Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

Nhận diện những nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Nhận diện các nhóm đối tượng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng dù rất khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng khó khăn và phức tạp đến đâu cũng phải làm để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Các thế lực thù địch bao gồm cả những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trên thế giới trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Ngay ở các nước tư bản phát triển, những nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng tư bản theo kiểu truyền thống và các nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng XHCN cũng đấu tranh lẫn nhau. Các lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài luôn lôi kéo, kết hợp với những đối tượng chống đối, bất mãn ở trong nước lập ra các tổ chức để chống phá cách mạng nước ta. Một số cán bộ, đảng viên (trong đó có cả những đảng viên đã từng giữ chức vụ cao trong hệ thống chính trị) suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhóm người này không khó để nhận ra, nhưng lại rất khó đấu tranh. Đây là những người phản bội lại lý tưởng cộng sản và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi lại bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, ứng xử của những cơ quan, đơn vị nơi người đó công tác. Những nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng bao gồm:

Một là, nhóm đối lập về hệ tư tưởng. Đảng ta là hệ tư tưởng vô sản thì những người theo hệ tư tưởng tư sản, kể cả tàn dư phong kiến sẽ quyết liệt chống lại chúng ta.

Hai là, các thế lực thù địch về chính trị luôn chống lại chế độ XHCN của chúng ta, với mục đích làm con đường phát triển đất nước của Đảng chệch hướng, thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Ba là, những người vốn là đảng viên cộng sản nhưng không chịu rèn luyện, tu dưỡng, học tập, nâng cao tư tưởng, đạo đức cách mạng dẫn tới tha hóa về tư tưởng chính trị, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí là phai nhạt lý tưởng, “tự chuyển hóa, tự diễn biến” trong nội bộ.

 

 

 

 

Sự phá hoại của các thế lực thù địch, phản động và nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Sự phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch, phản động

Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực phản động ở trong nước và nước ngoài đang thay đổi phương thức hoạt động. Tuy nhiên, mục tiêu của họ vẫn không thay đổi là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Họ tấn công, phủ định, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu cổ vũ cho bạo lực, chiến tranh; phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, họ còn bôi xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhiều thủ đoạn tinh vi; chống phá chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Phương thức chống phá của họ chủ yếu là sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chuyên chống phá Việt Nam… Họ sử dụng internet và truyền thông xã hội để chống phá; lợi dụng những hạn chế trong quản lý nhà nước để kích động biểu tình trái phép và xuyên tạc đường lối; tổ chức các hội thảo đòi xem xét lại các vấn đề liên quan đến lịch sử… Cách làm của họ âm thầm và lâu dài nhưng tác hại thực sự rất khó lường. Ngang ngược hơn, họ còn đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013, đòi đa đảng; phá bỏ nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; vu cáo Đảng chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”; đối lập Đảng với Nhà nước và đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân…

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn lôi kéo, kích động một bộ phận người dân và cả một số cán bộ hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Đây cũng là những vấn đề cần được nhận diện đầy đủ để có biện pháp, phương hướng xử lý, đấu tranh phù hợp, hiệu quả.

Thực trạng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Trong những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù dịch là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, vì “địch đứng trong bóng tối, ta đứng ngoài ánh sáng, địch có năm, bảy kẻ thù với nhiều âm mưu, thủ đoạn, được sự hậu thuẫn của tài chính, khoa học-kỹ thuật còn ta chỉ là một nước đang phát triển”. Tuy nhiệm vụ khó khăn như vậy, nhưng thực tế cho thấy, ở nước ta công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Góp phần ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố và tăng cường niềm của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa có cơ chế, chính sách hữu hiệu về vật chất, tinh thần thỏa đáng để thu hút đông đảo lực lượng tham gia đấu tranh, chưa đa dạng hóa các hình thức thông tin, chất lượng thông tin chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu của người dân; chưa tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch; chưa phát huy vai trò giám sát, phản biện của các cơ quan báo chí, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội…

Là Đảng duy nhất cầm quyền, đảng viên của Đảng nắm hầu hết các chức vụ chủ chốt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu đạo đức của cán bộ , đảng viên ấy sa sút thì họ chính là một trong những nguyên nhân làm xói mòn nền tảng đạo đức xã hội, vô hiệu hóa quyền uy pháp luật. Vì thế, Đảng ta yêu cầu: “Kiên quyết, kiên trì, đấu tranh phòng, chống suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Hiện nay, Đảng ta đã chú trọng đến việc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận, nhưng thực tế cho thấy, mạng xã hội mới là “trận địa” chính để các thế lực phản động, thù địch tiến hành thực hiện âm mưu chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ cho việc đấu tranh  bảo vệ tư tưởng của Đảng còn chưa đáp ứng yêu cầu; việc rà soát, phát hiện các trang mạng, các đối tượng phản động còn chậm, chưa hoàn toàn chủ động định hướng, cung cấp kịp thời để làm chủ thông tin, lấy thông tin tích cực, chính thống đấu tranh chống lại các thông tin sai trái, bịa đặt, vu cáo, phản động trên mạng xã hội, internet. Việc khai thác, phát triển những tiện ích, lợi thế của thông tin điện tử, mạng xã hội… còn hạn chế. Việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại chưa được quan tâm đúng mức; chưa làm tốt việc dự báo, định hướng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam ổn định và phát triển, nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế còn hạn chế. Việc kết hợp đưa thông tin ra nước ngoài và thông tin chính thống từ thế giới vào Việt Nam chưa chặt chẽ, hiệu quả; do đó chưa hạn chế được nhiều tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.

Chưa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc với cơ cấu, quy mô hợp lý các loại hình thông tin theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển khoa học và công nghệ, thông tin, truyền thông thế giới, đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngang tầm khu vực và thế giới… Vẫn còn tình trạng thông tin thiếu cân đối, chưa đảm bảo sự đồng đều về phân bố và khoảng cách hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa các vùng, miền.

Giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

Một là, tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Hai là, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Đảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Khẩn trương thực hiện nghiêm quy hoạch báo chí đã được phê duyệt. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội.

Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet, mạng xã hội. Trong đó, chú trọng xây dựng, hoàn thiện pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội. Phát huy trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch…

Bốn là, tập trung đổi mới nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; hệ thống hoá, phổ biến các thành tựu lý luận trong thời gian qua; nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập nghị quyết để vận dụng vào thực tiễn; đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; xử lý nghiêm khắc, đúng pháp luật đối với đảng viên, cán bộ vi phạm các quy định, Điều lệ Đảng… Bên cạnh “chống”, cần tăng cường biện pháp “xây”, thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; giải quyết có hiệu quả khiếu nại, tố cáo; tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Các địa phương sớm kiện toàn tổ chức tuyên giáo, xây dựng đội ngũ cán bộ sẵn sàng “phản ứng nhanh” với những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng. Tích cực, chủ động cung cấp những thông tin chính thống để định hướng dư luận về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước…

Năm là, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cần đẩy mạnh tuyên truyền Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng. Tuyên truyền sâu rộng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cần đánh giá lại “tâm lý” xã hội hiện nay, trong đó phải phân tích sâu đến từng giai tầng xã hội để đánh giá đúng thực trạng nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng của các đối tượng, từ đó có cách thức tổ chức đấu tranh cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Những nội dung cơ bản nền tảng tư tưởng của Đảng

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Như vậy, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, chủ nghĩa Mác-Lênin là những học thuyết sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, mà cơ bản, trọng yếu, cốt lõi, nhất là: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, là chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác - Ph.Ăngghen xây dựng trong suốt gần 60 năm, từ những năm 40 cho đến cuối thập niên 90 thế kỷ XIX và V.Lênin bổ sung, phát triển trong cả thập niên cuối của thế kỷ XIX và hơn hai thập niên đầu của thế kỷ XX, trên cơ sở thực tiễn chủ nghĩa tư bản đã và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc; phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới đang phát triển mạnh mẽ và giành được những thắng lợi mang tính bước ngoặc như: Công xã Paris và nhất là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đưa tới sự ra đời Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết (gọi tắt là Liên Xô), giải phóng hàng trăm triệu nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư bản.

Còn Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.

Nói khái quát, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là những học thuyết, những tư tưởng được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu văn minh của tư duy nhân loại, liên tục được bổ sung, phát triển từ những kết quả nghiên cứu mới nhất của khoa học và tổng kết thực tiễn lịch sử thế giới, cùng những dự báo về tương lai.

Hệ thống tri thức này là những kiến thức khoa học có tác dụng trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và nhân cách của mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Nếu mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân đều được học tập và chịu khó học tập không ngừng để quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những kiến thức này trong hoạt động thực tiễn sẽ luôn đứng vững trên lập trường của người cộng sản, không bị hoang mang, dao động trước những nội dung tuyên truyền xấu độc, xuyên tạc của các thế lực thù địch, vững tin trong mọi hoạt động vì lợi ích chính đáng của Nhân dân, bằng những giải pháp có hiệu quả và gặt hái được nhiều thành công, đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Tuy vậy, trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra rất nhanh chóng, với sự phát triển siêu tốc của Internet, mạng xã hội,… tạo nên “thể giới phẳng”, những thông tin không được kiểm soát, gây nhiều khó khăn cho việc tiếp nhận, phân tích, luận giải để hiểu thấu đáo nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thêm vào đó là sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản và những khó khăn, thách thức cùng sự kéo dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường trên nhiều phương diện; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; nạn tham nhũng, “lợi ích nhóm”,… diễn ra còn nhiều, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Lợi dụng bối cảnh đó, những năm qua và nhất là trong thời gian Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử đối lập, bất mãn chính trị,… ở trong và ngoài nước, ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới của Nhân dân ta, nhất là thông qua Internet, mạng xã hội đăng những tin, bài xấu, độc, xuyên tạc, phản bác, phủ nhận nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; công kích, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

Nhận diện âm mưu tuyên truyền của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã đẩy mạnh tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng mọi âm mưu, thủ đoạn chúng tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: Các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội một số nước phương Tây; các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ như: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt, …

Trong đó, họ đã lập hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm loại báo chí, nhà xuất bản và các Đài phát thanh – truyền hình có chương trình tiếng Việt, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm làm việc trực tiếp với các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước… để xuyên tạc nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta. Qua đó, chúng phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong các cuộc đấu tranh cách mạng đã qua và trong công cuộc đổi mới, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.

Một trong những phương thức mà các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, chống phá có hiệu quả nhất hiện nay, đó là mạng xã hội.

Mạng xã hội (MXH) là hệ thống của những mối quan hệ giữa con người trên nền tảng Internet; Việt Nam là nước có số người dùng Internet và MXH thuộc tốp đầu trên thế giới, với hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số); hơn 55 triệu người dùng MXH (chiếm 57% dân số) và 436 MXH đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng MXH nhiều nhất thế giới. Cùng với những giá trị tích cực, MXH cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước, MXH “được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu, độc có thông tin sai trái như: xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta trên mọi lĩnh vực. Tác hại của những thông tin xấu độc trên MXH do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức, trách nhiệm và giải pháp tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng hiện nay

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm bảo vệ đường lối, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ngày 22-10-2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Nghị quyết nêu 07 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, những năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân luôn kiên định nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch càng phải được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng ngừa, đấu tranh trên lĩnh vực này. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã nhấn mạnh: Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, để bảo vệ nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng, việc tăng cường đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là đòi hỏi khách quan, nhiệm vụ cấp bách trước mắt, đồng thời cũng là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…”, “…không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”.

Trách nhiệm và giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, các cấp ủy đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số mặt công tác sau đây:

Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó các cấp ủy, tổ cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nữa giữa Đảng với Nhân dân. Thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”“trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với nhân dân”, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

Cần kết hợp giữa học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đống Đảng. Thực hiện đồng bộ giữa “xây” và “chống”,  trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; là tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, động viên cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Còn “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, phê phán xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần đấu tranh “không có vùng cấm”“không có ngoại lệ”, nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực đồng thời khuyến khích cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của Nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

Hai là, đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, tự giác nêu gương để khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiền phong, gương mẫu, trên trước dưới sau, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” theo đúng tinh thần chỉ đạo Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định số 08-QĐ/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, mẫu mực về nhân cách, lối sống, không tham nhũng, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm, không để người nhà, người thân lợi dụng vị trí công tác để vụ lợi, luôn thực hiện nghiêm túc Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh.

Ba là, cần đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức học tập, tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên, nhất là cho thế hệ trẻ, cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết chỉ đạo thực tiễn để giải quyết có hiệu quả những vấn đề đang đặt ra. Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ.

Bốn là, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ chuyên trách đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các đối tượng phản động, thế lực thù địch; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng.

Những cán bộ, đảng viên được lựa chọn phải là những người có trình độ chuyên sâu về lý luận, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng lập luận, sâu chuỗi các vấn đề, am hiểu về công nghệ thông tin, trong đó tập trung vào đội ngũ cán bộ là báo cáo viên, biên tập viên hiện công tác trong hệ thống các cơ quan thông tin đại chúng, trong đó có các cơ quan báo chí, truyền thông.

Và vấn đề quan trọng mang tính chất quyết định đó là những cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ này phải là những người có nhiệt huyết, ý chí quyết tâm cao trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Định kỳ hằng tháng, hằng năm, các cơ quan có thẩm quyền cần tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái cho đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này, trong đó chú trọng vào việc nâng cao kỹ năng xử lý các tình huống, kỹ năng tuyên truyền trong lĩnh vực an ninh tư tưởng, kỹ năng lập luận trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Năm là, các cơ quan có thẩm quyền cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện phục vụ việc đảm bảo an ninh thông tin, an ninh mạng... nhằm đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Đối với cán bộ, đảng viên trong cơ quan sư đoàn:

Một là, thường xuyên bám sát định hướng chỉ đạo, hướng dẫn trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; gắn với tiếp tục triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp công tác cụ thể; đưa công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội đi vào nền nếp đạt hiệu quả cao.

Hai là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng trên không gian mạng, kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền phá chống phá cách mạng Việt Nam; phát hiện những bất cập, hạn chế của các biện pháp, công tác nghiệp vụ đã và đang được triển khai…

Để nắm tình hình có hiệu quả, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, các lực lượng như Lực lượng 47 cần sử dụng tổng hợp các phương tiện, biện pháp; thường xuyên rà quét, lên danh sách các trang web, blog, diễn đàn có nội dung phức tạp, các đối tượng viết bài trên những trang mạng này; khai thác thông tin trên các trang web, blog để xác định được đối tượng sở hữu, quản lý bài viết và đề xuất biện pháp kịp thời xử lý.

Ba là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tập trung lãnh đạo kiện toàn, xây dựng, phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng chủ động tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị.

Cùng với đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cầnthường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với cán bộ, chiến sĩ; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, các đảng bộ, chi bộ trực thuộc Sư đoàn, các đoàn thể, các cơ quan, đơn vị cần triển khai, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, duy trì nghiêm chế độ SSCĐ, tổ chức huấn luyện, luyện tập thành thục các phương án; tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ các cấp; nâng cao trình độ chiến đấu và bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Thứ hai, xem Internet, mạng xã hội vừa là công cụ, phương tiện quan trọng để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; vừa là một kênh thông tin để nắm bắt kịp thời về tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tình hình mới. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và chiến sĩ, nhất là thế hệ trẻ nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội ; khắc phục sự thờ ơ, đứng ngoài cuộc, cho đây là nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn .

Thứ tư, thực hiện có hiệu quả phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, chú trọng tuyên truyền và khuyến khích chia sẻ, bình luận gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm định hướng dư luận và cổ vũ, động viên mọi người tham gia, tạo hiệu ứng lan tỏa trong xã hội.

Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần chủ động nâng cao ý thức tự giác học tập, rèn luyện kỷ luật khi tiếp xúc thông tin trên các trang mạng xã hội; nghiêm túc thực hiện điều lệ và quy định kỷ luật của Đảng, của tổ chức mà mình là thành viên, đồng thời thể hiện là công dân gương mẫu; luôn có ý thức nắm vững và chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin theo quy định của Hiến pháp và Luật An ninh mạng.

Các đơn vị cần tiếp tục xây dựng và nhân rộng những mô hình hiệu quả, cách làm hay sáng tạo, thiết thực gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi đua yêu nước tạo động lực trong cán bộ, đảng viên thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng của từng địa phương trong thời gian tới. Song song với đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trên cương vị là một người quân nhân đang công tác trong ban Trinh sát, bản thân tôi luôn tự rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, không hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng của Đảng . Thực hiện nghiêm chế độ trực SSCĐ, quy định, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Thường xuyên học tập, tu dưỡng bản thân để nâng cao trình độ chuyên môn. Có trách nhiệm kiên quyết phê phán, bác bỏ và kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật nội bộ và đưa thông tin sai sự thật, xấu, độc trên Internet, mạng xã hội.

Chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước và của cơ quan, đơn vị mình công tác. Khi tham gia mạng xã hội phải đề cao ý thức, trách nhiệm, thiết thực, lành mạnh; bình tĩnh chọn lọc và kiểm chứng thông tin trước khi bình luận, tán đồng, chia sẻ. Không lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán đồng, chia sẻ, phát tán những thông tin xấu, độc, giả mạo, xuyên tạc, vu khống,… trên không gian mạng. Khi phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm, phải báo cáo với cơ quan chức năng biết để kịp thời ngăn chặn và xử lý theo quy định./.

 

 

 

 

 

 

 

 


 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011.

 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIItập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIItập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

 

 

 

 

 

 

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

 

Ngay từ khi Đảng ta ra đời năm 1930 đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các âm mưu thủ đoạn chống phá thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ hệ thống các quan điểm toàn hiện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đó là nội dung cơ bản, hệ trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Do đó, cần nhận diện rõ nền tảng tư tưởng của Đảng ta đã được quy định trong Điều lệ Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Tại Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,… thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. Đây là một nhiệm vụ đầy khó khăn, thử thách bởi có nhiều yếu tố tác động đan xem, cả thuận lợi và thách thức, trở ngại, từ bên trong và bên ngoài.

 

ĐẢNG PHẢI GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN

 

Gắn bó mật thiết với nhân dân là bản chất, cội nguồn sức mạnh của Đảng. “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”.

Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về tôn trọng nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, học hỏi nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân là gốc”, “phải gần dân, giúp dân, học dân”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên quyết, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phải đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”, là tiêu chí để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, yêu cầu phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, suy thoái về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng thật sự là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Luôn đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân. Đồng thời, phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức…

 

 

NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN, DO NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

 

Ở Việt Nam, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đó là một nhà nước dân chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã thay thế nhà nước thuộc địa phong kiến. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do nhân dân bầu thông qua bầu cử tự do; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục đích hoạt động.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: nếu trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân thì dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân; dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ (2). Quan niệm đó thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa tính nhân văn và tính pháp lý của dân chủ, được thể hiện thống nhất trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xây dựng và thực hiện theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo phương châm dân chủ, công khai. Quốc hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; quyền quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.

Ở nước ta, nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ xã hội, tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội không chỉ thông qua Nhà nước mà còn thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp, tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”(3). Với những yếu tố trên có thể khẳng định, Nhà nước ta là nhà nước của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm đất nước đổi mới, Đảng ta xác định, cải cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước là nhằm xây dựng củng cố nền hành chính trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội đã có sự đổi mới. Các tổ chức xã hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn các hoạt động tham gia thành lập các cơ quan nhà nước và tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan đó. Giáo dục hội viên chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức, năng lực của người làm chủ; thu thập, phản ánh ý kiến nhân dân, đề xuất với cấp uỷ đảng, cơ quan nhà nước những chủ trương, giải pháp xây dựng bộ máy nhà nước các cấp; tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Các văn bản pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ, về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập, về văn hoá, giáo dục - đào tạo, về y tế và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, về dân số, dân tộc, tôn giáo, miền núi…. về cơ bản đã phù hợp với xu thế dân chủ hoá trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo ra không khí xã hội cởi mở, dân chủ, quy tụ được sự đồng thuận xã hội; phát huy được tiềm năng sáng tạo và khơi dậy truyền thống dân tộc, tạo động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC

 

Đạo đức là cái “gốc”, nền tảng của đạo làm người, làm cán bộ của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong Đảng và trong bộ máy chính quyền lại càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo, như lời Bác Hồ dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Xây dựng Đảng về đạo đức được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát triển lên một tầm cao mới, yêu cầu mới và đặt trong mối quan hệ với xây dựng văn hóa Đảng, văn hóa chính trị. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư chỉ rõ, tiếp tục đưa “việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên, nhu cầu văn hóa tinh thần trong Đảng, tạo dấu ấn rõ rệt về xây dựng văn hóa đảng, để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.

Nội dung xây dựng văn hóa Đảng, văn hóa chính trị được Tổng Bí thư đề cập ở các bài viết trong tác phẩm với những yêu cầu như: chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa.

 

XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TỔ CHỨC, CÁN BỘ

 

Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ, đảng viên và đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là nội dung được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm. Tổng Bí thư chỉ rõ, phải “… tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đội ngũ cán bộ “… có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn luôn có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, làm “đúng vai, thuộc bài”, thật sự có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, quý trọng. Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung”.

Nội dung các khâu của công tác cán bộ được Tổng Bí thư đề cập khá toàn diện, sâu sắc, như: đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ; chủ động phát hiện nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới; công tác luân chuyển cán bộ phải phù hợp với chức danh quy hoạch; bảo đảm cân đối, hài hòa giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ; nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ theo hướng thật sự công tâm, khách quan, có tiêu chí rõ ràng và thông qua sản phẩm cụ thể; kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Tuyệt đối chống tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, tiêu cực. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn liền với tăng cường trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán bộ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả; không để lọt những người không đủ tiêu chuẩn, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ huy, nhất là cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp.

Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và đảng viên phải đi đôi với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm cao, thái độ kiên quyết, không khoan nhượng và hành động quyết liệt, thiết thực, hiệu quả. Bởi tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “chống tham nhũng là “chống giặc nội xâm”, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, “không ngừng”, “không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực”, thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm; phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”, một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng” và một cơ chế bảo đảm để “không cần tham nhũng”. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật hình sự đối với những người vi phạm, bất kể đó là ai. Đặc biệt, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng thật sự có bản lĩnh, thật sự liêm chính, trong sạch; không chịu bất cứ sức ép không trong sáng nào của tổ chức, cá nhân; bất cứ sự cám dỗ, mua chuộc nào của những kẻ phạm tội”.

 

 

 

COI TRỌNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG

 

Theo Tổng Bí thư, vấn đề cốt lõi của xây dựng Đảng về tư tưởng là phải “… kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”.

Hiện nay, mặc dù đất nước ta đã trải qua hơn 37 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 32 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, song hiện vẫn còn không ít vấn đề lý luận, thực tiễn chưa được luận giải thấu đáo và sáng tỏ. Bên cạnh đó, còn có thêm những vấn đề mới mà thực tiễn phát triển của thế giới, nhất là của Việt Nam đặt ra cần được nghiên cứu, tổng kết để góp phần phát triển, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, làm cơ sở tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Chính vì vậy, Tổng Bí thư nhấn mạnh, “… không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn, phải có tầm nhìn vượt trước, phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển; khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí, quyết tâm vươn lên của cả dân tộc; phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra”.   

 

 

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ VÀ TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ

 

Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị và trình độ trí tuệ. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động; từng cán bộ, đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, trí tuệ; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Mọi biểu hiện xem nhẹ xây dựng Đảng về chính trị là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ.

Để xây dựng Đảng về chính trị, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tuyệt đối kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Tổng Bí thư chỉ rõ: Đảng “phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động”. Tổng Bí thư cũng chỉ rõ, trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, hằng ngày, hằng giờ tiếp xúc với hàng và tiền, gắn liền với lợi ích cá nhân, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái của cơ chế thị trường, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, không vững vàng về tư tưởng, bản lĩnh chính trị thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất.

Cùng với tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, đòi hỏi Đảng phải đồng thời nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng. Bởi lẽ, có bản lĩnh chính trị nhưng không có trình độ trí tuệ thì Đảng không thể có đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt. Vì vậy, Tổng Bí thư chỉ rõ phải tiếp tục nâng cao bản lĩnh, trình độ, trí tuệ của Đảng trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng, bên cạnh việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, “cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”.

 

TÁC PHẨM “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 

Lịch sử cách mạng Việt Nam trải qua hơn 93 năm qua cho thấy, bất kỳ thời kỳ hay giai đoạn nào cũng vậy, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền có vị trí ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa là cơ sở để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đồng thời còn giúp cho Đảng có được mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; ngày càng được nhân dân tin, tạo động lực, khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; đáp ứng ngày càng tốt hơn sự kỳ vọng, xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin của nhân dân trong thời kỳ mới.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là một nội dung được đề cập rất đậm nét, sâu sắc, toàn diện, cụ thể và đầy tâm huyết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tác phẩm có tính kế thừa khoa học và phát triển qua các thời kỳ, đã dựa trên nền tảng và kiên định với những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thể hiện sự kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng, đúng thực tiễn khách quan và sự phát triển của đất nước ta.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh luôn gắn liền với quá trình vận động và phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan (ví dụ: khách quan về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, về mặt trái của cơ chế thị trường, về văn hóa, đạo đức…), bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ, Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu; qua đó tạo nên mẫu thuẫn nội tại phải đấu tranh để tồn tại và phát triển. Hơn nữa, Đảng ta là đảng cầm quyền, đại đa số đảng viên của Đảng đang nắm giữ vị trí quan trọng, chủ chốt trong hệ thống chính trị, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến khát vọng vươn lên của đất nước ta trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI này. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải biết trách nhiệm của mình trước Đảng, nhân dân giao phó; phải nâng cao ý thức tự giác, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức đạo đức cách mạng, năng lực công tác để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức lối sống, đó không những là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm của mỗi đảng viên cộng sản.

Với vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên suốt các thời kỳ cách mạng. Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn xây dựng hệ thống chính trị và xác định đây là yêu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, tác động qua lại, không tác rời nhau. Trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò hạt nhân, quan trọng vì Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đặc biệt là Đảng lãnh đạo, giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình ứng cử vào các vị trí chủ chốt của cả hệ thống chính trị.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” vừa là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhưng đồng thời cũng chính là minh chứng đầy thuyết phục của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, làm việc hiệu lực, hiệu quả.

 

MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ NHÂN DÂN

 

 

Cần thấy rằng, hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình nhà nước. Nhà nước dân chủ nhân dân, ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân mà quốc hội là người đại diện. Nhà nước quân chủ nghị viện, ở đó, nhà vua là người đứng đầu quốc gia nhưng không nắm thực quyền. Nhà nước cộng hòa tổng thống, ở đó, tổng thống là nguyên thủ quốc gia, có quyền lực rất lớn không chỉ về hành pháp mà cả về lập pháp và tư pháp... Như vậy, dân chủ được thực hiện thông qua nhiều mô hình nhà nước. Do vậy, việc lấy một mô hình nhà nước nào đó để làm căn cứ phê phán có dân chủ hay không dân chủ là khiên cưỡng, áp đặt phi lý. Mặt khác, hiện tại mô hình một đảng lãnh đạo nhà nước không phải chỉ có ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn có ở các quốc gia dân tộc không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như Êritơria, Ghi nê, Mônacô.

 Thực tiễn lịch sử và toàn cảnh thế giới đương đại cho thấy, không thể lấy tiêu chí một đảng cầm quyền hay đa đảng là cơ sở, và càng không thể là cơ sở duy nhất để xem xét chất lượng nền dân chủ của một quốc gia, dân tộc. Ngay trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa cũng có những mô hình nhà nước khác nhau. Một số nước như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật, … tổ chức hệ thống chính trị theo hình thức đa đảng; thường là hai đảng trở lên có cơ hội trở thành đảng cầm quyền hoặc tham gia vào liên minh cầm quyền. Song, trong thực tế, hệ thống chính trị và các nhân vật cầm quyền nhà nước đều do một tập đoàn chính trị đầu sỏ và các tổ chức kinh tế tư bản thao túng; các tổ chức này có liên quan mật thiết với nhau về chính trị, kinh tế; cùng chi phối chính sách phát triển đất nước theo hướng mở rộng ảnh hưởng, củng cố sức mạnh, quyền lực và rốt cục phục vụ cho lợi ích của họ. Dù rằng ở nhiều nước tư bản hiện nay, do áp lực đấu tranh của nhân dân, giai cấp tư sản buộc phải điều chỉnh, cải cách dân chủ ở những mức độ nhất định. Họ buộc phải công nhận các lực lượng đối lập, kể cả các đảng cộng sản; song về bản chất, chế độ dân chủ đó vẫn là dân chủ tư sản bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. 

Bám lấy một số hiện tượng được coi như “thành tựu” của cải cách dân chủ, các lý luận gia tư sản không ngớt ca ngợi chế độ tam quyền phân lập ở Mỹ, coi đó là nền dân chủ hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng, trong thực tế ở Mỹ có nhiều đảng chính trị, nhưng rốt cục quyền lực chỉ thuộc về hai đảng - Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Cả hai đảng này đều là đại diện cho những tập đoàn tư sản Mỹ, họ vừa tranh giành, vừa thoả hiệp để cùng nhau thực hiện dân chủ cho giai cấp tư sản, vì giai cấp tư sản Mỹ. Ở họ có sự thống nhất cao trong xác định và góp phần thiết lập, củng cố những mục tiêu chiến lược của nước Mỹ: thứ nhất, nước Mỹ phải có được quyền lực để giữ gìn an ninh của mình; thứ hai, nước Mỹ phải đủ sức thiết lập và lãnh đạo trật tự thế giới; thứ ba, đem lại sự phồn vinh cho nước Mỹ theo nguyên tắc tư bản chủ nghĩa và thứ tư, áp đặt các giá trị tự do, dân chủ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho toàn thế giới. Thực tế này góp thêm một minh chứng, chế độ một đảng hay đa đảng chỉ là hình thức trực tiếp của thực hành dân chủ. Ở các nước phương Tây, tuy thực hiện chế độ đa đảng, nhưng chỉ có đảng nào chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa, có đủ uy lực đại diện và mang lại lợi ích cho những tập đoàn tư sản hay giới tài phiệt thì mới có cơ hội cầm quyền. Như vậy, đa đảng đua tranh ảnh hưởng, quyền lực chỉ là hình thức; bảo đảm sự độc tôn thống trị xã hội và lợi ích của giai cấp tư sản mới là nội dung cốt tử không bao giờ thay đổi ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa.  

Xem xét một quốc gia dân tộc nào đó có dân chủ hay không dân chủ, suy cho cùng, vấn đề cốt tử nhất là xem nhà nước đó có thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân hay không; hệ thống pháp luật của nhà nước đó có bảo đảm thực thi quyền lực chính trị của nhân dân hay không? Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn lịch sử đã minh chứng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phát triển về chất so với các hình thức, chế độ dân chủ trước đó. Vì nền dân chủ này nhằm tiến tới giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự thể hiện quyền con người của cá nhân và cộng đồng ở mức cao nhất.

Giải pháp đấu tranh với các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam

 

Một là: phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức đảng, Chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp, phát huy vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đối với việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, quần chúng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất.

Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên nhận thức đúng việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, người đứng đầu với các nội dung, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình là một trọng điểm của công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Theo đó, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nhất là các tổ chức đảng, người chủ trì trong trong lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng phải xác định chống các quan điểm sai trái, thù địch là trách nhiệm, là lương tâm của mình trước Đảng, trước vận mệnh đất nước và trước nhân dân. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu không chỉ thường xuyên đưa nội dung lãnh đạo, chỉ đạo vấn đề đó vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của đảng ủy, chi bộ và chương trình công tác hằng tháng, hằng năm của đơn vị, bên cạnh đó cần có những nghị quyết chuyên đề, những chương trình “trọng điểm”, những kế hoạch “đặc biệt”, “chuyên sâu”. Trong công tác lãnh đạo phải bảo đảm tính toàn diện, tính cụ thể và tính tổng thể, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách. Thường xuyên chú trọng việc kết hợp đấu tranh chống lại các luận điệu phản động trên không gian mạng với tích cực ngăn ngừa và khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ở mọi lúc mọi nơi.

 Hai là: phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính, phải đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Giáo dục mọi người, cán bộ, chiến sĩ trong việc nâng cao trình độ khai thác, sử dụng Internet nhằm nâng cao “sức đề kháng”, khả năng chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh từ sớm, từ xa, phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo 35 các cấp, Bộ Tư lệnh 86 và Lực lượng 47, đội ngũ cán bộ chính trị trong việc định hướng dư luận cho nhân dân, và cán bộ chiến sĩ trong quân  đội và trong từng đơn vị. Cần phải phát hiện kịp thời, kiên quyết đấu tranh, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội điển hình như Facebook, Goole, youtube, Tiktok, Twitter.. . Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; công tác kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, kỷ luật phát ngôn dưới mọi hình thức. Mặt khác cần kết hợp giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công, nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điểm sai trái, thù địch để xác định đúng đối tượng, nội dung, giải pháp, đấu tranh, phản bác sắc bén có cơ sở lý luận, thực tiễn đảm bảo tính thuyết phục cao. 

Ba là: nghiên cứu, nhận dạng đúng nhằm phê phán cả những ý kiến, trào l­ưu cơ hội, xét lại “tả” khuynh và “hữu” khuynh.

Thực tế, trong thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân vẫn còn tình trạng thiếu cảnh giác, nhận thức không đúng, nhận diện không chính xác các quan điểm sai trái, thù địch do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản xuyên suốt là bởi chúng ta chưa làm tốt công tác giáo dục ý thức cảnh giác, chưa tuyên truyền sâu rộng trong xã hội, nhất là thực trạng các thế lực thù địch đang chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội trên không gian mạng, bên cạnh đó việc phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch chưa trở thành động lực bên trong thôi thúc mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tích cực tham gia. Vì thế, để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay có hiệu quả cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao cảnh giác và nhận diện đúng quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Ở mỗi giai đoạn, nội dung, hình thức, lực lượng, phương tiện, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với Cương lĩnh, đường lối của Đảng có sự thay đổi và ngày càng tinh vi, thâm hiểm. Do vậy, trong nhận diện các quan điểm sai trái, đòi hỏi chúng ta cần nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn, lực lượng, phương tiện mà các lực lượng phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá Đảng, Quân đội.

Bốn là: phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ta để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch.

Với các quan điểm thù địch, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống lại, bác bỏ toàn diện, triệt để trên nhiều phương diện lý luận, pháp lý, lịch sử, khoa học, cả về lý luận và thực tiễn. Từ những lý luận và thực tiễn đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tích cực hơn nữa trong chủ động nhận diện những âm mưu chống phá, tích cực trong phòng và đấu tranh nhằm làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và thực hiện xây dựng Việt Nam với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH HIỆN ĐẠI, LƯỠNG DỤNG!

         Phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia

Đảm bảo nguồn lực cho phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đáp ứng yêu cầu nâng cao tiềm lực quốc phòng an ninh, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân chính quy tinh nhuệ, hiện đại là một trong những chính sách cốt lõi được đề cập tại Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

Chính sách cốt lõi đảm bảo phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh
Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp tập trung vào 05 chính sách nổi bật gồm: Phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, bảo đảm sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; Huy động nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; bảo đảm hiệu quả hoạt động động viên công nghiệp.

Theo Thiếu tướng Lương Thanh Chương, Phó Chủ nhiệm - Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp quốc phòng đây là những chính sách cốt lõi đảm bảo mục tiêu giải quyết những vấn đề đặt ra đối với Công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và động viên công nghiệp, gồm: Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; tạo cơ sở pháp lý đảm bảo sự gắn kết giữa công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh và công nghiệp quốc gia trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và tham gia phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng hệ thống cơ sở công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh tinh, gọn, mạnh, hiệu quả; hệ thống cơ sở động viên công nghiệp ngày càng lớn mạnh cả về quy mô, lẫn chiều sâu công nghệ; tiến hành đẩy mạnh đổi mới, nâng cao sáng tạo hoạt động khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm quốc phòng, an ninh, nâng cao năng lực nghiên cứu làm chủ một số công nghệ mới và khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh của cách mạng công nghiệp lần thứ 4; đảm bảo nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đáp ứng yêu cầu nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Nguồn lực tài chính, đầu tư - một trong những trụ cột cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh
Nguồn lực đầu tư cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp là một trong những nội dung được chú trọng tại dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Theo ông Trịnh Xuân An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, liên quan đến nguồn lực về tài chính, đầu tư, điểm mới của dự thảo Luật là xây dựng riêng một mục về nguồn lực tài chính cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh gồm: nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp; nguồn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh và các quỹ, nguồn vốn hợp pháp khác. Trong đó, một trong những quy định mới là xây dựng Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh. Đây là quỹ được thành lập mới để huy động nguồn lực tài chính cho phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh; giúp chủ động, linh hoạt trong bố trí nguồn lực và chỉ sử dụng hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu, phát triển sản phẩm quốc phòng, an ninh có ý nghĩa chiến lược...

Thiếu tướng Vũ Ngọc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Pháp chế và Cải cách hành chính, tư pháp (Bộ Công an), Ủy viên Ban soạn thảo, Tổ phó Tổ Biên tập dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp nhấn mạnh, cần có các cơ chế để huy động nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh nhất là các nhiệm vụ cấp bách, nghiên cứu chế tạo các sản phẩm mới, công nghệ cao, có tính rủi ro lớn.

Thực tế hiện nay, đã có nhiều đề án, chương trình mục tiêu nhưng chưa được bố trí vốn, một số chương trình chỉ bố trí được một phần vốn kế hoạch đề ra do nguồn ngân sách quốc phòng, an ninh chủ yếu được sử dụng đầu tư mua sắm, nâng cấp vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ mà ít được bố trí cho các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm. Trong khi đó, việc huy động nguồn vốn hợp pháp ngoài ngân sách để xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa thu hút được các thành phần kinh tế khác cùng tham gia. Một khó khăn nữa là các chương trình, dự án lớn không thể tiếp cận được với nguồn vốn của các quỹ theo quy định của pháp luật như Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao, Quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp...

Để giải quyết thực trạng trên, theo Thiếu tướng Vũ Ngọc Hùng cần hình thành một quỹ tài chính để hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Đây được coi là giải pháp, cơ chế đặc thù vượt trội, có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo hiệu quả, khả thi trong việc triển khai các chương trình, dự án đầu tư có tính cấp bách; phục vụ cho công tác nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt, có tính rủi ro cao.

Phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng hiện đại, lưỡng dụng
Trước hết, phải khẳng định rằng, bên cạnh việc sản xuất phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, trong những năm qua, các đơn vị công nghiệp quốc phòng đã mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ sản xuất các sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội.

Nhà máy Z121 (Công ty TNHH Một thành viên Hoá chất 21) trực thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, có nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm quốc phòng phục vụ công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Nhà máy thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược được Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho là tiếp tục sản xuất các loại hoả cụ, trang bị phục vụ nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của quân đội; đồng thời, tham gia sản xuất các sản phẩm phục vụ nền kinh tế quốc dân. Đến thời điểm hiện nay, Nhà máy đã tập trung nguồn lực, đầu tư nhiều dây chuyền mới, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, vừa giữ vững năng lực sản xuất quốc phòng, vừa phát triển sản xuất các mặt hàng kinh tế đảm bảo việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống cho người lao động.

Với định hướng mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất, có tính lưỡng dụng cao, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, Nhà máy Z121 đã sản xuất và cung ứng ra thị trường nhiều sản phẩm có chất lượng cao, được nhiều đối tác tin dùng như: Kíp nổ vi sai an toàn, kíp nổ vi sai phi điện... Việc sản xuất và đưa vào tiêu thụ các loại kíp nổ vi sai đã đáp ứng kịp thời nhu cầu của công nghiệp khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, hàng năm tiết kiệm cho Nhà nước hàng triệu USD do không phải nhập từ nước ngoài. Cùng với đó, Nhà máy đã đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất pháo hoa nổ. Sản phẩm pháo hoa nổ của Nhà máy đã nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường Nhật Bản và Mỹ; đồng thời phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật pháo hoa của đông đảo Nhân dân trong các dịp lễ tết... Bên cạnh pháo hoa nổ, từ năm 2020 đến nay, khi Nghị định 137/2020/NĐ-CP của Chính phủ “Về quản lý, sử dụng pháo” có hiệu lực, Nhà máy đã nghiên cứu và sản xuất thành công nhiều chủng loại pháo hoa đáp ứng tốt nhu cầu của Nhân dân cả nước, tạo không khí vui tươi, phấn khởi mỗi dịp Tết đến Xuân về.

Chia sẻ với chúng tôi, Đại tá Chu Việt Sơn, Giám đốc Nhà máy Z121 cho biết, dây chuyền sản xuất của Nhà máy vừa phục vụ yêu cầu sản xuất quốc phòng, vừa đáp ứng cho nền kinh tế quốc dân. Với sự đóng góp của các sản phẩm kinh tế, doanh thu của nhà máy tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong năm 2023, với mức doanh thu đạt hơn 3.000 tỷ đồng, Nhà máy Z121 trở thành một trong những đơn vị có doanh thu lớn nhất của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Phát huy lưỡng dụng của dây chuyền sản xuất giúp nhà máy có thêm nguồn lực tái đầu tư trang thiết bị, máy móc, đáp ứng yêu cầu sản xuất các sản phẩm quốc phòng và các sản phẩm kinh tế, đặc biệt là tạo việc làm ổn định cho cán bộ nhân viên và người lao động.

Với chủ trương là đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ cao, tập trung nghiên cứu các sản phẩm kinh tế có thế mạnh, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu, trong những năm gần đây, Nhà máy Z113 (Công ty TNHH một thành viên Cơ khí hóa chất 13) đã nghiên cứu, sản xuất thành công nhiều sản phẩm mới. Trong đó, có một số sản phẩm trước đây phải nhập khẩu nay đã tự chủ về sản xuất, góp phần tiết kiệm nguồn ngoại tệ, bảo đảm trang bị cho quân đội, phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đối với các sản phẩm kinh tế, Nhà máy đã sản xuất được các sản phẩm hóa nổ, cơ khí chủ lực không những đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước còn đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế, hướng tới xuất khẩu.

Việc xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp sẽ tạo hành lang pháp lý cần thiết để Nhà máy Z121, 113 và các cơ sở sản xuất công nghiệp quốc phòng, an ninh đầu tư công nghệ tiên tiến, hiện đại phát triển công nghiệp lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.


Yêu nước ST.

Phương thức chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

 

Hiện nay với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, các thế lực thù địch đã tận dụng tối đa công nghệ với nhiều thủ đoạn tinh vi với phương thức chống phá mới là chủ yếu sử dụng không gian mạng, chúng lập ra hàng trăm trang web, các blog (phần lớn các máy chủ đặt ở nước ngoài); thông qua các ứng dụng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Tiktok, youtube... để tuyên truyền dối trá, dùng các video clip đã được dàn dựng, cắt ghép để lừa bịp, bịa đặt, thổi phồng, bóp méo sự kiện, nhào nặn, trộn lẫn thông tin tốt - xấu, thật - giả, đưa ra những bình luận thâm độc, vu cáo, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp và cá nhân các đồng chí lãnh đạo, phát tán tới cộng đồng, phá hoại niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. 

Đặc biệt, hiện nay có khoảng 150 hội, nhóm bất hợp pháp, trong đó có gần 100 nhóm có khuynh hướng hoạt động đối lập chính trị, có quan điểm cực đoan, thù địch, quá khích và đáng buồn hơn trong số thành viên của các hội nhóm ấy có cả những người đã từng là tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp trong Quân đội, nguyên là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng đã có một thời tuổi trẻ cống hiến, có nhiều đóng góp cho cách mạng, cho Đảng, được nhân dân tin yêu nhưng đã bị tha hóa, biến chất trước những cám dỗ của đồng tiền, sự lôi kéo của các thế lực thù địch đã phản bội lại Đảng và niềm tin của nhân dân. Chúng tăng cường các hoạt động chống phá vào trong nước, phát tán hàng chục ngàn tài liệu có nội dung xấu độc, thù địch thúc đẩy hình thành các nhân tố tiền đề cho “Cách mạng màu”, chuyển hóa chế độ tại Việt Nam. khai thác triệt để những thời điểm có các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, những sai phạm của một số cán bộ tha hóa, biến chất, sai phạm của một số chính quyền địa phương, lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo (Như đòi thành lập “nhà nước Mông” tự trị, “nhà nước Đề Ga” của người Tây Nguyên, “nhà nước KKK độc lập tự trị”, các vụ tranh chấp chấp đất đai, quyền tự do tôn giáo) để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, tạo sự phân tâm, dao động, thiếu đồng thuận trong xã hội... nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lật đổ chế độ XHCN, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng như các địa bàn khác trong cả nước, trên địa bàn Quân khu 9 các thế lực thù địch cũng tiến hành chống phá Đảng, Nhà nước quyết liệt hòng tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người kinh, nhất là đối với vấn đề nguồn gốc lịch sử của người Khmer và vùng đất Nam Bộ Việt Nam, chúng tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, vu cáo Việt Nam đàn áp phật giáo Nam tông Khmer nhằm kích động tư tưởng “tự ti dân tộc”, đòi thành lập “nhà nước KKK (Khmer Kampuchia Krom) độc lập tự trị”, bên cạnh đó chúng lôi kéo, kích động một số dân biểu tình, bao chiếm đất quốc phòng, cho rằng quân đội lấy đất của dân...

Đấu tranh trên lĩnh vực t­ư t­ưởng, lý luận chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng và những thành tựu của đất nước trong những năm đổi mới đến nay là cuộc đấu tranh rất lâu dài và đặc biệt khó khăn. Chúng ta phải nhận thức đây là cuộc đấu tranh không khoan nhượng của những ngư­ời cách mạng chân chính chống lại cuộc chiến không khói súng nhưng rất hiểm độc của các thế lực thù địch. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân cần nhận thức đầy đủ và tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, phải tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Ðảng.