Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một hệ thống những luận điểm về mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Quan điểm đó vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay; đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng sáng tạo, góp phần thiết thực vào công cuộc phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh mới.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh luôn là yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm, then chốt trong xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Điều đó xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ ràng, đầy đủ về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức; thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; bởi lẽ, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Người dạy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người cũng chỉ rõ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền nhà nước các cấp: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. Bất cứ đường lối, chính sách gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là “có lãi”; ngược lại, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là “lỗ vốn”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn thanh niên tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên cứu quốc lần thứ 2, năm 1956_Ảnh: TTXVN

Đội ngũ cán bộ, công chức là những mắt khâu trung gian, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”.

Để làm công việc được Chính phủ, đoàn thể giao phó đạt chất lượng, hiệu quả cao, Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải có đủ “đức”, đủ “tài”. “Đức” và “tài” là những phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Ở đây, “đức” là những phẩm chất đạo đức cách mạng cần phải có ở người cán bộ cách mạng; “tài” là toàn bộ những năng lực, phẩm chất thuộc về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ công tác của mỗi cán bộ, công chức.

Về đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, công chức phải hội đủ năm đức tính tốt: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Mỗi cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong quan niệm của  Chủ tịch Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương.

Về tàitài của người cán bộ, công chức thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức phải có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính; có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nhất quán của Người là chú trọng chất trí tuệ và tính chuyên môn trong tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước thông qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Giữa đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp, đi đôi với nhau, không thể có mặt này, thiếu mặt kia; có đức mà không có tài thì chỉ là người vô dụng; còn có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó. Người so sánh: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”.

Phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức không phải là những thứ tự dưng có, mà chỉ có thể là kết quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và quá trình tự thân mỗi cán bộ, công chức không ngừng khổ công, nỗ lực học tập, rèn luyện mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Điều đó cho thấy Người rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - thuật ngữ Người thường dùng là “huấn luyện cán bộ”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm thật tốt công tác huấn luyện cán bộ, phải coi huấn luyện cán bộ là công việc gốc, hết sức quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Người chỉ rõ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; bởi vậy“Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc huấn luyện cán bộ”. Người cho rằng, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương, cán bộ ở địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể. Huấn luyện cán bộ phải được Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp xác định là công việc thường xuyên, công phu, lâu dài, phải kiên trì và bền bỉ thì mới có kết quả tốt; bởi vì: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được”.

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường được cấu thành từ các yếu tố cụ thể, gồm mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải biết “Huấn luyện ai?... Ai huấn luyện?... Huấn luyện gì?... Huấn luyện thế nào?”. Mỗi thành tố nêu trên đều được Người đề cập một cách cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Về mục đích của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chứcquan trọng nhất là phải xác định động cơ đào tạo, bồi dưỡng đúng đắn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức phải nhận thức rõ rằng, đào tạo, bồi dưỡng không phải để chạy theo bằng cấp, mà mục đích cao cả của việc học là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Bên cạnh đó, “Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”. Trong thư gửi giáo sư và sinh viên Trường Dự bị Đại học ở Thanh Hóa, Người nhắc nhở: “… giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”. Chỉ khi nào cán bộ, công chức xác định được động cơ, mục đích đúng đắn thì việc học tập mới đạt tới yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Về chủ thể của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng - những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thầy, cô giáo, các chuyên gia tham gia công tác giáo dục, huấn luyện cán bộ. Vai trò của người thầy được Bác Hồ nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá”. Bác cũng rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện cán bộ; đồng thời, chú trọng phát huy vai trò của các cán bộ lãnh đạo trong tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người chỉ rõ: “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy”. Vì vậy, người làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” và phải thường xuyên trau dồi kiến thức, “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”.

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ phải cụ thể, thiết thực, phải hàm chứa cả rèn đức, luyện tài, phải chú trọng trang bị cả kiến thức văn hóa, lý luận và thực tiễn. Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân; do đó, họ cần phải được giáo dục, trang bị tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Người lưu ý rằng, cán bộ, công chức phải có tinh thần ham hiểu biết các tri thức khoa học một cách toàn diện: “Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị... Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”.

Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối, quan điểm của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng; đồng thời, xây dựng cho bản thân mình phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống, để từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng. Mặt khác, cần phải học tập khoa học - kỹ thuật, bởi chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học và công nghệ, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học - kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới.

Về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tổ chức và trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ cán bộ cho đất nước nên nắm vững và vận dụng thuần thục các quy luật tư duy và phương pháp giảng dạy trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người đã đề ra hệ thống các nguyên lý, phương châm, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chẳng hạn, “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng”. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn học tập với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tác phong, phương pháp công tác; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thực chất, chú trọng chất lượng: “Cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều”. Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”; khi truyền đạt lý luận, kinh nghiệm công tác phải gắn với liên hệ tình hình cụ thể để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. “Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu”; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu quy hoạch, sử dụng cán bộ...

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao phương pháp tự học. Để làm giàu vốn tri thức, hiểu biết của mình, cán bộ, công chức cần có tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong học tập, trong cuộc sống, nghĩa là cán bộ, công chức phải chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; “phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng với lý thuyết không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn. Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa”. Đặc biệt, Người nhấn mạnh việc tự giác học tập; tuy nhiên, Người cũng yêu cầu “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”. Người giảng giải: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên không ngừng học tập, nâng cao trình độ, phải coi việc học tập là công việc suốt đời. Người chỉ rõ: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. Vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, công chức cần phải xác định: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Khi người cán bộ, công chức đã có cả phẩm chất và năng lực, có đức và có tài để gánh vác trọng trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục yêu cầu đội ngũ này phải thực hành phương pháp làm việc khoa học, tác phong chuyên nghiệp, hiện đại, sâu sát dân, gần dân, học hỏi dân để hoàn thiện mình. Theo Người, muốn học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học, phải tự nguyện, tự giác, tích cực, chủ động và kiên trì bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng; phải triệt để tận dụng mọi điều kiện, phương tiện, hình thức để học. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học mà không đi đôi với hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Trong thực hiện nhiệm vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ. Để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và học hỏi dân".

Có thể khẳng định rằng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ đã hàm chứa khá đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục theo lý luận giáo dục học hiện đại. Điều đó cho thấy quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có giá trị lý luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn, có thể vận dụng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng ở nước ta hiện nay.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà chúc mừng Học viện Hành chính quốc gia nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (29-5-1959 - 29-5-2024) _Nguồn: vietnamnet.vn

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch” được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.

Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.

Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:

Thứ nhấtphải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Thứ haiphải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.

Nhân viên Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân và doanh nghiệp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4_Ảnh: Tư liệu

Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.

Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.

Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.

Thứ nămđổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.

Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.

Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

ST.

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

 BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm xây dựng đội ngũ đảng viên trong quân đội thật sự mẫu mực, tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, năng lực; góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Nội dung và biện pháp rèn luyện đạo đức cách mạng của người đảng viên quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vấn đề này được Người đề cập tới trong nhiều tác phẩm quan trọng như: Đường cách mệnh (năm 1927), Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Đời sống mới (năm 1947), Cần kiệm liêm chính (năm 1949), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969) và bản Di chúc hoàn chỉnh lần cuối cùng (tháng 5-1969). Trong các tác phẩm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc của người cách mạng”. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên được biểu hiện cụ thể ở các nội dung, như trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những nội dung của đạo đức cách mạng có mối quan hệ biện chứng với nhau, chỉ cần thiếu một nội dung thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Đối với đội ngũ đảng viên trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đạo đức cách mạng được biểu hiện cụ thể ở những điểm như sau:


Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân. Đây là biểu hiện cao nhất ý thức đạo đức của người đảng viên nói chung, đặc biệt với những đảng viên là cán bộ, sĩ quan, công nhân viên, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Đó còn là biểu hiện cao nhất của lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là cơ sở để định hướng nhận thức và hành động, tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để mỗi đảng viên luôn hoàn thành chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó. Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” và “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc” lãnh đạo sự nghiệp cách mạng; đảng viên cũng là con, em của nhân dân và cũng chính “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”; do đó, đối với mỗi đảng viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trung với nước phải luôn gắn liền với trung với Đảng, hiếu với dân.


Đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đoàn kết, nhân ái luôn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Ở thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống đó được hun đúc và phát triển lên một tầm cao mới, là cơ sở để tạo thành sức mạnh vô địch của dân tộc, giúp Quân đội nhân dân Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, Người căn dặn: “...cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sĩ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Người còn căn dặn: “Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên”, bởi trong quân đội, người đội trưởng, người chính trị viên là những người đảng viên trực tiếp, hằng ngày tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện và quản lý bộ đội; vì thế, có tình cảm gắn bó đó mới lan tỏa tinh thần đoàn kết, xây dựng được sự tin tưởng, thương yêu của đồng chí, đồng đội, mới sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.


Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một phẩm chất quan trọng, là nền tảng đạo đức của người quân nhân cách mạng nói chung, của người đảng viên trong quân đội nói riêng. Người chỉ rõ: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng. Các chú phải thực hiện đạo đức đó”; đồng thời, phải “Tu sửa mình cho kỳ giữ được chí công vô tư, đối với việc phải sáng suốt, đối vật không tham lam, gắng làm kiểu mẫu, làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân”. Người luôn đặt niềm tin và yêu cầu đội ngũ đảng viên trong quân đội phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng: “Phải làm sao cho trong quân đội ta không có tham ô lãng phí”.


Tinh thần quốc tế trong sáng là một nội dung không thể thiếu của đạo đức cách mạng. Trong Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào, Người chỉ rõ “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Đồng thời, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đội ngũ đảng viên trong quân đội, phải luôn biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, chính phủ và quân đội các nước anh em trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Thấm nhuần tư tưởng đó, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, tham gia chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào và Campuchia, viết nên những trang sử sáng ngời về đạo đức cách mạng của người cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.


Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết là lý tưởng cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có giác ngộ sâu sắc lý tưởng đó, người đảng viên trong quân đội mới đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, dám hy sinh quyền lợi của bản thân và gia đình, đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ đảng viên trong quân đội ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải nâng cao kiến thức toàn diện. Người căn dặn: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”; và muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách đảm nhiệm, đòi hỏi người đảng viên trong quân đội “Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân dân, đoàn kết với các nước anh em”.


Từ những nội dung trên, có thể thấy, để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người đảng viên quân đội cần phải thấm nhuần, thực hiện nghiêm túc những yêu cầu, nhiệm vụ sau:


Thứ nhất, nói đi đôi với làm.


Đây là hành động cơ bản nhất thể hiện uy tín và để rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người đảng viên. Tuy nhiên, đối với người đảng viên trong quân đội, hành động đó phải được biểu hiện ở mức độ cao hơn, phải “Triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên. Mệnh lệnh cấp trên đưa xuống thì phải tuyệt đối phục tùng và triệt để thi hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, đội ngũ đảng viên trong quân đội phải nói ít làm nhiều, thân ái, đoàn kết đồng chí, đồng đội, phải là tấm gương trong rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí. Người cũng dành mối quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của các tướng lĩnh trong quân đội. Người nhắc nhở: “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”, đây vừa là mục tiêu để rèn luyện, tu dưỡng, vừa là phẩm chất đặc trưng nhất của người đảng viên là lãnh đạo trong quân đội.


Thứ hai, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời.


Đây là yêu cầu cốt lõi trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người cách mạng, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Đảng viên giữ cương vị càng cao thì càng phải tích cực, liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận lợi không tự cao, tự đại, thỏa mãn dừng lại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước, nản chí; phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, có những cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp cao, là tướng lĩnh, trong lúc gian khổ thì không sợ nguy hiểm, cực khổ, có công với cách mạng, song đến khi có quyền hạn trong tay thì nảy sinh kiêu ngạo, tự mãn, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, phải xử lý kỷ luật.


Thứ ba, “xây” đi đôi với “chống”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên trong quân đội phải luôn rèn luyện, tu dưỡng lối sống trong sạch, lành mạnh; thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn gương mẫu trong việc giữ gìn vũ khí, trang bị, tài sản của quân đội; trong quan hệ với nhân dân, không được lấy dù là cái kim, sợi chỉ của nhân dân; mua bán với nhân dân phải công bằng, sòng phẳng; mượn cái gì của dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất phải đền. Đồng thời, Người khẳng định phải kiên quyết chống lại những tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Theo đó, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục những phẩm chất, tấm gương tốt để lan tỏa, nhân rộng, với xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm để ngăn chặn sự lây lan của chúng.


Người đảng viên quân đội tiếp tục phấn đấu, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay


Hiện nay, trước những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, sự cám dỗ của lợi ích vật chất, cùng với sự buông lỏng trong quản lý, kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy các cấp và việc thiếu ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên, đã làm cho một bộ phận không nhỏ đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ các cương vị chủ chốt, là lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị, thậm chí có cả những đảng viên là cán bộ cấp cao, là tướng lĩnh có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, ích kỷ, chạy theo danh lợi cá nhân, cục bộ, lãng phí..., dẫn đến vi phạm phải xử lý kỷ luật. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của yêu cầu nhiệm vụ, phải thường xuyên công tác xa gia đình, điều kiện sống, sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, khắc nghiệt, gian khổ, thậm chí cả hy sinh tính mạng..., cho nên trong một bộ phận đảng viên quân đội dễ nảy sinh tâm lý so sánh thiệt hơn, ngại tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, thậm chí dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, hành động tiêu cực.


Từ thực trạng trên, việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng để mỗi đảng viên trong quân đội thấy được niềm vinh dự, tự hào và nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết. Để làm tốt công tác bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết phải tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương của Đảng, của Thường vụ Quân ủy Trung ương, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ Quân đội về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””, với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII.


Bên cạnh đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả những giải pháp chủ yếu sau:


Một là, tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội về tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.


Để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quân đội, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, làm cho toàn thể đội ngũ đảng viên thấm nhuần những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và về đạo đức cách mạng; phải làm cho các chủ thể, các đối tượng và lực lượng tham gia xây dựng đội ngũ đảng viên nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò, bản chất của đạo đức cách mạng. Trên cơ sở đó, cấp ủy các cấp, cơ quan chính trị, đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội cần cụ thể hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đề ra phương hướng, mục tiêu, nội dung, giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết hợp tuyên truyền, giáo dục với tạo điều kiện cho đảng viên tự học, tự rèn, tự soi, tự sửa để hoàn thiện bản thân, đối chiếu với những chuẩn mực đạo đức của người đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội sẽ góp phần nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cộng sản, lòng trung thành đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình yêu thương con người; gương mẫu trong công tác, lối sống, khiêm tốn giản dị, dân chủ, đoàn kết và kỷ luật, nói đi đôi với làm; thương yêu đồng chí, đồng đội, không quan liêu, độc đoán chuyên quyền, gia trưởng...; có trình độ chuyên môn và tác phong, phương pháp công tác tốt; luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.


Hai là, đề cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên; coi trọng việc tự giáo dục, tự rèn luyện.


Tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi đảng viên là biện pháp có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc tự giác hóa quá trình hình thành, phát triển đạo đức cách mạng. Tự giáo dục đạo đức cách mạng, một mặt, phải gắn liền với học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức, quản lý; mặt khác, phải gắn liền giáo dục đạo đức với giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục pháp luật, kết hợp giữa nâng cao nhận thức về đạo đức cách mạng với rèn luyện đạo đức cách mạng thông qua hoạt động thực tiễn.


Do đó, để nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định trực tiếp chính là hình thành sự tự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của từng đảng viên trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, trong công tác và trong sinh hoạt đời thường. Thực tiễn cho thấy, đơn vị nào đề cao vai trò tiền phong gương mẫu, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thì ở đó chất lượng tư tưởng chính trị của người đảng viên được giữ vững, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diện.


Ba là, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù của từng đơn vị.


Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, nhất là trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh kết hợp thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” với việc “răn đe quân sự” thông qua các cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn, liên tục, bền bỉ của các tổ chức đảng, đảng viên trong quân đội; trong đó, việc bồi dưỡng lập trường chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Song, để mỗi đảng viên giữ vững lòng trung thành, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, thì phải chú trọng trang bị cho họ những tri thức chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, kỹ năng quân sự, chuyên môn cần thiết, phù hợp với đặc thù của từng đơn vị.


Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường dân chủ lành mạnh trong đơn vị.


Các cấp ủy trong quân đội cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; trong đó, tự phê bình và phê bình phải trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên với tinh thần nghiêm túc, thẳng thắn và đi đôi với thực hiện dân chủ rộng rãi; giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chính trị các cấp trong việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ là yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và của nhân dân trong quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát, phê bình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, qua đó, giúp đội ngũ này được rèn luyện về quan điểm, lập trường tư tưởng, tác phong, lối sống và đạo đức cách mạng.


Năm là, kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.


“Xây” đi đôi với “chống” là nguyên tắc trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của người cán bộ, đảng viên nói chung và đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân đội nói riêng, nhằm đạt được kết quả cao nhất.


Thực tiễn cho thấy, đội ngũ đảng viên quân đội được Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho nhiều cương vị, chức trách khác nhau; trong đó, nhiều đồng chí được giao quản lý khối lượng cơ sở vật chất, tài sản… có giá trị kinh tế cao, nên nếu không nghiêm khắc với bản thân, cũng như thiếu chế độ kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt sẽ dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa nêu cao đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không dám đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị và trong xã hội; thậm chí, còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân... Thực trạng này đòi hỏi công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân đội trên thực tế cần phải kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí và ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.


Kiên định mục tiêu lý tưởng, giữ vững lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn là lực lượng tiên phong trên mọi mặt trận, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vinh dự, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, đội ngũ đảng viên luôn phải là lực lượng nòng cốt, gương mẫu, đi đầu, chịu trách nhiệm trước tiên và cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ đảng viên quân đội là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, để đội ngũ này thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó./.


Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VÌ SAO CHUYỂN TIỀN TRỰC TUYẾN CÓ GIÁ TRỊ HƠN 10 TRIỆU ĐỒNG/LẦN PHẢI XÁC THỰC SINH TRẮC HỌC?

         Theo Quyết định số 2345/QĐ-NHNN (ngày 18-12-2023) của Ngân hàng Nhà nước, từ ngày 1-7-2024, các giao dịch chuyển tiền trực tuyến có giá trị hơn 10 triệu đồng/lần hoặc tổng giá trị giao dịch cộng dồn trong ngày trên 20 triệu đồng sẽ buộc phải xác thực sinh trắc học!
Quy định này nhằm tăng cường bảo mật cho tài khoản ngân hàng, đồng thời ngăn chặn các hành vi gian lận tài chính khi tình hình tội phạm lừa đảo công nghệ cao có xu hướng gia tăng với chiêu thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. 

Theo chuyên gia an ninh mạng, các biện pháp xác thực giao dịch chuyển tiền truyền thống bằng mật khẩu và mã xác thực một lần (OTP) dễ dàng bị đối tượng xấu chiếm đoạt. Trong khi đó, việc xác thực bằng sinh trắc học là biện pháp bảo mật tốt hơn với đặc điểm độc nhất của mỗi người dựa theo dữ liệu trên căn cước công dân, có thể hạn chế khả năng làm giả tài khoản.

Để thực hiện được giao dịch, dấu hiệu nhận dạng sinh trắc học của người dùng phải khớp đúng với dữ liệu sinh trắc học được lưu trong chip của căn cước công dân do cơ quan công an cấp; hoặc thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử của cá nhân do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập. Bằng việc xác thực sinh trắc học, việc đối soát dữ liệu của người giao dịch với dữ liệu lưu trữ của Bộ Công an giúp các ngân hàng xác định được giao dịch có chính chủ không. Nếu thông tin không trùng khớp thì giao dịch sẽ bị từ chối. 

Đối với những người dùng chưa có căn cước công dân gắn chíp hoặc người dùng là người nước ngoài hoặc người dùng sử dụng điện thoại không hỗ trợ NFC, để thực hiện giao dịch trực tuyến hơn 10 triệu đồng, người dùng chỉ phải thực hiện đăng ký một lần duy nhất thông tin sinh trắc học tại quầy với ngân hàng, sau đó người dùng có thể thực hiện giao dịch thông qua ứng dụng Mobile Banking/Internet Banking, không phải ra quầy.

Trong thời gian tới, khi Bộ Công an cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, các ngân hàng sẽ triển khai tích hợp ứng dụng Mobile Banking/Internet Banking với hệ thống định danh và xác thực điện tử để cho phép người dùng đăng ký thông tin sinh trắc học thông qua tài khoản định danh điện tử do Bộ Công an cấp.

Trước các hành vi lừa đảo trực tuyến, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đưa ra một số khuyến cáo để người dân nâng cao ý thức cảnh giác, bảo vệ bản thân: Không vay tiền online từ các ứng dụng không rõ nguồn gốc; không chuyển tiền, cung cấp thông tin cá nhân, mã xác thực 1 lần (OTP), tài khoản E-Banking, tải các ứng dụng/link/email theo yêu cầu của người lạ.

Người dân tuyệt đối không mua bán, trao đổi, cho thuê, mượn tài khoản; cài đặt bảo mật nhiều lớp và hạn chế chia sẻ thông tin cá nhân của bản thân, gia đình, bạn bè trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, người dùng cần cập nhật công nghệ mới, tăng cường bảo mật các thiết bị thông minh bằng việc đổi mật khẩu, không sử dụng mạng internet công cộng, bảo mật thấp để bảo mật thông tin cá nhân và an toàn giao dịch trực tuyến./.
Yêu nước ST.

NHÌN THẲNG - NÓI THẬT: VĂN CHƯƠNG VÀ CÁNH HẨU!

     Văn chương tự nó xác lập giá trị đích thực trong thử thách vô cùng nghiệt ngã của thời gian. Không ai có thể biến một tác phẩm dở thành hay bằng những lời khen ngút trời!
Kể cả tác phẩm được trao giải thưởng cao nhất của một cuộc thi với những lời tán dương của ban tổ chức hay ban giám khảo. Cho dù người tán dương ấy là nhà thơ rất nổi tiếng ở Việt Nam. Có những tác phẩm sau khi giành giải cao nhưng đông đảo dư luận lại không đồng tình, ví như trường hợp một bài thơ được trao giải nhất cuộc thi thơ của một tờ báo văn nghệ vốn có uy tín gần đây. Hoặc có những tác phẩm được giải thưởng bị “chết yểu” trong lòng bạn đọc. Văn chương hay sẽ tồn tại bền vững trong cuộc sống, càng để lâu càng tỏ rõ sức thuyết phục của nó. Có những tác phẩm chúng ta đọc hai, ba lần vẫn thấy hay, mỗi lần đọc lại phát hiện ra những điều mới mẻ về nội dung và nghệ thuật.

Vì sao một tác phẩm văn chương được khen? Theo tôi, có 3 lý do: Một, là do tác phẩm thực sự hay; hai, là khen vì tiền; ba, là khen do mối quan hệ thân thiết giữa tác giả và người viết phê bình. Cái thứ nhất đương nhiên là đúng, một tác phẩm hay xứng đáng được khen ngợi và tôn vinh. Cái thứ hai thì quá ê chề, vì đồng tiền mà nhà phê bình bẻ cong ngòi bút, nhắm mắt đi ngợi ca cái tầm thường nhàn nhạt và nhan nhản. Cái thứ ba vẫn còn xảy ra trong đời sống văn học Việt Nam, gọi là cánh hẩu trong văn chương.

Cánh hẩu có ở khắp mọi nơi, trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong văn chương cũng chỉ là một phần thôi nhưng không phải ai cũng nhận biết được. Không đọc tác phẩm mà quá tin vào lời khen của nhà phê bình thì rất dễ bị lừa. Người ta khen nhau vì mối quan hệ và cả vì những mục đích khác nữa. Thấy rõ nhất là những tác giả đang có vị trí trong làng văn hay đang giữ chân biên tập ở các tờ báo. Có cảm giác như người viết bài khen nghĩ rằng, thêm mấy lời ca tụng chẳng chết ai, lại được tiếng độ lượng, được họ được mình, đều vui vẻ cả. Một cuốn sách vừa mới xuất bản đã có chục bài phê bình, giới thiệu “ăn theo” làm người ta cứ tưởng rằng đỉnh cao của văn học nước nhà đã có. Nhưng, khi đọc kỹ nó ta thấy cũng chẳng có gì xuất sắc cả, chỉ là sự uốn éo câu chữ, kiểu làm duyên làm dáng ra chiều mới lạ. Có trường hợp khi đọc bài phê bình rồi đọc tác phẩm ta thấy chẳng ăn nhập gì với nhau, họ cứ viết đại và khen vống lên.

Tôi từng được một hội văn học nghệ thuật tỉnh mời đọc tác phẩm xét khen thưởng hằng năm. Có mấy tác phẩm làng nhàng, văn không ra văn, báo không ra báo, phê bình chẳng ra phê bình, giới thiệu chẳng ra giới thiệu. Tất nhiên, tôi đã đánh giá thấp các tác phẩm dự xét thưởng đó. Sau có đọc lại một số bài viết của vài nhà phê bình khá tên tuổi thì thấy họ khen hết lời những cuốn sách này. Có người đã mượn danh các nhà phê bình đó để “bật” lại chúng tôi (kiện tụng lên trên), nhưng trước những lập luận thẳng thắn và hợp lẽ của ban tổ chức thì họ đành chịu. Nói thật nhé, thỉnh thoảng tôi cũng nghe được những phàn nàn về chuyện phê bình văn học, kiểu như “thơ ông ấy mà cũng được khen đến mức thế à”; “sách mới ra còn thơm mùi in mà được tới tấp khen như vậy, hình như có mùi nịnh trong ấy”...

Chuyện cánh hẩu trong văn chương tuy là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, chuyện nhiều người biết, người thấy nhưng ít người nói, người viết. Tôi nghĩ rằng, muốn làm trong sạch đời sống văn chương nước nhà, trước hết phải chống lại tình trạng cánh hẩu trong lĩnh vực này để tạo được niềm tin của bạn đọc, bạn viết. Muốn đi được xa cần phải có bạn bè. Văn chương lại khác, sự đơn độc trong lao động nghệ thuật vốn là sự hiển nhiên với người viết. Bạn bè văn chương trọng nhau ở cái tài, cái tình, tuy rằng không phải ai cũng chơi được với nhau đâu. Họ chẳng phải ai xa lạ, cũng chỉ là con người, hội đủ mọi cung bậc tình cảm, đủ các dạng tính cách. Tuy nhiên, khen, chê nhau phải là câu chuyện khác. Khen, chê chừng cữ, mực thước là điều nên canh cánh của người cầm bút. Biết là thế, biết là vậy nhưng làm được điều đó không dễ dàng chút nào cả. Người Việt vốn duy tình, rất duy tình. Cánh hẩu thực sự làm hại văn chương nhưng nó đôi khi lại được nhìn nhận dưới tình cảm của người cầm bút dành cho nhau. Khó lắm thay!
Yêu nước ST.

NHÌN THẲNG - NÓI THẬT: NHIỄU LOẠN GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG VÌ LƯỜI ĐỌC!

     Câu nói: “Không có sách thì không có tri thức” của V.I Lênin là nguyên lý và cũng là chân lý khoa học. Vì sách lưu giữ những tri thức về tự nhiên và xã hội. Có đọc sách mới có thể chiếm lĩnh được những tri thức. Đọc sách còn là đạo lý xã hội, vì đó là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa truyền thống để phát triển làm giàu có cho hiện tại và tương lai!
Thế nhưng hiện nay ở nước ta có hiện tượng không đọc sách mà vẫn có thể dạy học, viết nghiên cứu, thậm chí có hẳn cả “công trình”. Chuyện này đã nhiều người nói, có ở nhiều lĩnh vực, song dễ thấy ở lĩnh vực giảng dạy, phê bình, nghiên cứu văn chương.   

Ai cũng thấy một nguyên nhân khiến học sinh chán học văn là do thầy cô giáo chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy. Hẳn không ít người từng là trò trong giờ giảng văn mà các thầy cô khen đoạn thơ này rất hay, khen nhà văn kia tài năng lắm. Nhưng đó là những lời chung chung, sáo rỗng, nhạt nhẽo, vì họ không chỉ ra được hay ở chỗ nào, có giá trị gì. Có một vài “nhà phê bình” không phân biệt nổi câu thơ, đoạn văn hay dở, đành chắp vá ý người này một tí, người kia một tẹo... Lý do cơ bản của “giảng dạy” và “phê bình” kiểu này là không đọc sách nên nghèo vốn chuyên môn, không đủ tri thức để liên tưởng, so sánh, không đặt vấn đề vào bối cảnh (xã hội và văn học) chung để tìm hiểu, khám phá làm nổi bật nét riêng của đối tượng.

Không đọc sách nên dẫn tới nạn sao chép ở các tiểu luận, luận văn, luận án. Dễ thấy ở những nghiên cứu cùng chuyên ngành thì “danh mục tài liệu tham khảo” sẽ giống nhau. Giống cả ở chỗ sai, chỗ dở. Sách cần phải có thì không có. Có những sách không liên quan đến chuyên ngành, đến đối tượng nghiên cứu lại được đưa vào cho dài “số thứ tự” danh mục để ra vẻ “đọc nhiều”. Có tên sách sai nhà xuất bản, năm xuất bản, nhưng vẫn tái xuất hiện y chang ở nhiều luận văn. Cái sự nhầm lẫn, “râu ông nọ cắm cằm bà kia” có cả trên các bài nghiên cứu ở các tạp chí khoa học mà tác giả có học hàm, học vị hẳn hoi. Biểu hiện ở sự copy dẫn chứng (thường là một đoạn văn) từ bài viết khác, thành ra người trước sai nội dung, sai câu chữ... vẫn được người đi sau sao chép y nguyên. Dẫn chứng sai, tất yếu sự phân tích không thể đúng. Hệ lụy càng lớn khi người sau nối tiếp “thao tác” giống hệt người trước!

Gần đây có một nhà văn viết bài tố cáo một nhà văn khá tên tuổi là ủy viên chung khảo một cuộc thi văn chương. Ông nhà văn kiêm giám khảo này không đọc tác phẩm mà vẫn “bỏ phiếu” (vắng mặt). Chứng cứ là dăm phút trước xin khất chưa bỏ phiếu vì chưa đọc, nhưng vì hội đồng chung khảo đang họp cần kết quả ở mọi thành viên, thế là sau một cú điện thoại nhờ vả, ông nhà văn kia vẫn... bỏ phiếu “đàng hoàng”!

Người viết bài này từng làm ủy viên thư ký một vài cuộc thi văn học ở vòng sơ khảo được chứng kiến nhiều chuyện cười ra nước mắt. Thư ký phải phân phối sách tới từng ủy viên hội đồng sơ khảo sau đó tổng hợp ý kiến, thấy có người đọc thật, đánh giá thật; nhưng cũng có người không đọc, bởi nếu đọc phải có sự “mở trang”, khi thư ký nhận lại, sách vẫn tình trạng y nguyên, thậm chí có người trao cả chồng sách được chằng buộc như ban đầu. Lạ thay, thế mà khi họp hội đồng thì có người không đọc lại cứ thao thao bất tuyệt, lời lẽ đánh giá tác giả, tác phẩm “vanh vách” còn hơn cả “thánh sống”!

Cụ Đỗ Phủ hơn ngàn năm trước đã răn mình (cũng là răn đời) phải đọc sách vạn quyển thì hạ bút mới có “thần”. Thế thì cái sự văn chương (nhất là phê bình) ngày nay nhạt là có lý, vì người phê bình không chịu đọc sách. Thế mà họ vẫn cứ nói, cứ viết, cứ phán rất... vô tư. Phải nói thẳng là những người này không có phẩm chất học thuật chân chính nên họ góp phần tạo ra cái giả trong xã hội. Mà cái giả dối thì luôn đi ngược lại tiến bộ, ngược lại đạo lý. Thế nên, chúng ta phải phê phán mạnh mẽ cái sự lười đọc này vì nó làm nhiễu loạn giá trị văn chương./.
Yêu nước ST.

NHÌN THẲNG - NÓI THẬT: “KÍNH THƯA”... VỪA THÔI!

         Vị chủ tịch của một tỉnh phía Nam đã yêu cầu như vậy khi ông liên tục được “kính thưa” tại một hội nghị do ông chủ trì. Mặc dù đã nhắc các đại biểu nói ngắn gọn, đi thẳng vào trọng tâm nhưng nhiều đại biểu khi thảo luận vẫn liên tục... “kính thưa”! Kết thúc hội nghị, ông nói thêm: "Lần sau tham dự hội nghị, khi phát biểu, các đồng chí không cần thiết phải “kính thưa” nhiều như vậy!
“Kính thưa”... vừa thôi! Chống bệnh hình thức, cải cách thủ tục hành chính phải bắt đầu từ văn hóa hội nghị. Ta phải mạnh dạn từ bỏ những thói quen kiểu này. Chỉ cần “kính thưa” chung một lần là đủ!".

Lại nhớ, trong một sự kiện ở tỉnh Bình Phước mới đây, trước giờ khai mạc, vị đại biểu cấp trên có chức vụ cao nhất tại sự kiện đã yêu cầu Ban tổ chức chỉ giới thiệu chung một lần. Thế là người dẫn chương trình, thay vì phải đọc bảng danh sách đại biểu dài dằng dặc, chỉ nói một câu ngắn gọn: “Kính thưa quý vị đại biểu”! Sự kiện, vì thế, diễn ra trong bầu không khí ấm áp, chan hòa, không còn khoảng cách giữa cán bộ, đại biểu và người dân.

Đơn giản hóa thủ tục giới thiệu là điều ai cũng mong muốn, nhất là đối với đơn vị tổ chức sự kiện, hội nghị. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nặng nề từ văn hóa “lời chào cao hơn mâm cỗ” nên không ai, không đơn vị nào dám cắt bỏ phần “kính thưa”. Sự kiện càng lớn, khách mời càng nhiều thì phần “kính thưa” càng nặng nề. Mà “kính thưa” càng nhiều thì càng dễ thiếu sót. Thế nên mới có tình trạng một số đại biểu, do không được nêu tên trong phần “kính thưa”, đã tự ái bỏ về.

Nhìn ra các nước tiên tiến, chúng ta đều thấy thủ tục “kính thưa” của họ vô cùng đơn giản, gọn nhẹ. Chúng ta đang hội nhập quốc tế. Tiếp thu những nét văn hóa, văn minh của họ để vận dụng phù hợp vào điều kiện của mình là vô cùng cần thiết.

Nhưng, để thay đổi một thói quen văn hóa là rất khó. Cấp nào, đơn vị, địa phương nào tổ chức sự kiện cũng mong được “kính thưa” vừa thôi. Nhưng quyết định chuyện đó lại thuộc quyền của cấp trên. Làm không khéo, coi chừng lại bị phê bình tội “thất lễ”. Vậy nên, để làm được, đòi hỏi phải “tiền hô hậu ủng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... Khi có những cán bộ có tư duy, hành động như hai câu chuyện vừa nêu, chắc chắn văn hóa hội nghị sẽ có bước đổi mới mạnh mẽ.

Theo Nghị định số 111/2018/NĐ-CP ngày 31-8-2018 của Chính phủ quy định về ngày thành lập, ngày truyền thống, ngày hưởng ứng của các bộ, ngành địa phương, việc giới thiệu đại biểu đến dự lễ cần bảo đảm trang trọng, ngắn gọn, đúng thành phần. Theo đó, chỉ giới thiệu đích danh đại biểu cấp trên cao nhất đến tham dự sự kiện và giới thiệu đích danh chức danh cao nhất (đương nhiệm) của người đứng đầu đơn vị chủ trì tổ chức sự kiện; còn lại giới thiệu đại diện tên cơ quan, đơn vị hoặc nhóm chức danh được mời.

Mong là sẽ có nhiều người đứng đầu phát huy vai trò nêu gương, để đơn vị, địa phương cấp dưới được “kính thưa”... vừa đủ. Nơi này làm, nơi kia học tập, lan tỏa thành nét đẹp văn hóa thì việc "thủ tục" không còn là nỗi lo của ban tổ chức các sự kiện. Đó cũng là cách để giảm thiểu chuyện “cờ, đèn, kèn, trống” khoa trương, hình thức, rườm rà không cần thiết, thậm chí gây khó chịu cho số đông. Đó còn là cách để cán bộ gần dân. Bởi suy cho cùng, tổ chức các sự kiện, các hội nghị cũng là để phục vụ dân!
Yêu nước ST.

NHÌN THẲNG - NÓI THẬT ĐỪNG CẢN TRỞ “MỀM” BÁO CHÍ!

         Lâu nay, khi nhắc đến hành vi cản trở báo chí tác nghiệp, dư luận thường nghĩ đến việc hành hung, đe dọa các nhà báo!
Những hành vi cản trở “cứng” này rất dễ xử lý vì thường có bằng chứng hiển lộ. Theo Ban Kiểm tra Hội Nhà báo Việt Nam, từ đầu năm 2022 đến nay, có gần 30 vụ việc hành hung, đe dọa các nhà báo. Nhờ sự vào cuộc quyết liệt và kịp thời của các cơ quan chức năng, nhiều đối tượng cản trở, xúc phạm nhà báo, hội viên đã bị xử lý thích đáng.

Tuy nhiên, cản trở tác nghiệp báo chí có nhiều hình dạng phức tạp hơn. Khảo sát của Viện Nghiên cứu truyền thông phát triển (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) cho thấy, hành vi cản trở báo chí đang dịch chuyển từ “cứng” sang “mềm”, như: Né tránh cung cấp thông tin; gây khó dễ; gián tiếp ngăn chặn các hoạt động tác nghiệp; thu giữ phương tiện tác nghiệp...

Một ví dụ đơn giản của cản trở “mềm” liên quan đến thẻ nhà báo và giấy giới thiệu. Khoản 2, Điều 25 Luật Báo chí nêu rõ: “Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo”. Tuy vậy, khi nhà báo xuất trình thẻ nhà báo, nhiều cơ quan và người có thẩm quyền lại đòi hỏi phải có giấy giới thiệu của cơ quan báo chí nêu rõ đến làm việc về nội dung gì.

Khoản 12, Điều 9 Luật Báo chí quy định hành vi bị nghiêm cấm đó là: “Đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên; phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật”. Như vậy, quy định pháp luật đã nghiêm cấm bất cứ hành vi cản trở nhà báo tác nghiệp dù “cứng” hay “mềm”.

Trên thực tế, có một số vấn đề, sự vụ vì chưa “chín”, chưa được làm rõ hay một số văn bản chính sách đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện, nên các tổ chức, cá nhân né tránh báo chí vì không muốn cung cấp thông tin chưa rõ ràng, không đến nơi đến chốn, có thể tạo ra “khủng hoảng truyền thông” không đáng có. Điều này giới báo chí phần nào có thể thông cảm.

Những trường hợp kể trên chỉ là thiểu số, hầu hết việc cản trở “mềm” xảy ra là do cá nhân, tổ chức muốn che giấu sự thật, không muốn báo chí đưa sự vụ ra ánh sáng. Với những trường hợp này, giới báo chí cần thật sự quan tâm, chuẩn bị tốt các sở cứ để trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Nhiều trường hợp phản ánh bị đối tượng cản trở tác nghiệp nhưng khó xử lý hoặc không xử lý được do nhà báo chưa chủ động chuẩn bị ứng phó với tình huống, thiếu tài liệu, chứng cứ để minh chứng cho hành vi cản trở.

Điều đáng lo ngại là một số cơ quan công quyền đang luật hóa cản trở “mềm”. Không chỉ báo giới, mà các nhóm dư luận trong xã hội, đặc biệt là tiếng nói của đại biểu Quốc hội đã lên tiếng mạnh mẽ, kịp thời về Điều 141 Dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) liên quan đến quyền ghi âm, ghi hình trong phiên tòa. Cuối cùng, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) vào chiều 24-6-2024.

Luật vừa thông qua quy định theo hướng cho phép ghi âm toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp; việc ghi hình chỉ thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. So với dự thảo ban đầu (hạn chế cả ghi âm và ghi hình) thì dự thảo chỉnh lý trước khi thông qua mở hơn. Có thể thấy những ý kiến đóng góp đã được tiếp thu, qua đó tiếp tục tạo điều kiện để báo chí phản ánh một cách chân thực, chính xác, góp phần vào việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội.

Bản chất của nền báo chí cách mạng Việt Nam là phục vụ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Suy cho cùng, việc tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí tác nghiệp cũng không ngoài mục đích góp phần thực hiện tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do tiếp cận thông tin của công dân. Ngược lại, mọi hành vi cản trở báo chí tác nghiệp (nhất là những biểu hiện tinh vi của cản trở "mềm") là trái tinh thần thượng tôn pháp luật, không có lợi cho việc thúc đẩy đời sống xã hội dân chủ, văn minh, tiến bộ./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRƯỜNG SA “HÀNH TRÌNH CỦA CẢM XÚC”!

         Những ngày lênh đênh trên sóng, không điện thoại, không mạng xã hội, chỉ có nắng, gió, bình minh, hoàng hôn của biển đảo và những ngày rộn rã tiếng cười, giọng nói với các buổi sinh hoạt tập thể ý nghĩa, đều đặn những bữa cơm nồng ấm tình quân dân...

Tôi may mắn nhận “tấm vé lên tàu” tham gia Đoàn công tác số 9 do Trung tướng Nguyễn Văn Bổng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Hải quân - Trưởng đoàn công tác thăm quân dân huyện đảo Trường Sa và nhà giàn DK1 trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc vào những ngày giữa tháng Tư.

Đó cũng là lần đầu tôi đặt chân lên một con tàu kiểm ngư rộng lớn như KN-491 để thực hiện chuyến ra khơi kéo dài suốt một tuần.

Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng của chuyến đi Trường Sa đầu tiên bỗng xóa tan bởi bầu không thân thiện của những người bạn đồng hành, tình cảm ấm áp của thủ trưởng đoàn và các lãnh đạo của các địa phương, đơn vị tham gia và sự chuẩn bị chu đáo, tận tình của Thuyền trưởng Nguyễn Văn Tuyên cùng các cán bộ, chiến sĩ Vùng 4, Chi đội kiểm ngư và các lực lượng hải quân dành cho đoàn.

Những ngày “sống khác”
Sau ba hồi còi rền vang tại bến cảng Cam Ranh, tàu KN-491 rời đất liền, vươn sóng bắt đầu chuyến hải trình. Giống như phần lớn thành viên đoàn, đây là lần đầu tiên ông Hà Sơn Nhin, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, ra thăm Trường Sa. Sự xúc động, háo hức, phấn khởi xen lẫn tự hào của vị cán bộ về hưu nay 70 tuổi cũng là tâm trạng chung của hầu hết chúng tôi.

Tôi còn nhớ vào ngày khởi hành, Trung tướng Nguyễn Văn Bổng nói với chúng tôi rằng: “Tham gia vào hành trình này, các bạn sẽ được sống những ngày rất đặc biệt, những trải nghiệm rất khác với thường nhật và sẽ nhận được những nguồn năng lượng tích cực, mới mẻ...”.

Thật vậy, thời gian bảy ngày trên tàu là hành trình của những ngày “sống khác” với mọi cung bậc cảm xúc, giúp chúng tôi tạm quên đi những đời sống thường nhật để dành trọn tình cảm và sự quan tâm cho biển đảo quê hương.

Người chị đồng hành trên tàu tâm sự: “Ở trên tàu này chỉ thấy những niềm vui. Mọi người đều bình đẳng, không thấy ai còn cấp bậc, chức vụ, ngành nghề hay dấu hiệu tuổi tác nữa. Rất lâu rồi chị mới được cười được nói nhiều như vậy, được ngủ chung phòng với nhiều người, được ăn cơm đủ bữa và đúng giờ, lại còn ăn cơm trắng vào buổi sáng nữa”.

Thời gian ra các đảo có những khi kéo dài đến cả ngày ròng nhưng lịch trình trên tàu không hề nhàm chán bởi luôn được lấp đầy bởi các buổi sinh hoạt chung, các cuộc thi đua với chủ đề “Đoàn kết, nghĩa tình, lập công, chiến thắng” với hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu về biển đảo, thi văn nghệ với chủ đề “Biển, đảo và người chiến sĩ Hải quân”, thi cờ tướng, thi cắm hoa vải, tổ chức sinh nhật tập thể... Không khí thi đua vui vẻ, hăng hái và nhiệt tình của các đội nhóm đã kết nối, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên trong đoàn đến từ mọi miền đất nước.

Cũng để gắn kết hơn nữa tình quân dân, các đại biểu nữ của đoàn công tác luôn kịp thời hỗ trợ, thường xuyên giúp đỡ tổ phục vụ nhà bếp và làm công tác hậu cần trên tàu. Mặc dù chưa quen với sóng gió của hải trình nhưng sự sẻ chia kịp thời của các đại biểu là nguồn động viên để tổ tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ngạc nhiên và cảm phục
Trong chuyến hải trình lần này, đoàn công tác đã lên thăm bảy đảo gồm Đá Thị - Sinh Tồn - Cô Lin - Núi Le B - Tốc Tan C - Đá Tây A - Trường Sa và Nhà giàn DK1/19 Quế Đường.

Trực tiếp chứng kiến cuộc sống trên đảo và trải nghiệm với sóng gió Trường Sa, hầu hết mọi người đều cảm nhận sâu sắc hơn sự hy sinh lớn lao, nghị lực, ý chí kiên cường của cán bộ, chiến sĩ và bà con nhân dân trên quần đảo, từ đó càng củng cố vững chắc niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, quân đội ta và khẳng định rõ hơn tình yêu biển, đảo quê hương.

Đặc biệt, khi đến thăm đảo Trường Sa lớn, ai cũng ngạc nhiên và xúc động chứng kiến hòn đảo được coi là ‘Thủ đô của huyện đảo Trường Sa” đang đổi thay từng ngày, khang trang và tươi đẹp hơn.

Những công trình quốc phòng kết hợp phục vụ dân sinh như sân bay, âu tàu, trạm thu phát tín hiệu truyền hình, điện thoại qua vệ tinh, đài khí tượng thủy văn, trạm hải đăng, Nhà khách Thủ đô, Chùa Trường Sa, nhà thờ Bác Hồ, Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ, hệ thống năng lượng sạch, bệnh xá... được xây dựng, nâng cao đời sống của quân và dân trên đảo góp phần thực hiện thắng lợi chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng biển và hải đảo của Đảng và Nhà nước.

Lần đầu mục sở thị các hòn đảo, cảm xúc của anh Ngô Đức Hải đến từ tỉnh Kon Tum, gói trọn trong hai từ “cảm phục”. Trong đầu luôn đặt câu hỏi: “Không biết bằng cách nào với điều kiện khó khăn của ngày xưa mà cha anh ta đã vươn ra biển cả để phát hiện và gìn giữ được những hòn đảo này?”. Theo anh, đó là công lao to lớn mà thế hệ sau này phải khắc cốt ghi tâm, tình sâu ơn nặng.

Anh Hải chia sẻ: “Người dân Kon Tum hầu hết chỉ quen với những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn núi hùng vĩ. Khái niệm biển đảo khá xa lạ. Qua chuyến đi này, với tình cảm, sự chứng kiến thực tế và với trách nhiệm của một cán bộ làm công tác tuyên giáo, tôi nhất định sẽ đưa hình ảnh của biển đảo, cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ngoài đảo đến với nhân dân Kon Tum”.

“Đảo là nhà, biển là quê hương”
Đó là khẩu hiệu mà đoàn công tác có thể nhìn thấy ở khắp các điểm đảo và nhà giàn ghé chân, giống như lời “khắc cốt ghi tâm” của các cán bộ, chiến sĩ ở nơi đầu sóng ngọn gió.

Nhiều dịp được tiếp xúc với họ, chúng tôi đều cảm nhận rằng, các cán bộ, chiến sĩ trên đảo không thể quên được sự hy sinh anh dũng của 64 cán bộ, chiến sĩ hải quân tại sự kiện đảo Gạc Ma năm 1988, cũng như thuấn nhuần ý thức bảo vệ và gìn giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Trong một cuộc trò chuyện với chúng tôi, Trung úy Phan Văn Đạt - cán bộ thông tin đảo Núi Lê B, cho biết anh đã tham gia công tác ở đảo đến nay đã hơn 60 tháng. Tuy nhiên, nếu đơn vị còn cần thì người lính trẻ vẫn tiếp tục xung phong thực hiện nhiệm vụ ở hòn đảo chìm còn nhiều khó khăn và thiếu thốn này.

Không chỉ là tình cảm ở phía những người lính biển, mỗi đại biểu về với Trường Sa đều có cảm xúc riêng dành cho biển đảo quê hương.

Trên hành trình từ nhà giàn DK 1/19 Quế Đường về lại đất liền, PGS. TS, họa sĩ Đỗ Lệnh Hồng Tú, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam, kịp ghi lại những ghi chép viết thành vần của ông: “Chiều nay trên biển lòng ta như chùng lại. Cay mắt khói nhang, lòng thành tưởng niệm. Sáu mươi tư liệt sĩ giữ Gạc Ma. Cố cố lắm để ngăn dòng lệ chảy. Thả mấy trăm cánh hạc trôi về chốn không cùng. Chiều cuối chiều mây mọng nước rưng rưng. Khắp bốn bề rủ nhau về tụ hội. Linh hồn thiêng như hiểu thấu lòng người”.

Trong chuyến đi này, ông Lê Bá Hòa - làm việc tại văn phòng đại diện Ngân hàng Công thương Việt Nam tại Đà Nẵng, như “xuất khẩu thành thơ” và gửi gắm hết tấm lòng của mình vào những trang viết có thể xuất bản thành cả tập về Trường Sa. Đại biểu Hoàng Thọ - Phó Chánh Văn phòng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cũng hóa thi sĩ với những tâm tình đầy xúc động:
Lãnh thổ linh thiêng đã lay động tâm hồn
Tám điểm đến - một hải trình tuyệt diệu
Đọng trong tim 194 đại biểu
Những nặng sâu của hai tiếng “quê hương”
Ơn các anh người tạo những cung đường
Đưa biển đảo gần hơn về đất mẹ
Cho chúng ta một niềm tin mạnh mẽ
Đất Việt ling thiêng, biển đảo trường tồn.

Chuyến đi nào cũng có bắt đầu và kết thúc, có gặp gỡ và chia tay, nhưng chắc chắn mỗi chúng tôi dù đã trở về cuộc sống thường nhật, vẫn không thể quên được những ấn tượng của hành trình đặc biệt ấy, cũng như sẽ thấu hiểu hơn lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay, ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải gìn giữ lấy nó”./.
Ảnh: Đại biểu chụp ảnh với các chiến sĩ trong chuyến thăm đảo./.
Môi trường ST.

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng-văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

HỆ QUẢ "VẠ MIỆNG" VÌ LÀM DỤNG TỰ DO NGÔN LUẬN

Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Tháng 8-2022, Sở Thông tin và Truyền thông TP Đà Nẵng đã xử phạt vi phạm hành chính với mức 7,5 triệu đồng đối với một nhà báo đăng tải bài viết về việc Đà Nẵng đề xuất mở "phố đèn đỏ" trên mạng xã hội. Theo cơ quan chức năng, bài viết của nhà báo này có những nội dung sai sự thật, hình ảnh đăng tải nhạy cảm, không kiểm chứng làm người đọc hiểu sai vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành của TP Đà Nẵng đối với sự phát triển du lịch.

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý. (Ảnh minh họa: lamdong.gov.vn)

Mới đây, một luật sư nguyên là Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội bị khởi tố, bắt giam trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố. Theo Bộ Công an, bị can này đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên Facebook xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Tháng 7-2023, Hamdan Al Rind-một người có ảnh hưởng trên mạng, chủ kênh chia sẻ video nổi tiếng “Chuyên gia ô tô” trên mạng xã hội  TikTok với hơn 2,5 triệu người theo dõi-đã bị bắt ở Dubai vì một video hài. Trong clip này, anh ta ném những chồng hóa đơn cho những nhân viên đang ngơ ngác và đề nghị mua chiếc xe đắt nhất-một chiếc Ferrari SF90 trị giá 600.000USD. Clip được cho là sản xuất nhằm chế giễu lối sống xa hoa tại thành phố nổi tiếng với những tòa nhà chọc trời và những điểm du lịch hàng đầu thế giới này.

Nhà chức trách sau đó buộc tội Hamdan Al Rind đã “lạm dụng internet” bằng cách đăng thông tin “khuấy động dư luận và gây tổn hại đến lợi ích công cộng”. Hãng thông tấn nhà nước WAM đưa tin, clip này “quảng bá một hình ảnh tinh thần sai trái và xúc phạm về công dân Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và chế giễu họ”. Vụ bắt giữ Hamdan Al Rind dựa trên những quy định tại một đạo luật về tội phạm mạng được Các tiểu vương quốc Arab thống nhất thông qua vào năm 2021.

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN ĐỂ KHÔNG PHÁT NGÔN TÙY TIỆN

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.

KHÔNG PHẠM VÀO "LẰN RANH ĐỎ" GIỮA TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ KỶ LUẬT PHÁT NGÔN

Có thể thấy, việc hạn chế phát ngôn bừa bãi, thông tin tùy tiện trên mạng xã hội là nhằm bảo vệ cộng đồng chứ không chỉ là việc xử lý, trừng phạt những cá nhân có phát ngôn sai trái, xuyên tạc. Những thông tin sai sự thật có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đời sống xã hội. Phát ngôn gây thù ghét, phát ngôn kích động có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật, hành vi bạo lực nhắm vào những nhóm đối tượng cụ thể, hành vi kỳ thị dân tộc, giới tính, xuất thân...

Để hiểu đúng và thực hiện tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về an toàn an ninh trên môi trường số, trong đó nhấn mạnh đến giới hạn cần thiết của quyền tự do ngôn luận. Đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để thông tin sai sự thật, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát, phản biện những ý kiến, thông tin được truyền đạt trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Việc này không chỉ giúp làm rõ sự thật mà còn tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và đa chiều, đồng thời giúp ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận để gây rối, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa.

Quan tâm xây dựng mạng lưới những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOLs) tham gia phòng, chống thông tin sai trái, phát ngôn gây thù ghét, những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để bôi nhọ chế độ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... Những KOLs sẽ chủ động phát hiện, chủ động đấu tranh với thông tin sai trái, xấu độc; đồng thời lan tỏa những thông tin đúng đắn, tích cực đến cộng đồng.

Hiểu đúng tự do ngôn luận và phòng ngừa tự do phát ngôn tùy tiện gây tác hại đến an ninh tư tưởng-văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua việc tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức công dân trong sử dụng tự do ngôn luận, cũng như áp dụng các biện pháp quản lý và giám sát hợp lý, chúng ta có thể tạo ra một môi trường truyền thông lành mạnh, an toàn, đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, việc hiểu đúng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, cũng như tuân thủ nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi là việc làm thiết thực góp phần giữ vững môi trường thông tin xã hội lành mạnh; đồng thời cũng là một cách góp phần phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị./.

ST.