Những yêu cầu, đòi hỏi nêu trên đối với NNT không phải là những quan điểm bây giờ mới đặt ra, mà nó được xây dựng ngay trong cương lĩnh từ ngày Đảng ra đời, được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội, tương ứng với những giai đoạn lịch sử.

Ngày nay, trước sự chống phá quyết liệt, toàn diện của các thế lực thù địch, vấn đề này được đặt ra với những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn, phù hợp với tình hình thực tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ hạn chế, bất cập trong lĩnh vực này, đó là: Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần... Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực... Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này có vai trò của đội ngũ NNT.

Những biểu hiện lệch chuẩn, lệch hướng trong lao động sáng tạo và hành vi ứng xử của một bộ phận NNT đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa xã hội. Dù chúng ta đã triển khai nhiều giải pháp khắc phục, nhưng những hạn chế, bất cập, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hàng ngũ NNT vẫn chưa được ngăn chặn hữu hiệu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội...”.

 

Muốn đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch thì phải có những đột phá, bắt đầu từ công tác giáo dục, bồi dưỡng, củng cố các hệ giá trị cho NNT trên nền tảng đạo đức cách mạng, sức mạnh văn hóa, truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa tiến bộ của nhân loại

Đội ngũ NNT trên các lĩnh vực, trước hết là các học giả, trí thức, chuyên gia, văn nghệ sĩ nổi tiếng... cần bày tỏ chính kiến rõ ràng, lan truyền thông điệp, năng lượng tích cực cho đời sống xã hội trên cơ sở các hệ giá trị của sự nổi tiếng. Với vị thế là lực lượng tinh hoa của đất nước, với lợi thế “quyền lực mềm” đặc trưng, hệ giá trị của NNT phải là biểu hiện sinh động của hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam.

Bí thư cấp ủy chống bệnh xa dân

 Để phòng, chống căn bệnh này, ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 11-QĐi/TW về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân (Quy định 11). Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, Quy định 11 đã giúp đội ngũ bí thư cấp ủy khắc phục biểu hiện thiếu sâu sát thực tế cơ sở, xa dân như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng Đảng đã nêu. Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã làm việc với 17 địa phương cấp tỉnh; tìm hiểu, khảo sát hơn 20 địa phương khác về công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy theo Quy định 11.

Bài 1: "Liều thuốc" đặc hiệu của Đảng

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi việc gần dân, công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Quy định 11 trở thành thiết chế bắt buộc bí thư cấp ủy phải dành thời gian tiếp dân. Đây được coi như "liều thuốc" đặc hiệu vừa phòng, vừa chống bệnh xa dân.

Nếu không tiếp dân làm sao biết!

Một ngày đầu tháng 6-2022, chúng tôi gặp bà Hoàng Thị Phương (tổ 2, phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) ngay trên đoạn đường mới được đổ bê tông rộng rãi, sạch đẹp trước nhà. Giọng bà Phương không giấu nổi sự xúc động khi kể về “sự tích” của đoạn đường này. Gia đình bà và một số hộ khác nguyên là cán bộ Bệnh viện Điều dưỡng Thái Nguyên (nay là Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Thái Nguyên), được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tổ 17 (nay là tổ 8), phường Trưng Vương từ năm 1998.

Thế nhưng, 23 năm kể từ khi được cấp đất, các hộ dân vẫn chưa có đường vào để xây dựng, sử dụng mảnh đất thuộc sở hữu của mình dù đã nhiều lần phản ánh ý kiến đến cơ quan chức năng từ phường tới tỉnh.

Bí thư cấp ủy chống bệnh xa dân

 Đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên (bên trái) đến thăm bà Hoàng Thị Phương và các hộ dân, kiểm tra tình hình giải quyết vụ việc sau tiếp công dân tại phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên.Vụ việc diễn ra ngay giữa trung tâm TP Thái Nguyên, cách trụ sở Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thái Nguyên chỉ vài trăm mét. Ấy vậy mà phải mất tới 23 năm những ý kiến của bà Phương và các hộ dân nơi đây mới được giải quyết, qua buổi tiếp công dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải. Vài tháng sau buổi tiếp công dân, đường vào khu đất đã được hoàn thành. Hôm đồng chí Nguyễn Thanh Hải đến thăm các hộ dân và kiểm tra tình hình thi công đoạn đường, bà Phương chỉ biết nắm chặt tay nữ Bí thư Tỉnh ủy, xúc động nói lời cảm ơn.

Cũng là vụ việc kéo dài nhiều năm, qua buổi tiếp công dân định kỳ của Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang Dương Văn Thái mới đây, vụ việc tranh chấp quyền thờ cúng liệt sĩ kéo dài 10 năm giữa gia đình ông Nguyễn Văn Nắm (em trai liệt sĩ Nguyễn Văn Được) và anh Nguyễn Văn Bao (cháu ruột liệt sĩ Nguyễn Văn Được) cũng mới được giải quyết dứt điểm, hợp tình, hợp lý và nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, cán bộ địa phương.

Đồng chí Dương Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, từ câu chuyện thực tế ở địa phương đã cho biết: “Thực tế qua các buổi đối thoại với người dân, nhiều vấn đề được giải quyết dứt điểm, như vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự tại xã Ia Chim, TP Kon Tum; giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách và công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ phụ nữ, trẻ em của tỉnh; kịp thời tháo gỡ những khó khăn liên quan đến việc phát triển kinh tế-xã hội, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở huyện Đăk Glei; giải quyết chế độ, chính sách cho người dân và chỉ đạo thanh tra về phản ánh của người dân liên quan đến công tác quy hoạch, xây dựng trên địa bàn thị trấn Đăk Hà...”.

Qua việc thực hiện nghiêm Quy định 11, năm 2021, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phan Văn Mãi (nay là Phó bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh) đã nắm bắt những hạn chế của cấp ủy, chính quyền qua tiếp xúc, phản ánh của người dân. Xã Tường Đa (huyện Châu Thành) trước đây là một trong những điểm nóng, nổi lên nhiều vấn đề, như công tác tổ chức cán bộ, quản lý nhà nước, tài chính...

Nhờ việc tiếp xúc, tiếp nhận phản ánh của người dân, với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phan Văn Mãi, các cơ quan chức năng đã làm rõ những dấu hiệu vi phạm đối với tập thể Đảng ủy xã Tường Đa nhiệm kỳ 2015-2020 và 5 cá nhân. Kết quả, các cơ quan chức năng đã xử lý 3 cá nhân có vi phạm; chấn chỉnh kịp thời công tác quản lý, tạo niềm tin tưởng của nhân dân.

Cũng nhờ Quy định 11, người dân có thể thuận lợi tiếp cận người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để bày tỏ tâm tư, kiến nghị, phản ánh tình hình địa phương. Đồng chí Phạm Văn Huỳnh, Bí thư Đảng ủy xã Tiến Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hóa) tâm sự: “Tôi là người ở địa phương khác về đây công tác, cũng nhờ thực hiện Quy định 11 mà có được sự phản ánh nhiều chiều, nắm được tình hình thực tế tại xã để có những chỉ đạo kịp thời. Cấp xã là cấp gần dân nhất, nhiều sự việc tưởng gần nhưng nếu người dân không phản ánh thì chúng tôi cũng không nắm, xử lý kịp thời được”.

Phòng, chống “căn bệnh nguy hiểm”

 

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII chỉ ra thực trạng “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”.

Nghị quyết cũng chỉ ra một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Như vậy, quan liêu vẫn là một căn bệnh của không ít cán bộ lãnh đạo hiện nay mà Đảng ta đã chỉ ra. Quan liêu là không nắm được tình hình cơ sở, không nghe được tiếng nói thực lòng của người dân. Đồng chí Lê Doãn Hợp, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, chia sẻ: "Lãnh đạo mà quan cách thì mất nhiều nhất, ấy là mất thực tiễn, mất cơ hội cống hiến, làm mất uy tín của Đảng, tín nhiệm của dân, mất thông tin và lời khuyên, mất cả bạn bè".

Trong rất nhiều các đồng chí bí thư cấp ủy các cấp mà chúng tôi được tiếp xúc, hết thảy đều cho rằng nếu người đứng đầu cấp ủy lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân theo Quy định 11 thì tất sẽ mắc bệnh quan liêu. Nhìn nhận từ địa phương mình, đồng chí Tạ Huy Cần, Bí thư Huyện ủy Lạng Giang (Bắc Giang) khẳng định: “Quy định 11 rất quan trọng, cần thiết với huyện Lạng Giang trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay; nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công tác thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án, phát triển hệ thống giao thông, cụm công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị mới... phải sử dụng diện tích đất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân.

Do đó, người đứng đầu cấp ủy, nhất là ở cơ sở nếu không tập trung cao, lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của công dân sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ, mà quan trọng nhất là làm giảm niềm tin của người dân vào Đảng và chính quyền”.

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Ngô Chí Cường, Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh nhận định: “Người đứng đầu cấp ủy thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của nhân dân sẽ dẫn đến các cấp, các ngành không quan tâm giải quyết kịp thời quyền lợi chính đáng cho người dân; đồng thời người đứng đầu cấp ủy sẽ không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu bức xúc, chính đáng của người dân, sẽ không kịp thời chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc nóng mới phát sinh ngay từ ban đầu, ngay từ cơ sở. Việc này trở thành điểm nóng, khiếu kiện đông người, sẽ bị một số đối tượng xấu lợi dụng gây rối làm mất an ninh, trật tự ở địa phương”.

Hiện nay, trình độ dân trí khá cao, hầu hết các vụ việc mà người dân phải tìm đến gặp bí thư cấp ủy thì đã kéo dài. Vì vậy, nếu người đứng đầu cấp ủy không tiếp dân thì người dân chỉ còn cách duy nhất là khiếu nại, tố cáo vượt cấp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Mặt khác, người đứng đầu cấp ủy sẽ mất đi nguồn thông tin để nắm bắt cán bộ, đảng viên, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khi đó người dân sẽ giảm hoặc mất niềm tin vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng ở địa phương.

Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở đảng (nay là Vụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương), nếu người cán bộ lãnh đạo địa phương quan liêu, xa dân, sẽ không nắm được tình hình, dẫn đến không đề ra được giải pháp, chủ trương để giải quyết những vấn đề thực tiễn.

Ông cũng nhận định, người đứng đầu cấp ủy không có gì bằng nghe trực tiếp tiếng nói, những kiến nghị, đề xuất của nhân dân. Việc trực tiếp lắng nghe sẽ giúp người đứng đầu cấp ủy phân biệt ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai, cảm nhận thái độ người dân để “đo” lòng dân thế nào. Qua việc gần nhân dân để thấy chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi áp vào thực tiễn có vướng mắc gì, cái gì phù hợp, những gì chưa phù hợp để điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh.

Cũng qua nghe tiếng nói từ người dân để người lãnh đạo biết cấp ủy, chính quyền cấp dưới chỗ nào thực hiện tốt, chỗ nào không tốt. Như vậy, gần dân không những nắm được tâm tư, nguyện vọng của người dân mà còn biết đội ngũ cán bộ làm việc thế nào.