Tiến bộ và công bằng xã hội là ước mơ, khát vọng ngàn đời của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử. Đây cũng là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở nước ta, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, không những là mục tiêu, nhiệm vụ cần giải quyết, mà còn là động lực của sự phát triển.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, bọn trở cờ, cơ hội chính trị, bất mãn lại luôn tìm mọi cách để phủ nhận điều đó. Bằng việc tạo dựng, thu nhập những hình ảnh, chứng cứ rời rạc về những hạn chế, tiêu cực trong xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật ở từng bộ phận, địa phương, tổ chức, cá nhân, nhất là cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn của một bộ phận nhân dân, những người nghèo, vùng sâu, xa, biên giới, hải đảo, những án oan, phân hóa, chênh lệch giàu nghèo…, các thế lực phản động, thù địch đã tự vẽ ra viễn cảnh của một Việt Nam “thụt lùi”, không có “dân chủ”, “nhân quyền”. Chúng rêu rao rằng, Đảng, Nhà nước ta không hề quan tâm, chăm lo đến cuộc sống của người dân, thậm chí “bỏ mặc”, “tàn ác” với nhân dân, “tàn phá” đất nước để mưu lợi cá nhân. Trên cơ sở “tưởng tượng” ra những thứ “tự do” không có cả trên thiên đàng và hiện thực, cuộc sống “không làm mà vẫn có ăn”, sống sung sướng ở phía chân trời mới, xứ sở văn minh ở các nước tư bản chủ nghĩa, các thế lực phản động, thù địch không ngừng kêu gọi, tuyên truyền, kích động mọi người đấu tranh, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và thực tế đã có không ít người tin, thực hiện theo những luận điệu sai trái đó, làm những việc của một kẻ “Việt gian” thời kỳ mới, làm tổn hại đến thanh danh, lợi ích của quốc gia, dân tộc, để lại nỗi ô nhục, xấu hổ cho chính quê hương, gia đình, người thân, bè bạn của mình. Cũng có người đã “tỉnh ngộ”, dù là sớm hay muộn song cũng đều khẳng định rằng, chẳng ở nơi đâu bình yên, sống tự do, hạnh phúc như nơi chôn nhan cắt rốn, trên quê hương Việt Nam tươi đẹp. Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó cũng chính là đường lối, chủ trương xuyên suốt của Đảng, hiện thực sinh động về tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta.
Quan điểm của Đảng về tiến bộ và công bằng xã hội được xác định là một chủ trương lớn, nhất quán, đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, vì con người. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu hướng tới, có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí trong đó lấy con người làm trung tâm.
Đại hội VI của Đảng, lần đầu tiên đặt vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết các mục tiêu xã hội khi xác định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”(1). Đảng ta cũng chỉ rõ: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(2).
Trong các văn kiện, nghị quyết từ đó đến nay, Đảng ta luôn khẳng định phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảngtiếp tục xác định phải nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(3).
Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ: “Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(4). Về gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5).
Những thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tất vả vì con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện con người, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển, biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
Về kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam hơn 35 năm đổi mới đã có những bước phát triển ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, quy mô nền kinh tế đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(6).
Về xã hội: Nhận thức thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng, Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp, điển hình là Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Các chính sách khác như miễn giảm học phí cho trẻ em theo học ở các cơ sở giáo dục công lập; Chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3 - 5 tuổi đi học mẫu giáo.… Theo Ngân hàng thế giới, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các nước trong cùng nhóm thu nhập trung bình thấp. Như vậy, sự phân phối thu nhập của Việt Nam vẫn trong ngưỡng khá an toàn, so với các nước cùng khung thu nhập. Ngoài ra, sự bất bình đẳng về thu nhập tại Việt Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Maylaisia và Thái Lan, và cao hơn Hàn Quốc, một nền kinh tế phát triển của châu Á. Về thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã hoàn thành được Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Xét theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo cũng giảm dần theo thời gian cùng với quá trình tăng trưởng. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước)(7). Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất, trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cùng có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm dần, từ 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm 2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19 tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng, đây là tình hình chung của nhiều nước trên thế giới. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Theo Tổ chức y tế thế giới, tuổi thọ trung bình của Việt Nam đạt 76,3 tuổi, số năm sống khẻ sau tuổi 60 đạt 17,2 năm, đứng thứ 42/183 nước(8). Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ trong việc đảm bảo bình đẳng giới thông qua các luật, chiến lược và chính sách về bình đẳng giới, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị cho tới kinh doanh và văn hoá - xã hội. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016 - 2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Tỷ lệ đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999 - 2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016 - 2021. Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Lần đầu tiên trong lịch sử, Chủ tịch Quốc hội là nữ (Quốc hội khóa XIV)(9).
Về giáo dục:Phát triển con người được Việt Nam đặc biệt chú trọng thông qua giáo dục và đào tạo với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Với mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên trên cả nước đã tăng rõ rệt. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua(10). Điều này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các chương trình về xóa mù chữ. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết, ước tính tỷ lệ nam giới biết chữ là 96,6% trong khi tỷ lệ này ở nữ giới đã lên tới 93,5% và dự kiến đến năm 2030, khoảng cách này sẽ càng thu hẹp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng có xu hướng tăng đều qua các năm(11).
Về y tế: Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tỉ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81‰ năm 1990 xuống còn khoảng 21,5% năm 2017; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 13,4%; tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin chiếm 96,4%(12). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,5 tuổi năm 2017. Nếu so sánh công tác chăm sóc sức khỏe với các nước trong khu vực thì đây là một thành tựu rất lớn của chính sách y tế (Thái Lan, tuổi thọ bình quân là 72 tuổi; Malaysia, tỉ suất chết ở trẻ sơ sinh khoảng 16% và tuổi thọ bình quân là 73,3 tuổi). Tính đến năm 2017, cả nước có 13.583 cơ sở khám, chữa bệnh, tổ chức bộ máy y tế được hoàn thiện từ cơ sở đến các tỉnh, thành phố theo hướng phổ cập, chuyên sâu và hiện đại, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao và tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế bao phủ đến 83% dân số (tương đương 7.5915,2 nghìn người)(13). Điều này đã tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn về y tế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Như vậy, từ quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đến kết quả thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mà chúng ta đã và đang xây dựng, chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng là xã hội tương lai mà nhân loại tiến bộ hướng tới. Mọi âm mưu, hành động xuyên tạc, phủ nhận hiện thực sinh động đó đều là vô nghĩa. Mọi người dân Việt Nam tiếp tục đoàn kết một lòng, thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, kế hoạch mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét