Thứ Tư, 1 tháng 3, 2023

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

           Trong những năm gần đây, âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm. Một trong những biểu hiện chủ yếu là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi thay vào đó bằng hệ tư tưởng tư sản, xoá bỏ vị trí thống trị của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong Đảng và trong xã hội ta.

Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng ta khẳng định quan điểm chỉ đạo hàng đầu đối với quá trình cách mạng Việt Nam là: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Theo đó, cùng với quá trình nghiên cứu vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn đòi hỏi phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc hệ thống tư tưởng, lý luận này.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta không chỉ bổ sung, hoàn thiện khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” mà còn khẳng định: Tư tưởng của Người “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Như vậy, giá trị, ý nghĩa và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh từ chỗ được minh chứng trong thực tiễn đã được Đảng đúc rút thành quy luật, thành “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phản động phải đi liền với việc khẳng định và phát triển các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; với việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, chú trọng nghiên cứu, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những vấn đề lớn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta qua hơn 35 năm đổi mới dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng đanh thép, sống động và thuyết phục nhất để phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, đồng thời khẳng định giá trị, tính đúng đắn, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT QUẢ TRONG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG TA

 

             Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước ta đã và đang diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực; nhận được sự quan tâm, ủng hộ và hưởng ứng của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, tạo dựng được niềm tin trong Nhân dân. Tuy nhiên vẫn có không ít luận điệu, bài viết trên không gian mạng tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực và kết quả phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. Những thủ đoạn đó không thể nào phủ nhận được sự thật là: công tác phòng chống tham nhũng của Đảng ta đang ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt, đạt được nhiều kết quả quan trọng và trở thành một xu thế không thể đảo ngược.

Để đánh lạc hướng dư luận, bôi đen và phủ nhận những kết quả mà Đảng ta đạt được, các thế lực thù địch luôn tìm cách rêu rao rằng cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là hình thức, nhằm che mắt người dân, chúng xuyên tạc và cho rằng đó là các cuộc “thanh trừng nội bộ”…

Thực tiễn cho thấy, theo báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực, giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, Uỷ ban kiểm tra các cấp trong cả nước đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức Đảng và gần 168.000 đảng viên; trong đó, có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý. Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Những kết quả đạt được trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta cho thấy sự quyết tâm và quan điểm nhất quán của Đảng ta: "không có vùng cấm, không có ngoại lệ", không bao che, bất kể người đó là ai.

Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc chiến chống tham nhũng trên phạm vi cả nước, Hội nghị Trung ương 5 Khóa XIII diễn ra vào tháng 5/2022 đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở 63 tỉnh, thành phố. Sự ra đời của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã tạo sự đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, cơ sở trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Kết quả bước đầu trong hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã khẳng định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân đồng tình, ủng hộ; đồng thời khẳng định quyết tâm của Đảng ta là đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm tham nhũng, tiêu cực.

Những luận điệu cho rằng công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là “cuộc chiến thanh trừng phe phái” là hoàn toàn sai trái, xuyên tạc. Cuộc chiến chống tham nhũng chắc chắn sẽ còn nhiều cam go phía trước, và hành vi tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại, là thực tế khách quan không thể phủ nhận. Tuy nhiên, với nỗ lực, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, tình trạng tham nhũng, tiêu cực sẽ từng bước được ngăn chặn, đẩy lùi, tạo sự ổn định để đất nước phát triển vững mạnh hơn.

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIÊN CỦA ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM CÔNG BỐ NĂM 1943

 

          Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được công bố năm 1943, là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn và ý nghĩa lịch sử sâu sắc của Đảng ta, được coi là Tuyên ngôn của Đảng về một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Đề cương văn hóa Việt Nam là ngọn đuốc soi đường và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (ngày 24-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát định hướng của văn hóa mới bằng một luận điểm rất sâu sắc là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sau đó là văn hóa kháng chiến, kiến quốc, văn hóa tham gia vào đời sống mới, sửa chữa thói hư tật xấu cho cán bộ, chống tham nhũng, làm cho dân tộc Việt đoàn kết, tự cường bằng cách nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí. Tinh thần ấy trở thành đạo đức xã hội “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đã tập hợp mọi lực lượng xã hội, tôn giáo, đảng phái cho mục đích giành độc lập dân tộc, là phương châm hành động tất cả cho tiền tuyến, tiếng hát át tiếng bom, là động lực tinh thần và nguồn lực phát triển nhằm mục đích vì hòa bình, tự do, dân chủ, vì sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Đây không phải là văn hóa ứng dụng mà là văn hóa hành động, là lối sống của cả xã hội, là đạo đức của thời đại chứ không phải chỉ là những nghiên cứu lý thuyết xa rời thực tiễn. Cái đích của đường lối văn hóa mới đã nói lên bản chất vấn đề.

Có thể khẳng định, Đề cương về văn hóa năm 1943 là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, đề cập toàn diện và sâu sắc những vấn đề mang tính chất nền tảng về nguyên tắc, phương châm, phương hướng. Tròn 80 năm qua, bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể có nhiều thay đổi nhưng những nội dung cốt lõi trong Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị.

Tiếp theo Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI được xem là những văn kiện quan trọng của Đảng về phát triển văn hóa Việt Nam. Các văn kiện này đã đề cập đến việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cụ thể hóa 3 nguyên tắc (dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa) trong phát triển văn hóa Việt Nam của bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943. Không chỉ các nghị quyết của Đảng mà các văn kiện, chiến lược, văn bản khác của Nhà nước cũng thường xuyên đề cập đến 3 nguyên tắc này. Điều đó chứng tỏ sức sống lâu bền của Đề cương văn hóa 1943.

Bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước hôm nay, nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Văn hóa trong chính trị và kinh tế được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong phần nói về văn hóa, đã nhấn những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc... và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam…; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;... phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Đảng ta đồng thời chỉ rõ, trung tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế. Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng.

Nhằm phát huy thành tựu và khắc phục nhanh những hạn chế, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra vào tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Trong đó, Tổng Bí thư yêu cầu, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về văn hóa. Khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung cho kinh tế, mà ít quan tâm đến văn hóa. Hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng, đồng thời tôn vinh tài năng và cống hiến của đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại…

Trải qua 80 năm, Đề cương vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, tiếp tục soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐẢNG DUY NHẤT CẦM QUYỀN VÀ LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC, CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ VÀ TOÀN XÃ HỘI

 

             Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930 đã chấm dứt sự bế tắc, khủng hoảng kéo dài về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta phải sống cuộc đời lầm than, cơ cực, bị bóc lột tận xương tủy dưới chế độ thực dân, phong kiến. Dân tộc và nhân dân ta đang cần “Ngọn đuốc” soi đường, chỉ lối và dẫn dắt, để nhân dân vùng lên xóa bỏ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành lại cơm no, áo ấm. Chính lúc này Hồ Chí Minh đã đưa ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin về với dân tộc Việt nam, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân lao động để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là kết quả từ sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Chỉ sau 15 năm ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân, phát triển rộng khắp trên cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Đặc biệt thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 làm nên kỳ tích trong lịch sử của dân tộc ta. Đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc Việt Nam sang một kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đưa “Nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội”. Minh chứng là, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cùng với phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Chính phủ liêm chính, hành động. Bác Hồ từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc… Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đảng cũng luôn xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Từ đó Đảng ra luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Các nhiệm kỳ, nhất là mấy nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta đều ban hành các nghị quyết về công tác cán bộ, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ba Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị... Tại Đại hội XIII của Đảng, trong Báo cáo chính trị, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”.

Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Đảng và Nhà nước luôn kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí... Từ đó nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp đã bị xử lý kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật. Điều đó càng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn xuyên tạc những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, vu cáo chủ trương phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Họ rêu rao đây là sự đấu đá, thanh trừng nội bộ. Song sự thật, chân lý luôn được chứng minh và tỏa sáng trong thực tiễn cuộc sống. Đó là đông đảo nhân dân tin tưởng, hoan nghênh, ủng hộ và cùng tham gia phát hiện, tố giác; đó là các nước trên thế giới tin tưởng, công nhận và tôn trọng. Chính vì thế Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam; là niềm tin, là chỗ dựa vững chắc, là niềm tự hào của dân tộc ta, Nhân dân ta.

TÔN GIÁO LUÔN LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC

 

         Thời gian gần đây các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng tôn giáo là một trong những mũi nhọn để công kích, chống phá Đảng, nhà nước ta. Những đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ XHCN dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò của Đảng, Nhà nước ta.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa quan tâm, chăm lo, bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta.

Ngày 30/8, tại Hội trường Thống Nhất, TPHCM, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu: “Đất nước có phong trào gì thì các tôn giáo hưởng ứng tích cực, đóng góp hiệu quả cho phong trào đó. Đất nước có khó khăn, thách thức thì với tinh thần đại đoàn kết, tôn giáo đồng hành cùng đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đất nước có thuận lợi và thời cơ thì tôn giáo thúc đẩy mạnh mẽ để phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng và nhân dân ấm no, hạnh phúc”.

Trong giai đoạn hiện nay, tôn giáo ở Việt Nam đều có mối quan hệ quốc tế sâu sắc. Đây chính là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng, sử dụng mọi chiêu trò để vu khống Đảng, Nhà nước ta “xâm phạm quyền tự do, đàn áp tôn giáo”; từ đó, kêu gọi các tổ chức, cộng đồng quốc tế lên tiếng, can thiệp. Bằng hình thức lôi kéo, cổ súy, hậu thuẫn cho một số linh mục, chức sắc tôn giáo có nhiều tham vọng chính trị và lợi dụng đức tin của các tín đồ đã tuyên truyền, xuyên tạc hết sức phản động về Đảng, chế độ, chính quyền các cấp; ngang nhiên phát thư ngỏ trên mạng xã hội, kêu gọi, kích động một bộ phận nhân dân có đạo gây rối.

Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc có nhiều hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng.

Với tinh thần đoàn kết, phát huy những bài học quý về sự tham gia, chung tay của các tổ chức tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước ta luôn duy trì củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội. Tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động y tế, giáo dục, dạy nghề, an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương. Phát huy nguồn lực, thế mạnh của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước. Tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Quyết chống "lương y rởm"

 

 Những năm gần đây nổi lên tình trạng nhiều đối tượng tự xưng là “lương y” tìm về các vùng quê "tư vấn sức khỏe, bán thuốc tận nhà" nhằm lừa đảo, bán thực phẩm chức năng dưới danh nghĩa thuốc chữa bệnh.

Nguy hại hơn, nhiều đối tượng đã mượn danh, giả danh để "hành nghề" bằng cách sử dụng hình ảnh, video cắt ghép của bệnh viện hay bác sĩ có uy tín để tư vấn, cung cấp dịch vụ sức khỏe, bán thuốc trực tuyến trên các nền tảng mạng xã hội. Rất nhiều người dân, nhất là người cao tuổi, đã bị các đối tượng lừa mua thuốc giả, kém chất lượng, tiền mất tật mang. Vấn nạn này còn làm tổn hại lớn tới danh dự, uy tín của ngành y và những thầy thuốc chân chính.

Trước thực trạng trên, một số bệnh viện và bác sĩ đã chủ động dành thời gian phản hồi thông tin của người dân; thông báo rộng rãi về việc không bán thuốc qua mạng xã hội; cán bộ, nhân viên của bệnh viện không tham gia các hoạt động khám, chữa bệnh, tư vấn sức khỏe không đúng chức năng, nhiệm vụ. Cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc kiểm tra, bóc gỡ hàng nghìn bài viết, trang tin quảng cáo thuốc, thực phẩm chức năng sai sự thật trên internet. Thế nhưng, vấn nạn mạo danh bệnh viện và lương y để lừa bán thuốc "rởm" vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm.

Nguyên nhân là do chúng ta chưa có chế tài đủ mạnh để xử phạt, răn đe những kẻ sống "ký sinh" trên uy tín của người thầy thuốc; do các cơ quan, đơn vị liên quan đến trách nhiệm giải quyết vấn nạn này còn thờ ơ, nhẹ tay. Thực tế, có rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến giả mạo cán bộ ngành y. Hơn nữa, các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt chung tay cùng ngành y tế phòng, chống vấn nạn này. Mặt khác, nhận thức của người dân về y tế, chăm sóc sức khỏe chưa đồng đều; đặc biệt, người dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn thiếu hiểu biết toàn diện về y tế, dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng.

Từ thực trạng trên, đã đến lúc các cơ quan chức năng cần rốt ráo vào cuộc ngăn chặn, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân lợi dụng hình ảnh, uy tín của các cơ sở y tế và thầy thuốc để trục lợi; xây dựng chế tài xử phạt mạnh, đủ sức răn đe, tránh tình trạng do lợi nhuận lớn, các đối tượng vi phạm sẵn sàng chịu xử phạt hành chính để tiếp tục “hành nghề”. Công tác tuyên truyền, phổ biến về y tế, sức khỏe phải được cơ quan truyền thông các cấp, các ngành, tổ chức xã hội quan tâm, đẩy mạnh, lan tỏa đến từng thôn, bản để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân; giúp người bệnh chủ động lựa chọn các cơ sở y tế có uy tín, được cấp phép khám, chữa bệnh; tránh bị các "lương y rởm" chèo kéo dẫn đến tiền mất tật mang.

Bên cạnh việc Nhà nước tiếp tục quan tâm xây dựng, phát triển mạng lưới y tế từ Trung ương đến cơ sở cả về số lượng và chất lượng thì ngành y tế, các bệnh viện và đội ngũ y, bác sĩ cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong nâng cao trình độ chuyên môn, y đức để các cơ sở y tế trở thành địa chỉ tin cậy của mỗi người dân. Cộng đồng đủ am hiểu, ngành y tế đủ niềm tin thì những kẻ mạo danh, sống nhờ trên danh dự, uy tín của thầy thuốc sẽ không còn đất sống.

Nguồn: Báo QĐND

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 03!

         “Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tuỳ chỗ mà dùng được”.
     Lời của Bác trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ” khi Người bận công việc chung không đến tham dự cùng các đồng chí Bắc Bộ để phê bình, kiểm thảo và bàn bạc công việc đẩy mạnh kháng chiến. Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn có tính chất quyết định, vấn đề đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ kháng chiến đặt ra ngày càng cấp thiết. Người đã căn dặn, về việc xây dựng, sử dụng và bố trí đội ngũ cán bộ trên cơ sở phải đánh giá đúng cán bộ, với mục đích là “phải khéo dùng cán bộ”, phải biết rõ năng lực của cán bộ (tức điểm yếu, điểm mạnh, chỗ hay, chỗ dở), cất nhắc cán bộ cho đúng, bố trí sử dụng cán bộ phải hợp lý, hợp tình, đúng người, đúng việc, đúng sở trường, vì việc mà giao người, giúp cán bộ phải đi đôi với giữ gìn cán bộ. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc trong công tác cán bộ, bởi người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, biết dùng chỗ hay thì sẽ phát huy được thế mạnh, đồng thời giúp sữa chữa, hạn chế được chỗ dở; dùng người cũng như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Người nhắc nhở cần khắc phục, sửa chữa hạn chế “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người”.
     Công tác cán bộ muốn đạt được kết quả tốt trước hết phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc và là một quan điểm xuất phát để Đảng ta tiến hành các công việc khác của công tác cán bộ. Muốn hiểu đánh giá đúng cán bộ, trước hết phải có những tiêu chuẩn cán bộ từng loại phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đồng thời phải biết bố trí sử dụng cán bộ đúng với nhiệm vụ, công việc cụ thể. Bố trí sai người, sai việc tất dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ mà còn làm hại cán bộ, lãng phí “chất xám”. Thực hiện lời dạy của Bác, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
     Ngày nay, thực hiện đường lối đổi mới, việc xây dựng đội ngũ cán bộ luôn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đối với quân đội ta ở thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trình độ năng lực chuyên môn, “vừa hồng, vừa chuyên” thực hiện quan điểm, lề lối tác phong công tác. Bởi lẽ, cán bộ là lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội, đưa chủ trương, đường lối, chính sách nghị quyết của Đảng vào quán triệt, chỉ đạo, tổ chức thực hiện trong hoạt động của quân đội; xây dựng, huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, biến đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị mệnh lệnh cấp trên thành hiệu quả thiết thực trong đời sống chiến đấu, công tác, lao động sản xuất của quân đội. Vì vậy, bất cứ nhiệm vụ gì, dù khó khăn đến đâu, có cán bộ tốt thì thành công./.
Môi trường (Yn) ST.

Đấu tranh với thủ đoạn mới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 Mỗi khi đất nước ta diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách bịa đặt, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi thành lập các đảng mới để thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam.

Thất bại trong việc thành lập các tổ chức được coi là “đảng đối lập” với Đảng Cộng sản Việt Nam ở cả trong và ngoài nước, chúng lại đưa ra những thủ đoạn mới như: chia đôi Đảng ta làm hai phe hay kêu gọi các tổ chức chính trị - xã hội tự đứng ra thành lập Đảng mới, cương lĩnh mới, không lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng…. Các trí thức “rởm” coi đây là “giải pháp” hợp lý trong tình hình hiện nay.

Đây là một trong những tiếng kêu lạc loài của bọn cơ hội chính trị, trở cờ, phản bội và những kẻ vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, những “Việt gian” thời kỳ mới. Mục đích cuối cùng của chúng vẫn là phủ nhận vai trò lãnh đạo, uy tín, nhân tố quyết định của Đảng ta với đất nước, xóa bỏ cốt lõi nền tảng tinh thần của dân ta trong tình hình hiện nay.

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện, phát huy cao nhất sức mạnh, ý chí, khát vọng của toàn thể dân tộc

Ước mơ, khát vọng ngàn đời của người Việt Nam là: Tổ quốc độc lập, phát triển, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nhìn lại lịch sử dân tộc, nước nhà thịnh hay suy, người dân đoàn kết một lòng, không sợ gian khổ, hy sinh, dám đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và tài sản vì ước mơ, khát vọng đó, vì vận mệnh non sông thì tư tưởng, mục đích của những người lãnh đạo - đại biểu ưu tú của dân tộc phải thống nhất, đáp ứng và hiện thực hóa được khát vọng, ý chí, sức mạnh của nhân dân. Biểu hiện trong thời đại Hồ Chí Minh là “ý Đảng, lòng dân” phải thống nhất. Đường lối, quan điểm của Đảng phải phù hợp với lòng dân, vì lợi ích tối cao của dân tộc và người dân, khơi dậy, phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Đảng chỉ có một mục đích: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, “ý Đảng” đã hợp “lòng dân”.

Chỉ có Đảng mới có nền tảng tư tưởng tiến bộ, phù hợp với văn hóa, truyền thống Việt Nam, đó  là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (giữ vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần xã hội). Chỉ có Đảng mới tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp, phát huy cao nhất lòng yêu nước, trí tuệ, đoàn kết của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng, kể cả trong chiến tranh lẫn thời bình. Chỉ có những đảng viên kiên trung mới chịu đựng được mọi gian lao, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ của loài người, trở thành tấm gương sáng cho nhân dân noi theo. Chỉ có Đảng mới đủ tâm, tầm, sức đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân tộc trong các quan hệ quốc tế. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới làm cho đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam được nhân loại tiến bộ, ưa chuộng hòa bình trên thế giới biết đến, tôn trọng và yêu quý, ngưỡng mộ.

Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các tổ chức này đều chịu sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, ý chí và hành động phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nếu từ bỏ nền tảng tư tưởng đó thì các tổ chức này hoạt động vì cái gì, vì lợi ích của ai, có đáp ứng được ước mơ, khát vọng xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân, khát vọng xây dựng đất nước phát triển phồn vinh của người Việt Nam? Chắc chắn là không. Đó là sự hoang tưởng, chỉ làm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại đất nước.

Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại, viết nên trang sử vàng vinh quang nhất trong lịch sử hàng ngàn năm văn hiến: tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất là trước những khó khăn, thách thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta cũng không thể tránh khỏi những sai lầm, nhưng Đảng ta đã sớm phát hiện, kịp thời đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động

Hệ thống tổ chức Đảng được thành lập và hoạt động theo Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, tự phê bình và phê bình; đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân; hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng luôn chỉnh đốn, đổi mới, ngày càng vững mạnh, giữ vững được vai trò lãnh đạo, nhất là đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả công cuộc “đốt lò”, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Việc chia đôi hay ba Đảng chỉ làm suy yếu Đảng, tạo cớ để bọn phản động, cơ hội chính trị, bất mãn chui sâu, leo cao vào Đảng để phá hoại nội bộ, phá hoại đất nước.

Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp và cả dân tộc Việt Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh không có một tổ chức nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.

Trong thời gian tới, toàn dân Việt Nam tiếp tục tin tưởng, đoàn kết, phát huy truyền thống yêu nước, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn chân chính của người dân Việt Nam, lịch sử Việt Nam chứ không như những “Việt gian” thời kỳ mới xuyên tạc, bịa đặt.


Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. Đó là một quá trình không ngừng đổi mới nhận thức và tư duy về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Với nhận thức tổng quát về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nền sản xuất nhỏ là chủ yếu, mà theo cách nói của V.I.Lênin là “quá độ gián tiếp”. Đây là sự phát triển và đóng góp quan trọng của Đảng ta vào quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm này được Đại hội lần thứ VI của Đảng nêu ra và các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và khẳng định. Đồng thời, thực tiễn cách mạng trong suốt hơn 35 đổi mới vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn, điều này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đó là: “tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”[8]. Tổng Bí thư luận chứng một cách sáng rõ khi chỉ ra: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp; cho nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Những nhận định này là khoa học đứng trên lập trường của người mácxít, hoàn toàn không có sự mơ hồ, ảo tưởng như các thế lực thù địch từng rêu rao.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, văn hóa tinh thần luôn là động lực quan trọng, về điều này V.I.Lênin đã chỉ ra vấn đề văn hóa, trình độ văn hóa của quần chúng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội như là một trong những nhiệm vụ khó khăn, nhưng cơ bản và quyết định nhất, đồng thời là một động lực tinh thần to lớn nhất. Người đặc biệt nhấn mạnh việc cần phải làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số tri thức của nhân loại cộng lại, với tính cách là nội dung cơ bản, vừa là động lực mạnh mẽ về mặt văn hóa tinh thần trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vận dụng trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã nhận thứcvà từng bước hoàn thiện quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đây là sự đổi mới căn bản nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cùng với quá trình đó là sự hình thành quan niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực của nhân dân.

Với quan điểm phát triển kinh tế là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát triển. Theo đó, quan điểm Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”. Những nhận định này là hoàn toàn có căn cứ khoa học, bác bỏ hoàn toàn các quan điểm sai trái thù địch xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Cùng với việc chỉ ra những hạn chế không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản, trong bài viết, Tổng Bí thư cũng đã khẳng định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đạt được đó là: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”. Với quan điểm phủ định biện chứng chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ chúng ta không bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản; tuy nhiên sự kế thừa này có sự chọn lọc.

Trong bài viết, Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Và đi đến kết luận: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”; đồng thời, khẳng định Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là cội nguồn của mọi sức mạnh, mọi thắng lợi, là hoàn toàn có căn cứ khoa học không phải là “sự hoang tưởng”, lại càng không phải là “cái bánh vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam”như những luận điệu xuyên tác, phủ nhận thành quả cách mạng chúng ta của các thế lực thù địch.

Qua bài viết của Tổng Bí thư chúng ta thấy rõ giá trị sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn, đó là lý luận về chủ nghĩa xã hôi, về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Bài viết thể hiện tư duy chiến lược sắc sảo, tính khoa học, tính chính trị và tính chiến đấu cao; đồng thời, mang giá trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sắc đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng, là tất yếu khách quan ở Việt Nam

 Trong bài viết Tổng Bí thư nêu lên ba cách hiểu về chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ... Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”.

Theo đó, trong bài viết, Tổng Bí thư tiếp cận chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra, V.I.Lênin là người bổ sung phát triển. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kiên định theo chủ nghĩa Mác - Lênin “không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo”[1]. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra: “Chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”[2]. Trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã có cách hiểu về chủ nghĩa xã hội là: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[3].

Theo đó, chủ nghĩa xã hội được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội - là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp, một nấc thang của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng là quá trình nhân dân ta hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ và mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, là xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi người dân; Đảng ta khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[4]. Đây là đặc trưng riêng của chế độ xã hội mà ta xây dựng hay nói cách khác đây là mục tiêu cách mạng mà chúng ta hướng đến để đạt được.

Về điểm này, trong bài viết của mình Tổng Bí thư khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Khẳng định này là một sự nghiên cứu vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.  

Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tất yếu khách quan.Xuất phát từ lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi đó các lực lượng cách mạng trong xã hội lúc bấy giờđã đứng lên làm cách mạng nhưng đều bị thất bại; chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới chấm dứt sự bế tắc về đường lối cách mạng. Từ đó, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản[5]. Đó là việc xác định cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản; là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì thế, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[6]. Nghĩa là muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết phải thực hiện được cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Đây là hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, nhưng có quan hệ biện chứng thống nhất với nhau. Bởi vì độc lập dân tộc là cơ sở để xây dựng chủ nghĩa xã hội; còn đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc, để thực hiện mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam toàn dân tộc Việt Nam đã đứng lên làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khẳng định, sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và là khát vọng của dân tộc Việt Nam. Đảng ta khẳng định: “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[7]. Tạo nên sức mạnh nội sinh của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Ở Việt Nam thực tiễn đã chứng minh Độc lập dân tộc chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội; mới mang lại được cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Theo đó, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng không ngừng được bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn lịch; là thực tế khách quan không ai có thể phủ nhận được.

Bác bỏ luận điệu đòi xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới, phát huy trí tuệ của các cấp các ngành và toàn dân để xây dựng nền giáo dục Việt Nam đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

Bên cạnh những đóng góp tâm huyết, vẫn còn những kẻ luôn xuyên tạc, bịa đặt, đặc biệt lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm trong lĩnh vực giáo dục trong thời gian qua để vu khống, quy chụp, đổ lỗi do chế độ xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trên mạng xã hội, chúng đăng tải nhiều bài viết cho rằng: “nhìn theo góc nào cũng thấy Việt Nam có nền giáo dục quá tuột hậu so với chính Việt Nam”. Các bài viết đã nhận định một cách hằn học, định kiến theo các góc độ như: lịch sử (giấu nhẹm diễn biến lịch sử dẫn đến tình trạng mù lịch sử); đạo đức (phủ nhận việc học tập noi gương đạo đức Hồ Chí Minh); xã hội học (không xem trọng ý kiến, nguyện vọng của cha mẹ học sinh); chính trị (chính trị là giáo dục, giáo dục là chính trị; nền giáo dục sẽ bị chính trị làm cho dập nát nếu không cõng trên lưng nó nền chính trị). Từ đó, chúng kêu gọi, muốn phát triển nền giáo dục thì phải xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - “khối u quá khủng khiếp” của giáo dục ở Việt Nam. Những luận điệu trên hoàn toàn vô căn cứ, phủ nhận vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng mácxít trong nền tảng tinh thần của xã hội, xuyên tạc việc giáo dục lịch sử ở Việt Nam hiện nay.

Một là, chẳng có nền giáo dục nào đứng ngoài chính trị, phát triển giáo dục lại đòi xóa bỏ chế độ đương thời

Nhìn lại lịch sử xã hội loài người, mỗi chế độ xã hội có một nền giáo dục tương ứng, phục vụ giai cấp lãnh đạo và lợi ích của xã hội. Nếu nền giáo dục đi ngược lại điều đó thì sẽ không tồn tại và phát triển được. Không thể có chuyện ở chế độ phong kiến phải xây dựng nền giáo dục không phục vụ lợi ích của các “triều đình”. Càng không thể có chuyện ở chế độ tư bản chủ nghĩa phải xây dựng nền giáo dục không phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Chẳng nhà cầm quyền nào cổ súy và tiếp nhận những tư tưởng, việc làm để phát triển nền giáo dục cần phải đứng ngoài chính chị và lật đổ giai cấp cầm quyền.

Nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta, giữ vai trò trung tâm, chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Nói muốn phát triển nền giáo dục Việt Nam cần phải xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đó là sự hoang tưởng, chẳng hiểu gì về giáo dục và chính trị.

Có một sự thật hiển nhiên mà các nhà dân chủ cuội đều biết nhưng vẫn trơ trẽn xuyên tạc, phủ nhận: đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, là sự lựa chọn, khát vọng của người dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành và có cuộc sống sung sướng, tự do. Thành quả, cơ đồ của dân tộc ta được như ngày hôm nay là công lao, mồ hôi, xương máu biết bao thế hệ người Việt Nam, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Bác Hồ vĩ đại, trong đó có sự hy sinh của hàng triệu của đảng viên. Lợi ích của Đảng tất cả chỉ vì dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Vậy nền giáo dục Việt Nam phải đi theo hướng nào khi xóa bỏ cái sự thật hiển nhiên ấy. Đành rằng, nền giáo dục của ta có những yếu kém, khuyết điểm song không phải do bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng đang hết sức, tận tâm, tận lực để khắc phục. Đổi mới, xây dựng nền giáo dục Việt Nam phải vì mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thật nực cười cho những kẻ “góp ý”, “kêu gọi” chấn hưng, đổi mới, xây dựng nền giáo dục nước nhà lại đòi xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, giáo dục lịch sử ở Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử dân tộc

“Mất nước chứ không mất làng”, đó là truyền thống ngàn đời của dân tộc ta. “Làng” ở đây là lịch sử truyền thống, văn hóa, đạo đức tiến bộ, độc đáo của người Việt Nam. Cha ông ta luôn coi trọng giáo dục lịch sử dân tộc cho thế hệ sau. Dù kẻ thù có tìm mọi cách đồng hóa, phá hoại, xuyên tạc, song người Việt Nam luôn sáng suốt, phân biệt rạch ròi công, tội, đánh giá khách quan về lịch sử. Đó là sự răn dạy con cháu “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những người có công với non sông đất nước, vạch mặt những kẻ “Việt  gian”, “bán nước”, “cõng rắn cắn gà nhà”. Đó là thái độ cứng rắn, kiên quyết với thứ “ăn cháo đá bát”, “ăn cây táo rào cây sung” khi nhìn nhận về lịch sử dân tộc. Giáo dục lịch sử ngày xưa chủ yếu là truyền miệng, gặp rất nhiều khó khăn từ kẻ “xâm lược”.

Trong tình hình mới, sự dạy bảo của cha ông về giáo dục lịch sử dân tộc được Đảng, Nhà nước ta và nhân dân ta thấm nhuần và thực thi có hiệu quả. Không thể không thừa nhận sự hiểu biết đúng về lịch sử của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ trẻ còn nhiều thứ đáng bàn. Tuy nhiên, tâm huyết với vấn đề này là phải góp ý về phương pháp giáo dục lịch sử, phát huy vai trò của các cấp các ngành và toàn xã hội, nhất là từ phía ông bà, cha mẹ với con cháu và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động “xâm lăng”, xuyên tạc về văn hóa, giáo dục, đạo đức, chú ý nhiều hơn nữa những tác động từ mạng xã hội.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng nền giáo dục Việt Nam theo hướng: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài” còn nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, bên cạnh việc đóng góp những tâm huyết, nhân lực, trí lực, vật lực cho phát triển nền giáo dục nước nhà, chúng ta cũng luôn tỉnh táo, nhận diện, vạch trần và đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, chống phá, nhất là những kẻ đòi “xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam.

Bác bỏ các luận điệu phủ nhận kết quả thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam

 Tiến bộ và công bằng xã hội là ước mơ, khát vọng ngàn đời của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử. Đây cũng là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở nước ta, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, không những là mục tiêu, nhiệm vụ cần giải quyết, mà còn là động lực của sự phát triển.

 Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, bọn trở cờ, cơ hội chính trị, bất mãn lại luôn tìm mọi cách để phủ nhận điều đó. Bằng việc tạo dựng, thu nhập những hình ảnh, chứng cứ rời rạc về những hạn chế, tiêu cực trong xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật ở từng bộ phận, địa phương, tổ chức, cá nhân, nhất là cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn của một bộ phận nhân dân, những người nghèo, vùng sâu, xa, biên giới, hải đảo, những án oan, phân hóa, chênh lệch giàu nghèo…, các thế lực phản động, thù địch đã tự vẽ ra viễn cảnh của một Việt Nam “thụt lùi”, không có “dân chủ”, “nhân quyền”. Chúng rêu rao rằng, Đảng, Nhà nước ta không hề quan tâm, chăm lo đến cuộc sống của người dân, thậm chí “bỏ mặc”, “tàn ác” với nhân dân, “tàn phá” đất nước để mưu lợi cá nhân. Trên cơ sở “tưởng tượng” ra những thứ “tự do” không có cả trên thiên đàng và hiện thực, cuộc sống “không làm mà vẫn có ăn”, sống sung sướng ở phía chân trời mới, xứ sở văn minh ở các nước tư bản chủ nghĩa, các thế lực phản động, thù địch không ngừng kêu gọi, tuyên truyền, kích động mọi người đấu tranh, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và thực tế đã có không ít người tin, thực hiện theo những luận điệu sai trái đó, làm những việc của một kẻ “Việt gian” thời kỳ mới, làm tổn hại đến thanh danh, lợi ích của quốc gia, dân tộc, để lại nỗi ô nhục, xấu hổ cho chính quê hương, gia đình, người thân, bè bạn của mình. Cũng có người đã “tỉnh ngộ”, dù là sớm hay muộn song cũng đều khẳng định rằng, chẳng ở nơi đâu bình yên, sống tự do, hạnh phúc như nơi chôn nhan cắt rốn, trên quê hương Việt Nam tươi đẹp. Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó cũng chính là đường lối, chủ trương xuyên suốt của Đảng, hiện thực sinh động về tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta.

Quan điểm của Đảng về tiến bộ và công bằng xã hội được xác định là một chủ trương lớn, nhất quán, đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, vì con người. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu hướng tới, có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí trong đó lấy con người làm trung tâm.

Đại hội VI của Đảng, lần đầu tiên đặt vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết các mục tiêu xã hội khi xác định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”(1). Đảng ta cũng chỉ rõ: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(2).

Trong các văn kiện, nghị quyết từ đó đến nay, Đảng ta luôn khẳng định phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảngtiếp tục xác định phải nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(3).

Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ: “Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(4). Về gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5).

Những thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tất vả vì con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện con người, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển, biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực chủ yếu sau:

Về kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam hơn 35 năm đổi mới đã có những bước phát triển ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, quy mô nền kinh tế đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(6).

Về xã hội: Nhận thức thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng, Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp, điển hình là Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Các chính sách khác như miễn giảm học phí cho trẻ em theo học ở các cơ sở giáo dục công lập; Chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3 - 5 tuổi đi học mẫu giáo.… Theo Ngân hàng thế giới, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các nước trong cùng nhóm thu nhập trung bình thấp. Như vậy, sự phân phối thu nhập của Việt Nam vẫn trong ngưỡng khá an toàn, so với các nước cùng khung thu nhập. Ngoài ra, sự bất bình đẳng về thu nhập tại Việt Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Maylaisia và Thái Lan, và cao hơn Hàn Quốc, một nền kinh tế phát triển của châu Á. Về thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã hoàn thành được Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Xét theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo cũng giảm dần theo thời gian cùng với quá trình tăng trưởng. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước)(7). Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất, trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cùng có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm dần, từ 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm 2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19 tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng, đây là tình hình chung của nhiều nước trên thế giới. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Theo Tổ chức y tế thế giới, tuổi thọ trung bình của Việt Nam đạt 76,3 tuổi, số năm sống khẻ sau tuổi 60 đạt 17,2 năm, đứng thứ 42/183 nước(8)Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ trong việc đảm bảo bình đẳng giới thông qua các luật, chiến lược và chính sách về bình đẳng giới, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị cho tới kinh doanh và văn hoá - xã hội. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016 - 2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Tỷ lệ đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999 - 2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016 - 2021. Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Lần đầu tiên trong lịch sử, Chủ tịch Quốc hội là nữ (Quốc hội khóa XIV)(9).

Về giáo dục:Phát triển con người được Việt Nam đặc biệt chú trọng thông qua giáo dục và đào tạo với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Với mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên trên cả nước đã tăng rõ rệt. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua(10). Điều này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các chương trình về xóa mù chữ. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết, ước tính tỷ lệ nam giới biết chữ là 96,6% trong khi tỷ lệ này ở nữ giới đã lên tới 93,5% và dự kiến đến năm 2030, khoảng cách này sẽ càng thu hẹp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng có xu hướng tăng đều qua các năm(11).

Về y tế: Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tỉ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81‰ năm 1990 xuống còn khoảng 21,5% năm 2017; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 13,4%; tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin chiếm 96,4%(12). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,5 tuổi năm 2017. Nếu so sánh công tác chăm sóc sức khỏe với các nước trong khu vực thì đây là một thành tựu rất lớn của chính sách y tế (Thái Lan, tuổi thọ bình quân là 72 tuổi; Malaysia, tỉ suất chết ở trẻ sơ sinh khoảng 16% và tuổi thọ bình quân là 73,3 tuổi). Tính đến năm 2017, cả nước có 13.583 cơ sở khám, chữa bệnh, tổ chức bộ máy y tế được hoàn thiện từ cơ sở đến các tỉnh, thành phố theo hướng phổ cập, chuyên sâu và hiện đại, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao và tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế bao phủ đến 83% dân số (tương đương 7.5915,2 nghìn người)(13). Điều này đã tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn về y tế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Như vậy, từ quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đến kết quả thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mà chúng ta đã và đang xây dựng, chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng là xã hội tương lai mà nhân loại tiến bộ hướng tới. Mọi âm mưu, hành động xuyên tạc, phủ nhận hiện thực sinh động đó đều là vô nghĩa. Mọi người dân Việt Nam tiếp tục đoàn kết một lòng, thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, kế hoạch mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.