Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2024

 Tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ nềntảng

 tưởng của Đảng trong tình hình mới 

Thời gian qua, công tác đấu tranh phản bác các luậnđiệu xuyên tạcsai tráithù địchbảo vệ nền tảng tưởng của Đảng đã đạt được những kết quả tích cực. Ban chỉ đạo 35 các cấp được thành lậpcùng với  quanthường trựclực lượng nòng cốtlực lượng chuyên sâulực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã hoạt độnghiệu quảgóp phần làm thất bại âm mưuhoạt động “diễnbiến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Tuy nhiêntrước âm mưuthủ đoạnphương thứcchống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nham hiểmcần thực hiện đồng bộ một số giải pháp đểbảo vệ nền tảng  tưởng của Đảngđấu tranh phản bác hiệu quả các quan điểm sai tráithù địch trong tìnhhình mới.

Một chủ động nắm tình hìnhphát hiện sớm hoạtđộng chống phá của các đối tượng để đấu tranh làm thấtbại âm mưuthủ đoạn của các thế lực thù địch hộichính trị. Đấu tranh bảo vệ nền tảng  tưởng của Đảngphản bác các quan điểm sai tráithù địch ở Việt Nam hiện nay cần  những nội dung, phương thức phù hợpvới từng thời điểmgiai đoạn nhất địnhTrong giai đoạnhiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụnginternet, mạng  hội để chống pháxuyên tạc nền tảng tưởng của Đảngbởi vậyngoài hình thức đấu tranhtruyền thốngcần bổ sung những hình thức đấu tranhmớinhưđấu tranh trực tiếptrực diện trên không gianmạngthông qua các phương tiện truyền thông  hộixây dựng đội ngũ thông tin viên rộng rãinhất  hội viêncác đoàn thể nhân dân

Hai tiếp tục tuyên truyềnlàm cho chủ nghĩa MácLê-nin tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trongđời sống tinh thần ở nước ta. Thực hiện nghiêm hiệuquả Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban thư khóa XII “V tiếp tục đổi mớinâng cao chất lượnghiệu quả học tậpnghiên cứuvận dụng  phát triển chủnghĩa Mác - Lê-nin tưởng Hồ Chí Minh trong tìnhhình mới”, đáp ứng yêu cầunhiệm vụ xây dựng  bảovệ Tổ quốc Việt Nam  hội chủ nghĩaTăng cường côngtác tổng kết thực tiễnnghiên cứu  luậnkịp thời luậngiải những vấn đề  luận mớikhócòn nhiều ý kiếnkhác nhautạo sự đồng thuận trong nhận thức  hộiBằng các hình thức tuyên truyền phù hợpgiúp cán bộđảng viênnhân dân hiểu   nắm vững bản chất khoahọccách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin tưởng HồChí Minh; thấy  bản chất phản động của những luậnđiệu xuyên tạcsai tráithù địch

Ba kiên địnhvận dụng đúng đắn  phát triển sáng tạochủ nghĩa Mác - Lê-nin tưởng Hồ Chí Minh. V.I. Lê-nin đãtừng chỉ : “Chúng ta không hề coi  luận của Mác như  mộtcái  đã xong xuôi hẳn  bất khả xâm phạmtrái lạichúng ta tin rằng  luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học  nhữngngười  hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặtnếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống(6)Kiênđịnh chủ nghĩa Mác - Lê-nin nghĩa  phải nắm vững bản chấtkhoa học  cách mạngvận dụng  phát triển sáng tạophù hợpvới thực tiễn cách mạng nước ta, để những nội dung, quan điểmcủa học thuyết Mác - Lê-nin  thêm sức sống mớiđược hiệnthực hóaphù hợp với điều kiệnhoàn cảnh của Việt Nam tronggiai đoạn hiện nay./.

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ THỊ ÁNH XUÂN DỰ CHƯƠNG TRÌNH NGHỆ THUẬT ĐẶC BIỆT “HOA THÁNG BẢY”!

     Tối 1-8, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27-7-1947/27-7-2024) với chủ đề "Hoa tháng Bảy". Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân dự chương trình. Cùng dự có đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam!

Tại chương trình, các đại biểu đã dành một phút mặc niệm tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; tri ân các bậc cách mạng tiền bối, các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì nền độc lập, tự do của dân tộc.

Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27-7 có ý nghĩa quan trọng đối với toàn thể nhân dân Việt Nam. Đó là ngày để mỗi người Việt Nam nhớ về nguồn cội, thể hiện truyền thống "hiếu nghĩa bác ái", lòng biết ơn vô hạn đối với những Anh hùng liệt sĩ, thương, bệnh binh đã hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Trong số các thương binh, liệt sĩ đó, đã có lớp lớp nhà báo đã xông pha ra những chiến trường ác liệt để đưa thông tin và hình ảnh tới bạn đọc, thậm chí trực tiếp cầm súng và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Được chia làm hai phần: "Khúc tráng ca bất tử" và "Tình yêu hòa bình", chương trình "Hoa tháng Bảy" đã mang đến cho khán giả những ca khúc quen thuộc, hào hùng về một thời oanh liệt, như: "Bài ca hy vọng", "Bài ca không quên", "Màu hoa đỏ"… thông qua phần biểu diễn của Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Lam; Nghệ sĩ Ưu tú Hoàng Tùng, Nhật Thủy Idol, Đào Tố Loan, Khánh Linh, Quang Vinh, Minh Châu... Đan xen đó là những phóng sự dẫn dắt, nối tiếp tạo nên tổng thể của chương trình nghệ thuật nhiều cảm xúc đối với người xem.

Thông qua chương trình, Ban tổ chức muốn hướng đến việc khơi gợi lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quê hương, đất nước; đồng thời gợi mở những suy nghĩ về trách nhiệm của các thế hệ trong việc gìn giữ, bảo vệ chủ quyền, phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp...




Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NUÔI DƯỠNG CẢM HỨNG SÁNG TẠO VỀ ĐỀ TÀI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ!

         Sáng tác văn học-nghệ thuật (VHNT) về đề tài thương binh, liệt sĩ (TBLS) trong bối cảnh hôm nay được tiếp nối truyền thống tôn vinh, trân trọng và cảm phục tha thiết của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đi trước. Để làm dày thêm truyền thống đó, cần có nhiều phương thức mới để nhen lửa sáng tạo trong lớp văn nghệ sĩ đang hưởng hòa bình, chịu ơn cống hiến, hy sinh của cha anh xưa!

Ngợi ca, cảm phục và tiếc thương
Trước khi Đảng, Nhà nước lấy ngày 27-7 là Ngày TBLS và truyền thống đẹp đẽ, hào hùng, bi tráng tôn vinh các TBLS được giữ lửa mãi đến hôm nay, trong lịch sử VHNT nước nhà, sự hy sinh quên mình, xả thân vì dân, vì nước của những người con ưu tú đã được “dựng tượng đài”, được “dâng hoa” bằng sáng tạo của các bậc chí sĩ, văn nhân.

Nối tiếp truyền thống biết ơn người có công với nước trong lịch sử, truyền thống tưởng niệm, tri ân các chiến sĩ dành một phần máu xương và cả tính mạng để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất cho Tổ quốc, đồng bào đã soi chiếu vào tình cảm, tấm lòng của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ, qua nhiều thời kỳ. Dễ nhận thấy rằng, trong sáng tạo văn nghệ về đề tài chiến tranh cách mạng, do tinh thần chung một thời, hướng về chiến thắng, nên thường thể hiện sự lạc quan, khí thế quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta.

Nhìn lại nhiều tác phẩm, có thể thấy việc bị thương, thậm chí hy sinh, hành động quả cảm chiến đấu đến cùng là những điểm nhấn, góp phần lý giải cho vẻ đẹp con người. Tất nhiên, đáng lưu ý là việc miêu tả những tổn thương, mất mát đó thường được truyền tải qua những hình tượng, hình ảnh, nội dung mô tả đẹp đẽ, kiên cường chứ không bi lụy, bi thiết.

Điều này cũng nhằm truyền đến công chúng, trong đó có các chiến sĩ đang cầm súng chiến đấu những cảm xúc mạnh mẽ, tích cực, hướng về tương lai. Do đó, cách thể hiện cũng thường thiên về mô tả hiện thực, dễ nắm bắt, tiếp nhận, dễ đồng cảm.

Nhiều tác phẩm tôn vinh các TBLS để lại ấn tượng sâu sắc xuyên thời gian đến hôm nay, trở thành những tiêu biểu của nền văn nghệ nước nhà, có thể kể đến các bài hát: “Biết ơn chị Võ Thị Sáu” của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, “Bế Văn Đàn sống mãi” của Huy Du; bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân, sau này nhạc sĩ Nguyễn Chí Vũ phổ nhạc; bức tranh “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của danh họa Nguyễn Sáng, “Con đọc bầm nghe” của danh họa Trần Văn Cẩn; vở kịch múa “Ngọn lửa Nghệ Tĩnh” của tập thể tác giả, biên đạo múa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; vở kịch “Đại đội trưởng của tôi” của nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm... 

Thời hòa bình, không vì mải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục khó khăn kinh tế và dành tâm sức đổi mới, hội nhập mà Đảng, Nhà nước và văn nghệ sĩ sao nhãng mảng đề tài về TBLS. Đề tài về chiến đấu và hy sinh, mất mát vẫn tiếp tục được nối dài. Cùng với đó, đề tài hậu chiến với những vết thương chưa lành của gia đình, người thân liệt sĩ, của thương binh khi sự mất mát vẫn ở trong thực tại.

Cả những “mối lo” mới của họ ở tư cách những người lính từ chiến trường bước ra nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu và sau này là nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, cốt yếu để lo cho bản thân và gia đình có cái ăn, cái mặc đủ đầy. Lẽ tất yếu vẫn có những tác phẩm hay mà nhân vật TBLS là trung tâm. Có lẽ từ khía cạnh tình cảm, đạo đức, nhân phẩm, đứng trước sự mất mát, hy sinh của những người đã hiến dâng thân thể, tính mạng cho hòa bình, thống nhất, thì cảm quan chung của những người sáng tạo sẽ là sự kính trọng, khâm phục, biết ơn, thương tiếc và có cả nỗi xót xa với những câu hỏi tự vấn cho bản thân.

Bởi thế mà đọc, xem, nghe những tác phẩm, chi tiết nghệ thuật hướng về những hy sinh, mất mát ấy, tinh thần chung dễ cảm nhận là thái độ tôn vinh, nhắc nhớ. Có thể kể đến các bài hát: “Vết chân tròn trên cát” của Trần Tiến, “Miền xa thẳm” của Đức Trịnh; vở kịch “Người không cô đơn” của nhà viết kịch Bùi Vũ Minh; bộ phim “Ai xuôi vạn lý” (kịch bản: Nguyễn Thiện Đĩnh, Ngụy Ngữ; đạo diễn: Lê Hoàng)...

Cầu nối của các thế hệ mới
Việc thúc đẩy đề tài TBLS trong sáng tác VHNT về chiến tranh cách mạng, hình tượng người lính vẫn là một nhu cầu, nhiệm vụ trong đời sống hôm nay, với những nét mới về điều kiện, con người.

Bên cạnh những yếu tố mang tính thị trường liên quan đến việc xuất bản, phát hành các tác phẩm; yếu tố đa dạng thẩm mỹ, nhu cầu thưởng thức phong phú của công chúng ngoài mảng VHNT đề tài người lính; thì những tác động quan trọng đến từ đội ngũ tác giả. Lực lượng sáng tác đi qua chiến tranh đã vắng bóng dần cũng như tuổi đã cao. Lớp người mới lớn lên trong hòa bình, tiếp cận với chiến tranh, sự hy sinh của cha anh qua sử liệu và thực tế trên những vùng chiến trường xưa đã tan khói súng. Sự kết nối về con người, tình cảm, ngay cả ý thức trách nhiệm cũng khác với lớp người đi trước.

Thậm chí, ngay cả đội ngũ những người lính hôm nay gồm cả lực lượng có vai trò tổ chức, thúc đẩy hoạt động sáng tác VHNT về đề tài TBLS cũng đã có những lớp người mới, là những người lính thời bình. Những điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan tâm, ý thức trách nhiệm và hành động kiến tạo, thúc đẩy cũng như hành vi sáng tạo đối với đề tài TBLS.

Xác định tiếp tục duy trì mảng đề tài này, cũng như nuôi dưỡng, vun đắp để tiếp tục có những tác phẩm mới, có chất lượng của thế hệ trung tuổi, trẻ tuổi, sự đầu tư và kiến tạo các hoạt động xúc tác cho sáng tác đòi hỏi những phương thức tổ chức và định hướng mới. Trong chuỗi những hoạt động chung về tổ chức sáng tác, xuất bản, dàn dựng, trưng bày, triển lãm... các tác phẩm về chiến tranh cách mạng, hình tượng người lính nên có những chuyên đề, chủ điểm dành riêng về đề tài TBLS cho các văn nghệ sĩ quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu sẽ tiếp cận, thể nghiệm và sáng tạo.

Thí dụ như việc đi thực tế sáng tác ở các đơn vị, địa bàn, cần có những nội dung tập trung vào các nghĩa trang liệt sĩ, bảo tàng chứng tích chiến tranh, nhà tù giam giữ chiến sĩ của ta, gặp gỡ các nhân chứng là thương binh, thân nhân liệt sĩ, tiếp cận những nơi lưu trữ hồ sơ liên quan, các đơn vị làm công tác đền ơn đáp nghĩa, xác minh tên tuổi liệt sĩ...

Bên cạnh đó, cũng cần bám sát dư luận, theo dõi nguồn thông tin báo chí. Đây là một nguồn gợi ý đa dạng và ngày càng có thêm những diễn biến mới liên quan đến đề tài TBLS. Thời gian qua, đã xuất hiện nhiều hoạt động hợp tác của cựu binh Mỹ với Việt Nam trong việc tìm hài cốt liệt sĩ, xác định lại những hố chôn tập thể của bộ đội ta trong chiến tranh. Rồi công tác xác định hài cốt, đi tìm mộ liệt sĩ, xác nhận tài liệu, hồ sơ liên quan đến liệt sĩ trong chiến tranh cũng có nhiều diễn biến mới.

Ngoài ra, báo chí cũng phản ánh nhiều gương thương binh vượt khó, làm giàu, nghiên cứu, hoạt động từ thiện, khám, chữa bệnh, có nhiều đóng góp cho xã hội... Những nội dung như thế, qua báo chí, tuy cần có độ lắng theo thời gian, độ ngấm đối với các văn nghệ sĩ nhưng cũng có thể là nguồn tham khảo, nắm bắt thực tiễn cần thiết, chân thực.

Kiến tạo các hoạt động sáng tạo như trên, cũng như có những định hướng, gợi mở từ thực tế hôm nay là điều cần lưu tâm đối với các nhà tổ chức hoạt động sáng tác trong LLVT cũng như ngành thương binh, xã hội và các hội nghề nghiệp về VHNT trong quá trình phối hợp.

Với người sáng tạo, sở trường, sự hứng thú và ý thức tự thân là điều quyết định chính cho sáng tác của họ. Nhưng với đề tài TBLS, thử sức cũng là điều nên làm. Tất nhiên để đi tới cách làm việc hiệu quả, thiết thực, văn nghệ sĩ thế hệ mới, thế hệ trẻ ngoài việc tìm hiểu các nguồn tư liệu, đi thực tế các địa bàn, gặp gỡ nhân chứng... thì nên có được sự phối hợp, hỗ trợ và cả đầu tư từ các cơ quan chức năng của LLVT, các địa phương, bộ, ngành, cơ quan chức năng trong lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội.

Mục tiêu lớn nhất là bảo đảm cho văn nghệ sĩ nuôi dưỡng, duy trì được bền hơn mối quan tâm, nhiệt tình sáng tác với mảng đề tài này. Ngoài ra, con đường từ tác phẩm ra thị trường, đến xã hội cũng cần nhiều hơn những hoạt động hỗ trợ công bố, thúc đẩy quảng bá, các chương trình phục vụ công chúng thưởng thức các tác phẩm văn học, nhiếp ảnh, xem phim, sân khấu, thưởng thức ca múa nhạc về đề tài này.  

Thiết kế những cầu nối để người tổ chức sáng tác và người sáng tác gặp nhau là việc cần làm để khởi đầu cho chuỗi những hoạt động có thể diễn ra sau đó. Tin rằng với mối quan tâm trân trọng và ý thức sáng tạo VHNT như một nhiệm vụ về đề tài TBLS, sẽ còn nhiều câu chuyện về cống hiến và hy sinh được kể với công chúng, đặc biệt là với thế hệ công chúng mới, sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã lùi xa nhiều thập kỷ. Lòng biết ơn, tình cảm xót thương, niềm trân trọng hòa bình và cả cảm hứng sống đóng góp, dâng hiến sẽ còn được dấy lên trong lớp người trẻ qua những bài học tinh tế, sâu sắc bằng VHNT./.
Theo báo QĐND.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BÀN VỀ CÔNG TÁC BẢO ĐẢM TRANG BỊ, BẢO ĐẢM KỸ THUẬT CHO TRANG BỊ KỸ THUẬT THẾ HỆ MỚI TRONG QUÂN ĐỘI!

     Thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại, cùng với điều chỉnh về tổ chức, Quân đội đã và đang được tăng cường nhiều loại trang bị kỹ thuật thế hệ mới, hiện đại và sự xuất hiện của các loại trang bị kỹ thuật này sẽ tác động rất lớn đến công tác kỹ thuật, đặc biệt là về bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới. Đây là nội dung đặt ra bức thiết cần được quan tâm, nghiên cứu!

Hiện nay, dưới tác động nhiều chiều của tình hình thế giới và từng khu vực, việc trang bị kỹ thuật thế hệ mới cho quân đội đã, đang được nhiều nước quan tâm và trở thành một xu thế. Đây chủ yếu là trang bị kỹ thuật truyền thống được tích hợp dưới dạng mô-đun bảo mật những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực công nghệ cao (còn gọi là trang bị kỹ thuật công nghệ cao), bao gồm: công nghệ điện tử, công nghệ điều khiển - tự động hóa, công nghệ thông tin, vật liệu mới,... nhằm nâng cao độ chính xác, tầm xa hoạt động, cũng như khả năng hoạt động trong điều kiện môi trường phức tạp cả ngày và đêm. Đặc biệt, với sự phát triển vượt trội về tính năng kỹ thuật, chiến thuật và những thay đổi về công nghệ chế tạo của trang bị kỹ thuật thế hệ mới đã mở ra hướng phát triển các phương thức tác chiến mới, kèm theo đó là yêu cầu thay đổi về tổ chức và phương thức bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật của quân đội các nước.

Đối với Quân đội ta, việc đầu tư, đưa vào khai thác, sử dụng ngày càng nhiều trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao, nhất là các quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại đã tác động rất lớn đến công tác tổ chức và phương thức bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị. Để thực hiện tốt công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới, bài viết xin trao đổi một số nội dung chủ yếu sau:
1. Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung tổ chức ngành Kỹ thuật bảo đảm đủ khả năng quản lý, khai thác, làm chủ trang bị kỹ thuật thế hệ mới
Thực tế trang bị kỹ thuật hiện nay làm nảy sinh nhiều vấn đề trong công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật nếu giữ nguyên tổ chức ngành Kỹ thuật Quân đội như trước đây. Đặc biệt, việc phân định chuyên ngành kỹ thuật (yếu tố cơ bản trong tổ chức ngành Kỹ thuật) theo đặc điểm hành chính quân chủng, binh chủng, ngành quân sự sẽ gây ra sự trùng lặp về công nghệ giữa các chuyên ngành (như trang bị tên lửa, rađa, tàu thuyền, điện tử, thu phát,… cùng có ở nhiều quân, binh chủng), dẫn đến tổ chức hệ thống cơ quan và cơ sở kỹ thuật ở cả 3 cấp (chiến lược, chiến dịch và chiến thuật) rất cồng kềnh, phân tán. Bên cạnh đó, trang bị thế hệ mới, hiện đại thuộc các ngành Tham mưu (trang bị thao trường, mô phỏng), Chính trị (trang bị phát thanh, truyền hình, in ấn), Hậu cần (quân nhu, xăng dầu, quân y) không được coi là trang bị kỹ thuật nên không tận dụng được năng lực bảo đảm kỹ thuật của Quân đội. Khắc phục những bất cập này, việc tổ chức các chuyên ngành kỹ thuật theo công nghệ chế tạo của trang bị kỹ thuật là giải pháp cần cân nhắc, bởi đây là phương án mà các nước phát triển đã thực hiện và mang lại những hiệu quả thiết thực, với những ưu điểm nổi trội. Trước hết, phương án này đáp ứng được đặc điểm tích hợp công nghệ tương đương trong trang bị thế hệ mới, không phân biệt trang bị được sử dụng trong tổ chức hành chính nào, từ đó, khắc phục được tình trạng phân tán, trùng lặp về tổ chức. Hai là, tối ưu về nguồn lực đầu tư, tập trung nâng cao khả năng công nghệ cho các cơ sở kỹ thuật có cùng công nghệ để bảo đảm cho trang bị kỹ thuật công nghệ cao. Ba là, các chuyên ngành theo công nghệ chế tạo sẽ hỗ trợ công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật đối với mọi loại trang bị kỹ thuật thế hệ mới có cùng công nghệ, kể cả của các ngành Tham mưu, Chính trị, Hậu cần lâu nay vẫn phụ thuộc vào nhà sản xuất. Song, quan trọng hơn cả, tổ chức chuyên ngành kỹ thuật theo công nghệ chế tạo sẽ đáp ứng nhanh, hiệu quả công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho Quân đội trong chiến tranh công nghệ cao do khả năng tập trung cao khả năng, năng lực về công nghệ của phương án này.

Để tổ chức chuyên ngành kỹ thuật theo công nghệ chế tạo trang bị kỹ thuật, trước hết cần xác định nhóm công nghệ tương đồng để đưa vào cùng một chuyên ngành. Trên cơ sở đó, rà soát, điều chỉnh, xây dựng các cơ quan và cơ sở kỹ thuật chuyên ngành tập trung tại cơ quan kỹ thuật (cơ quan hậu cần - kỹ thuật) của mỗi cấp. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, các cơ quan chuyên ngành kỹ thuật mới sẽ phải gắn kết chặt chẽ với nhiều đầu mối hành chính quân sự (quân chủng, binh chủng, quân khu, quân đoàn) để triển khai các mặt công tác kỹ thuật, nhất là các mặt có liên quan đến hoạt động của cơ quan chỉ huy, như: bảo đảm trang bị, khai thác làm chủ, huấn luyện, sử dụng, động viên trang bị thế hệ mới. Đây là việc “bất khả thi” với tổ chức chuyên ngành kỹ thuật trước đây; vì vậy, cần có sự điều chỉnh, bổ sung một số chức năng, mối quan hệ công tác giữa cơ quan kỹ thuật và cơ quan tham mưu ở các cấp. Cùng với đó, trong tổ chức các chuyên ngành kỹ thuật theo phương án mới, cần xây dựng, phát triển các trung tâm công nghệ cao đầu ngành và chuyên ngành mũi nhọn để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu, khai thác làm chủ các công nghệ đặc trưng trên trang bị kỹ thuật thế hệ mới mà nhà sản xuất không cung cấp tài liệu công nghệ, mã nguồn. Trước mắt, có thể tái cấu trúc và bổ sung các trang, thiết bị công nghệ đối với một số viện, trung tâm nghiên cứu hiện có gắn với bổ sung chức năng, nhiệm vụ để nhanh chóng làm chủ các trang bị kỹ thuật thế hệ mới đã được biên chế trong Quân đội.

2. Đổi mới tư duy tổ chức công nghiệp quốc phòng, tập trung nâng cao tiềm lực kỹ thuật - công nghệ điện tử ở cấp chiến lược nhằm chủ động và từng bước tự chủ trong bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật đối với trang bị kỹ thuật thế hệ mới
Để công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới được thực hiện chủ động, bền vững và hiệu quả lâu dài, cần thiết phải tập trung nâng cao tiềm lực kỹ thuật - công nghệ hiện đại của ngành kỹ thuật ở cấp chiến lược. Thực hiện nội dung này, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, nòng cốt là ngành Kỹ thuật Quân đội và Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo; trong đó, cần đổi mới tư duy tổ chức công nghiệp quốc phòng trong thời kỳ mới với trọng tâm là phát triển mạnh mẽ công nghiệp điện tử làm nền tảng để xây dựng công nghiệp quốc phòng “tự chủ, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại”. Theo đó, về tư duy tổ chức, cần quy hoạch hệ thống nhà máy sản xuất, sửa chữa gắn kết chặt chẽ với hệ thống viện nghiên cứu, hệ thống trung tâm công nghệ cao để thực hiện chủ động và hiệu quả nhiệm vụ khai thác, làm chủ công nghệ, nâng cao năng lực sửa chữa lớn, cũng như cải tiến, thiết kế, chế thử và chế tạo, tiến tới tự lực sản xuất vật tư, trang bị kỹ thuật công nghệ cao bảo đảm đồng bộ. Trước mắt, cần rà soát, cơ cấu lại hệ thống các nhà máy sản xuất, sửa chữa lớn trang bị kỹ thuật hiện có theo nhiệm vụ, ngành nghề và vùng miền. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, quy mô, cơ chế quản lý, đặt hàng và hoạt động phù hợp, bảo đảm tập trung, thống nhất về quản lý nhà nước, song tự chủ về tài chính của các cơ sở; phát huy được vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, hiệu quả của các thành phần kinh tế nhằm phát huy tiềm năng công nghiệp quốc gia và hợp tác quốc tế. Về kỹ thuật - công nghệ, cần tăng cường đầu tư vốn và trang thiết bị công nghệ ngành điện tử cho nhiệm vụ nghiên cứu, khai thác làm chủ, cải tiến, hiện đại hóa và sản xuất vật tư kỹ thuật; hình thành tập đoàn công nghệ điện tử quân sự mạnh, có trình độ tiên tiến và là mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Đây là tiền đề cho phép chủ động, tự chủ trong sản xuất trang bị công nghệ cao trong các năm tiếp theo.

3. Đổi mới phương thức bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới gắn với các yêu cầu tác chiến ở cấp chiến dịch, chiến thuật
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), việc sử dụng vũ khí công nghệ cao sẽ diễn ra phổ biến và đặt ra các yêu cầu cao về tác chiến đồng bộ, khẩn trương, lấy tác chiến mạng làm trung tâm, đòi hỏi công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật ở cấp chiến dịch, chiến thuật phải theo sát và đáp ứng kịp thời. Để đáp ứng yêu cầu đó, cùng với điều chỉnh tổ chức ngành kỹ thuật ở khối các đơn vị cấp chiến dịch, chiến thuật, cần chú trọng đổi mới phương thức quản lý và tổ chức bảo đảm cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới. Đối với công tác bảo đảm trang bị, cần tăng cường vai trò các đầu chuyên ngành kỹ thuật (sau khi điều chỉnh phân định chuyên ngành) và các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao được tham gia trong các dự án mua sắm và sản xuất. Nghiên cứu và từng bước áp dụng phương thức quản lý và bảo đảm cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới theo vòng đời, nhằm chủ động lập kế hoạch và tổ chức bảo đảm ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển trạng thái chiến đấu khi có tình huống. Có thể áp dụng gói bảo trì trọn đời hoặc theo giai đoạn khi mua sắm trang bị đối với một số loại trang bị kỹ thuật có vòng đời không lớn, số lượng không nhiều và công tác bảo đảm ít bị ảnh hưởng trong chiến tranh. Với bảo đảm kỹ thuật cho trang bị cần thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa trang bị theo hướng “lưỡng dụng” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các trung tâm công nghệ cao quốc gia và các cơ sở điện tử trong khu vực phòng thủ. Để đạt hiệu quả cao, cần khảo sát, đánh giá tổng thể các yếu tố, nhất là khả năng ký hợp đồng liên kết cung cấp tài liệu công nghệ, bảo đảm vật tư kỹ thuật, cũng như năng lực bảo đảm kỹ thuật của các đơn vị này. Trên cơ sở đó, nghiên cứu điều chỉnh, phân công, phân cấp bảo đảm theo hướng tăng cường phân cấp sửa chữa lớn thay thế cụm đối với trang bị truyền thống cho cấp chiến dịch và sửa chữa vừa thay thế cụm cho cấp chiến thuật nhằm giúp cấp chiến lược tập trung vào nhiệm vụ sửa chữa lớn trang bị kỹ thuật công nghệ cao và sản xuất vật tư kỹ thuật cấp cho cấp dưới. Đồng thời, tăng cường các loại linh kiện và các tài liệu kỹ thuật công nghệ; đầu tư các thiết bị chẩn đoán kỹ thuật, phát hiện hỏng hóc, các giá thử kiểm tra chức năng, đánh giá chất lượng kỹ thuật,… giúp cơ sở sửa chữa cấp chiến dịch, chiến thuật nhanh chóng quy vùng hỏng hóc, kịp thời khắc phục theo phân cấp.

4. Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật đủ trình độ, năng lực bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới
Bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới là nhiệm vụ hết sức phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật - lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia thực hiện vừa phải có phẩm chất đạo đức tốt, vừa phải có năng lực, trình độ và tác phong công tác “khoa học, cụ thể, tỉ mỉ” đáp ứng tốt yêu cầu bảo đảm theo phân cấp, nhất là những yêu cầu khắt khe trong quy trình bảo dưỡng, sửa chữa. Để làm được điều đó, cùng với làm tốt công tác quy hoạch, cần triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo đội ngũ này theo hướng “chuẩn hóa” về trình độ và theo “tiêu chí” của từng vị trí, chức danh tổ chức chuyên ngành kỹ thuật mới. Muốn vậy, cùng với coi trọng hợp tác, liên kết đào tạo ở nước ngoài các chuyên ngành công nghệ lõi, công nghệ mũi nhọn đặc thù cần phát huy vai trò của hệ thống các học viện, nhà trường có thế mạnh về lĩnh vực công nghệ cao trong và ngoài Quân đội để đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật. Theo đó, cùng với bổ sung, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo kỹ sư quân sự công nghệ cao trong các nhà trường Quân đội, cần tăng cường tổ chức liên kết với các cơ sở đào tạo có thế mạnh về công nghệ cao ngoài Quân đội; trong đó, cần chú trọng nghiên cứu, áp dụng mô hình đào tạo theo nhu cầu có sự “kết hợp tay ba” giữa trường đại học - doanh nghiệp - viện nghiên cứu. Trước mắt, đối với Học viện Kỹ thuật quân sự, cần sớm được giao nhiệm vụ xây dựng Trung tâm Công nghệ cao làm cơ sở nghiên cứu cho đội ngũ giáo viên, cơ sở đào tạo thực hành cho sĩ quan tương lai và đào tạo nhân viên kỹ thuật trình độ đại học liên quan khai thác trang bị công nghệ cao(mô hình này đã và đang được ngành Y tế áp dụng có hiệu quả). Trung tâm công nghệ cao thuộc Học viện có thể được giao nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật cho các loại trang bị kỹ thuật công nghệ cao của các ngành Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Quân y toàn quân; là nơi có đủ điều kiện, cơ sở đồng bộ để đào tạo và xây dựng đội ngũ công trình sư (tổng công trình sư quân sự), cũng như cung cấp lực lượng tham gia vào các dự án chuyển giao công nghệ, mua sắm, sản xuất vật tư kỹ thuật, sản xuất trang bị kỹ thuật công nghệ cao.

Bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật mới trong Quân đội là vấn đề rất quan trọng trong tiến trình xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Việc đề xuất điều chỉnh tổ chức ngành Kỹ thuật, thay đổi phương thức bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho trang bị kỹ thuật thế hệ mới trong điều kiện Quân đội đang thực hiện sáp nhập cơ quan Hậu cần - Kỹ thuật ở cả 3 cấp là những vấn đề lớn, phức tạp cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu kỹ lưỡng, đảm bảo tính khoa học, khả thi, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới./.
Yêu nước ST.

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM!

     Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến!
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử. 
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra có ba thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh. Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, ba cuộc cách mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách mạng đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo (như: Cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo đánh đổ chế độ phong kiến, quý tộc; cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ chế độ tư bản). Ở Việt Nam, do tính quy định của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Để thực hiện được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng (révolution démocratique bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành một trong những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách có cơ sở rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
Gần 90 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, quãng thời gian chưa dài nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện được quả là phi thường. Nếu không phải là một đảng Mác xít-Lêninnít chân chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam thật vĩ đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lãnh tụ của giai cấp, của dân tộc, xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định rõ:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
- Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị-xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng; không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới./.
Theo ĐT ĐCSVN.
Yêu nước ST.

CUỘC ĐỐI ĐẦU LỊCH SỬ GIỮA HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ HẢI QUÂN, KHÔNG QUÂN MỸ!

         Ngày 2/8/1964, tàu khu trục Maddox (Ma-đốc) của Mỹ ngang nhiên vi phạm có hệ thống lãnh hải miền Bắc Việt Nam từ Đèo Ngang (Quảng Bình) ra đảo Hòn Mê (Thanh Hoá). Phân đội 3 tàu phóng lôi của của Tiểu đoàn 135 Hải quân Nhân dân Việt Nam đã được lệnh đánh đuổi tàu Maddox của địch tại khu vực phía đông Hòn Mê trong lãnh hải Việt Nam. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, Hải quân Việt Nam đã dũng cảm, mưu trí tiếp cận bắn bị thương tàu Maddox, buộc địch phải tháo chạy ra khỏi lãnh hải miền Bắc Việt Nam.

Tàu khu trục đa năng Maddox (Ma-đốc) của Mỹ được đóng năm 1942 và hạ thủy năm 1944. Tàu dài 114,75 mét, rộng 12,44 mét, lượng giãn nước 2.200 tấn. Công suất 60.000 mã lực, tốc độ 38 hải lý/giờ. Tàu được trang bị hai ụ pháo 127mm x 2 nòng, 12 pháo 40mm, ngư lôi 5 giàn x 2 quả... Con tàu này đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, và tiếp tục phục vụ sau đó trong Chiến tranh Việt Nam. 

Sau sự kiện ấy, Mỹ phải dựng lên một sự kiện bịa đặt khác rằng: "Đêm 4 tháng 8 năm 1964, các tàu phóng lôi của Hải quân miền Bắc Việt Nam một lần nữa lại vô cớ tấn công tàu khu trục Maddox và Turner Joy của Mỹ đang hoạt động bình thường trên vùng biển quốc tế". Tổng thống Mỹ đã vin vào cớ đó để ngày 5/8/1964 ra lệnh tiến hành Chiến dịch "Mũi tên xuyên", bất ngờ cho 64 lần chiếc máy bay đánh “trả đũa” ồ ạt vào 4 khu vực mục tiêu ven biển miền Bắc Việt Nam là Cảng Gianh (Quảng Bình), Vinh-Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa) và Bãi Cháy (Quảng Ninh) mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn vào miền Bắc Việt Nam. 

Quân và dân miền Bắc với nòng cốt là lực lượng Phòng không của Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân đã dũng cảm, mưu trí giáng trả kịp thời và kiên quyết bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 3 chiếc khác, bắt sống và tiêu diệt nhiều phi công Mỹ. Thất bại đó đã làm cho Lầu Năm góc và chính quyền Mỹ sửng sốt, bàng hoàng, vì trong lịch sử sử dụng không quân của Hoa Kỳ, chưa có trận nào lần đầu bất ngờ ném bom đối phương lại bị bắn rơi nhiều máy bay như vậy. 

Chiến thắng trận đầu của Hải quân Nhân dân Việt Nam trong cuộc đối đầu lịch sử với Hải quân, Không quân Mỹ từ ngày 2-5/8/1964 đã ghi một mốc son lịch sử vào truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.


Yêu nước ST.

NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN QUÊ HƯƠNG HÀ NAM VÀ SỰ KIỆN "PHÚ RIỀNG ĐỎ"!

         “Phú Riềng Đỏ” là một trong những phong trào đấu tranh có tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam nổ ra vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1930. Phong trào do hàng nghìn công nhân đồn điền cao su Phú Riềng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Phú Riềng - Chi bộ cộng sản đầu tiên của miền Đông Nam Bộ. Và trong số những đảng viên đầu tiên của Chi bộ Phú Riềng đã góp phần làm nên sự kiện “Phú Riềng Đỏ” vang danh lịch sử đó là một chiến sĩ cộng sản ưu tú quê hương Hà Nam - Đồng chí Trần Tử Bình!

Sinh ra trong một gia đình công giáo nghèo nơi xứ đạo Tiêu Thượng (Tiêu Động, Bình Lục), ngay từ nhỏ, cậu bé Phạm Văn Phu (tên thật của đồng chí Trần Tử Bình) đã thể hiện rất rõ tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ. Bởi thế nên khi theo học ở Chủng viện Hoàng Nguyên (giáo phận Hà Đông), giáo sinh Phạm Văn Phu rất tích cực tham gia phong trào yêu nước, vận động anh chị em giáo sinh để tang cụ Phan Chu Trinh. Vì sự kiện này nên cuối năm 1926, giáo sinh Phạm Văn Phu bị Chủng viện Hoàng Nguyên buộc thôi học. Năm 1927, được Tống Văn Trân (một nhà giáo, nhà cách mạng quê Ý Yên, Nam Định) giác ngộ, người thanh niên trẻ tuổi Phạm Văn Phu đã quyết định vào Nam Bộ làm phu Đồn điền cao su Phú Riềng.

Trực tiếp chứng kiến sự hà khắc, bất công của chế độ làm phu đồn điền cao su, sẵn có tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ, công nhân Phạm Văn Phu cùng lớp công nhân đầu tiên ở Phú Riềng đã vùng lên đấu tranh. Giai đoạn 1927 - 1929, công nhân Đồn điền cao su Phú Riềng đã tổ chức ba cuộc đấu tranh với những yêu sách thiết thực đòi quyền lợi, tuy nhiên các phong trào đều diễn ra nhỏ lẻ, tự phát, không có đường lối, phương pháp đúng đắn nên đều thất bại. Cũng trong thời gian này, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập (tại Quảng Châu, Trung Quốc) đã huấn luyện 75 học viên với chủ trương vô sản hóa. Đồng chí Ngô Gia Tự (một trong 75 học viên ấy) được cử về nước, trực tiếp chỉ đạo gây dựng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Phú Riềng, Nhà máy đóng tàu Ba Son, Mỹ Tho (Tiền Giang).

Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (Hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Kỳ bộ Bắc kỳ) đã bắt mối và cùng đồng chí Trần Tử Bình xây dựng phong trào đấu tranh có tổ chức đầu tiên ở Đồn điền Cao su Phú Riềng. Chỉ trong thời gian ngắn, hai đồng chí đã xây dựng thành công Nghiệp đoàn Cao su với sự tham gia của hàng nghìn công nhân. Từ khi ra đời, nghiệp đoàn đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ (tăng lương, giảm giờ làm; cấm đánh đập, cúp lương; bồi thường tai nạn; trả lương cho phụ nữ sinh con…).

Ngày 28/10/1929, Chi bộ Cao su Phú Riềng được thành lập. Đồng chí Nguyễn Xuân Cừ được bầu làm bí thư, đồng chí Trần Tử Bình được phân công phụ trách tổ chức thanh niên. Đây là Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở vùng miền Đông Nam Bộ, chi bộ đầu tiên của ngành Cao su Việt Nam. Sau khi thành lập, Chi bộ Cao su Phú Riềng đã tuyên truyền, vận động, hướng dẫn quần chúng đấu tranh có tổ chức (trước khi bãi công phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm, hội họp, phân công cụ thể…). Cuối năm 1929, đồng chí Trần Tử Bình được đề cử làm bí thư chi bộ (thay đồng chí Nguyễn Xuân Cừ chuyển ra Bắc) tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp và hiệu quả. Thời điểm đó, phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước diễn ra vô cùng sôi nổi, trở thành động cơ thúc giục đồng chí Trần Tử Bình cùng những người cộng sản ở Phú Riềng thêm tự tin chuẩn bị lực lượng, vũ khí sẵn sàng cho cuộc đấu tranh quan trọng.

Cuộc đấu tranh mang tên “Phú Riềng Đỏ” diễn ra ngày 30/1/1930 (đúng mùng một Tết Canh Ngọ) bằng cuộc biểu tình thị uy dưới hình thức “chúc Tết chủ đồn điền” với sự tham gia của hàng nghìn công nhân đòi yêu sách và tuyên bố bãi công sau 3 ngày nghỉ Tết nếu yêu sách không được giải quyết. Đúng như kế hoạch đã định, ngày 3/2/1930 (mùng năm Tết), hơn 5 nghìn công nhân cao su Phú Riềng đã thực hiện cuộc tổng bãi công lớn chưa từng có. Bọn chủ đồn điền ra lệnh thẳng tay đàn áp, nhưng những người công nhân vẫn vững vàng đội ngũ.

Ngày 4/2/1930 (mùng sáu Tết), bất chấp bị đàn áp, hàng nghìn công nhân cao su dưới sự lãnh đạo của Chi bộ và Nghiệp đoàn cao su Phú Riềng đã đấu tranh quyết liệt, khiến chủ đồn điền và bọn cai khiếp sợ, bỏ chạy. Lực lượng công nhân bắt sống 5 tên, thu 7 súng, trang bị cho đội xích vệ và hiên ngang tiến thẳng vào dinh chủ đồn điền, buộc chúng phải điều đình, chấp nhận ký biên bản cam kết thực hiện yêu sách của công nhân. Sự kiện “Phú Riềng Đỏ” đã gây rúng động dư luận trong nước cũng như dư luận nhân dân tiến bộ Pháp, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân.

Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, Công hội đỏ đã tổ chức bãi công lớn, quy tụ hàng nghìn công nhân tham gia với những yêu sách kinh tế kết hợp với chính trị, buộc chủ tư bản thực dân Pháp phải ký vào biên bản. Sự kiện “Phú Riềng Đỏ” cũng giúp cho các tổ chức đảng lúc đó rút ra bài học kinh nghiệm quý, đó là tổ chức cuộc đấu tranh đúng thời điểm, thời cơ, để vừa giành thắng lợi, vừa bảo toàn lực lượng cách mạng. Tiếng vang của sự kiện “Phú Riềng Đỏ” đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lên một bước phát triển mới.

Sau sự kiện “Phú Riềng Đỏ”, đồng chí Trần Tử Bình bị địch bắt, kết án và đày ra nhà tù Côn Đảo. Thời kỳ bị Pháp giam cầm tại Côn Đảo, đồng chí tiếp tục học tập lý luận cách mạng, đồng thời tích cực bắt mối với các nhà cách mạng cộng sản: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp... Năm 1936, do ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền thực dân phải thả tự do và quản thúc đồng chí ở quê. Trở về Hà Nam, làm thầy ký ở phố huyện Bình Lục, đồng chí Trần Tử Bình tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng. Cuối năm 1939, đồng chí nhận bàn giao phong trào cách mạng Hà Nam trong bối cảnh hết sức khó khăn.

Tại Hội nghị Tỉnh ủy Hà Nam mở rộng (ở Cổ Viễn, Hưng Công, Bình Lục), đồng chí Trần Tử Bình được bầu là Bí thư Tỉnh ủy. Trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đồng chí có những đóng góp quan trọng cho phong trào cách mạng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, được Trung ương bầu vào Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp phụ trách: Liên tỉnh C (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) năm 1940, 1943; Liên tỉnh D (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang) năm 1941. Ngày 24/12/1943, đồng chí bị địch bắt ở Thái Bình, đưa về Hà Nam giam giữ; đầu năm 1944 bị chuyển về nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Tại đây đồng chí Trần Tử Bình được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt để tổ chức các hoạt động công khai của tù chính trị. Ngày 11/3/1945, đồng chí Trần Tử Bình đã tổ chức cuộc vượt ngục cho 100 tù chính trị, cung cấp nguồn cán bộ quan trọng chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp đó, đồng chí được Đảng phân công chỉ đạo xây dựng chiến khu Quang Trung (giáp ranh 3 tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa).

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, với tư cách Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Trần Tử Bình trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19/8/1945) và một số tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 9/1945, đồng chí được giao nhiệm vụ Phó Giám đốc, Chính trị viên Trường Quân chính Việt Nam. Tháng 5/1946, đồng chí nhận nhiệm vụ Phó Giám đốc, Chính ủy Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Năm 1947, đồng chí được đề bạt làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Trưởng phòng Kiểm tra cán bộ chính trị cục. Cuối năm 1947, đồng chí tham gia chỉ huy Chiến dịch Sông Lô thắng lợi. Từ năm 1950 đến năm 1956, đồng chí là Chính ủy Trường Lục quân Việt Nam (trên đất Trung Quốc). Giai đoạn 1956-1958, đồng chí được giao trọng trách Tổng Thanh tra Quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam. Năm 1959, đồng chí được bổ nhiệm: Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kiêm Đại sứ tại Mông Cổ, góp phần tăng cường quan hệ và tranh thủ sự giúp đỡ của nước bạn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ngày 11/2/1967, đồng chí Trần Tử Bình đột ngột từ trần, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng chí, bạn bè...

Ghi nhận, tôn vinh công lao to lớn của đồng chí Trần Tử Bình, Đảng, Nhà nước đã trao tặng, truy tặng đồng chí: Huân chương Quân công; Huân chương Độc lập, Huân chương Sao vàng-danh hiệu cao quý nhất của Đảng, Nhà nước ta. Tại Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Thủ Dầu Một (Bình Dương), thành phố Phủ Lý, huyện lỵ Bình Lục… có những con đường mang tên đồng chí Trần Tử Bình. Trên quê hương Tiêu Động, Bình Lục, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân địa phương thành kính xây dựng công trình Nhà lưu niệm để tri ân bậc tiền bối cách mạng của Đảng, người con ưu tú của quê hương Hà Nam./.
Theo báo Hà Nam.
Yêu nước ST.

NHÌN THẲNG - NÓI THẬT: LOẠI BỎ TƯ TƯỞNG YẾM THẾ TRONG VĂN NGHỆ!

     Dù không phải là một người sáng tác văn học-nghệ thuật (VHNT) chuyên nghiệp song Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng am hiểu về đặc điểm, quy luật vận động và phát triển của VHNT!

Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (25-7-1948 / 25-7-2023), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị đội ngũ văn nghệ sĩ cần thường xuyên học hỏi, đúc rút những bài học tốt từ các thế hệ đi trước.

Đồng chí nhấn mạnh: “Bài học đó phải chăng vẫn là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn phong phú, sôi động của cuộc sống nhân dân, chứ không phải chỉ sa vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ chỉ đơn giản như là một thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một sự đam mê tầm thường”. 

Những lời tâm huyết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuất phát từ thực trạng một bộ phận văn nghệ sĩ xa rời hiện thực đất nước, phớt lờ thực tiễn tươi ròng, vô cảm trước số phận con người; thay vào đó, đi sâu vào góc khuất, dục vọng tầm thường của cá nhân, mặt trái của xã hội. Trong triết học, người ta gọi đó là “tư tưởng yếm thế”, nghĩa là hoài nghi giá trị tốt đẹp của con người, thờ ơ trước những vấn đề thiết thân của cộng đồng, nhu cầu thưởng thức, tiếp nhận của nhân dân.

Thông thường, văn nghệ sĩ hiểu biết sâu sắc và có cảm hứng mãnh liệt với đề tài quen thuộc sẽ sáng tác “đều tay” hơn. Điều quan trọng là đằng sau đề tài phản ánh nội dung ra sao, ý nghĩa ẩn giấu là gì? Khi bước chân vào sáng tạo, có văn nghệ sĩ vẫn chưa đề cao trách nhiệm công dân, trong khi lại để cái tôi chi phối quá đà, vỗ ngực tự xem VHNT chỉ là cuộc chơi cá nhân. 

Lấy ví dụ, nhiều tác phẩm VHNT xây dựng nhân vật trẻ tuổi, đẹp về ngoại hình nhưng nổi loạn, phá phách, vô trách nhiệm... để thể hiện điều gì? Người trẻ tuổi tâm lý phức tạp, phạm sai lầm trong cuộc sống cũng dễ thông cảm; sau tất cả, tại sao văn nghệ sĩ không tìm đến những cái kết có hậu để hình thành suy nghĩ tích cực, lối sống đẹp? Chỉ có thể giải thích bởi say sưa với tư tưởng yếm thế, nhiều văn nghệ sĩ mới bất chấp tất cả để đưa những điều tiêu cực vào tác phẩm, gây ảnh hưởng độc hại đến giới trẻ.

Một biểu hiện khác của tư tưởng yếm thế trong VHNT ngày nay chính là sùng bái hình thức, tôn thờ kỹ thuật thái quá. Tác phẩm bề ngoài có vẻ mới lạ nhưng rốt cuộc không đọng lại tín điều sâu sắc trong trái tim công chúng, không giúp ích cho cuộc đời. Đành rằng, kỹ thuật hay thủ pháp nghệ thuật trong văn nghệ là điều quan trọng, nhằm đổi mới sáng tạo, tránh khuôn sáo, lối mòn, nhạt nhẽo, nhưng kỹ thuật nào thì phải đi liền với nội dung đó; phù hợp với trình độ nhận thức, mỹ cảm của công chúng.

Nếu quá đà sẽ hóa thành xa lạ, trở thành kỹ xảo lòe bịp công chúng, rơi vào tình trạng “một mình mình biết, một mình mình hay”. Tác phẩm vì thế khó lan tỏa trong cộng đồng, không được tiếp nhận theo hướng “đồng sáng tạo”, khai mở ý nghĩa mới, từ đó rơi vào tối tăm, hũ nút. Điều đáng phê phán là khi tác phẩm VHNT không nhận được sự phản hồi, hưởng ứng tích cực của công chúng, không ít văn nghệ sĩ lại cho rằng do tác phẩm của mình cao siêu và trình độ dân trí chưa đủ để thưởng thức (!).  

Ngày nay, có nhiều khuynh hướng sáng tác, nhiều con đường để văn nghệ sĩ trải nghiệm và thử nghiệm, nhưng dù sáng tác như thế nào đi nữa, cũng cần đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Tác phẩm có sức sống trường tồn là khi được công chúng nhắc nhớ, bởi gắn chặt với những mối quan tâm của quần chúng. Càng đọc, càng ngẫm, càng thấy những lời nhắn gửi tâm huyết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thật sâu sắc, thấm thía; thực sự là kim chỉ nam cho hoạt động sáng tác văn nghệ trong tương lai, với khát vọng có tác phẩm lớn xứng tầm hiện thực lớn lao của dân tộc, đất nước./.
Yêu nước ST.

VỮNG TIN VÀO CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG KHÔNG NGỪNG NGHỈ!

     Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra đi, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế!

Trao đổi với Báo Giao thông, PGS. TS Lê Quốc Lý, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chia sẻ, Tổng Bí thư để lại di sản quý báu trên nhiều lĩnh vực, trong đó đặc biệt là một tinh thần đoàn kết lớn lao của nhân dân, vững tin vào cuộc chiến chống tham nhũng tiêu cực không ngừng, không nghỉ.

Sống mãi trong lòng nhân dân
Trong hai ngày Quốc tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều những câu chuyện, hình ảnh xúc động, thể hiện tình cảm của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đối với nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của đất nước. Ông cảm nhận điều đó thế nào?

Trong lễ Quốc tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, dòng người xếp hàng dài vài km chờ từ sáng sớm đến tối muộn để được vào viếng. Người người tràn ra đường giữa thời tiết nắng nóng để chờ tiễn biệt khi linh xa đưa di hài ông qua các tuyến phố.

Dòng người đổ về lễ tang rất đông trong trật tự. Họ chia sẻ cho nhau từ cái quạt cầm tay, chai nước lọc, chiếc bánh mì… Người dân bày tỏ lòng tôn kính, biết ơn, ngưỡng mộ khi họ tạc tượng, vẽ tranh, làm thơ, viết nhạc… về Tổng Bí thư.

Những hình ảnh, câu chuyện xúc động đã cho thấy lòng dân kính trọng, yêu quý và ghi nhận công lao to lớn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như thế nào. Đó là tình cảm đặc biệt của nhân dân dành cho một người lãnh đạo giản dị, nhưng vĩ đại. Ông ra đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng nhân dân.

Chúng ta thấy một tinh thần đoàn kết lớn lao của nhân dân trong lễ Quốc tang. Sức mạnh dân tộc vẫn tồn tại bền bỉ, âm thầm và hiện hữu trong mọi người dân. Để khi khơi dậy và phát huy nó một cách đúng đắn, phù hợp và chính nghĩa, không một thế lực nào có thể đe dọa, làm nao núng tinh thần con người Việt Nam.

Chống tham nhũng từ sớm, từ xa
Trong gần ba nhiệm kỳ giữ cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại nhiều di sản trên nhiều lĩnh vực. Ông ấn tượng và tâm đắc với nội dung nào?

Đó là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trung ương dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ban hành rất nhiều chỉ thị, quy định, nghị quyết liên quan đến những nội dung này.

Luôn đau đáu, trăn trở với công tác này, Tổng Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, với nhiều quan điểm, chủ trương hết sức quan trọng, có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn, nhân ái, đầy sức thuyết phục.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, nghiêm minh nhưng rất nhân văn của Tổng Bí thư, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành rất quyết liệt, bài bản, toàn diện, đi vào chiều sâu, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, để lại dấu ấn sâu đậm.

Những thành công trong phòng chống tham nhũng trong thời gian vừa qua đã mở ra một chương mới cho sự nghiệp xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh, nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phải chăng, vấn đề căn cơ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên?

Tổng Bí thư từng nói "nếu bản lĩnh chính trị tốt, không bị lôi kéo thì làm gì tham nhũng, nếu đạo đức trong sáng, giữ gìn liêm sỉ thì cần gì tham nhũng". Chính vì thế, gốc của tham nhũng chính là suy thoái đạo đức, lối sống.

Phòng chống tham nhũng cũng như là trị bệnh cho cơ thể, khi ta bắt được bệnh sẽ có phác đồ điều trị phù hợp và hiệu quả.

Bên cạnh chống thì phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực cần phải nêu cao hơn nữa. Tôi cho rằng, ở Đại hội lần XIV lần này, Đảng cần thanh lọc ngay từ đầu những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đây cũng là cách để chúng ta phòng ngừa từ sớm, từ xa.

Để thực hiện được điều này, cần có nhiều công cụ để thực hiện, từ thanh tra, kiểm tra. Cùng với đó là dựa vào sự giám sát của nhân dân.

Xử lý nghiêm nhưng rất nhân văn
Tổng Bí thư khẳng định: Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để trị bệnh cứu người, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính. Quan điểm này có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện nay, thưa ông?

Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên quyết xử lý nghiêm khắc những hành vi tham nhũng, tiêu cực, nhưng phải có lý, có tình, nhân văn, nhân ái, với nguyên tắc: Mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở bất cứ cương vị công tác nào sai phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.

Không chỉ xử nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, mà còn xử nghiêm cả những người dung túng, bao che, tiếp tay. 

Việc xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, nhưng vì sự nghiệp chung, thượng tôn pháp luật, uy tín của Đảng, chúng ta phải kiên quyết làm.

Quan điểm "xử lý tham nhũng, tiêu cực là để trị bệnh cứu người, kỷ luật một vài người để cứu muôn người" của Tổng Bí thư rất đúng và trúng. Giống như cái nhà bị mối mọt vài cái rui, mè nếu không được thay thì chắc chắn sẽ lây lan sang các bộ phận cột, kèo, từ đó sẽ có nguy cơ bị sập.

Việc loại bỏ những kẻ tham nhũng, tiêu cực này không chỉ mang ý nghĩa loại trừ "sâu bệnh" mà còn có tác dụng phòng tránh lây lan, cảnh tỉnh, răn đe những kẻ có ý định nhúng chàm. Những người chưa nhúng chàm cũng sẽ lấy đó làm gương.

Tổng bí thư luôn yêu cầu việc xử lý phải nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn: Phải phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng.

Đây là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực của Tổng Bí thư, được các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, tạo bước đột phá mới, là dấu ấn nổi bật trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua.

Điều đó đã giúp lấy lại niềm tin của nhân dân, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng Bí thư chỉ đạo: Phải xây dựng cho được cơ chế phòng ngừa, răn đe, xử lý, đảm bảo chặt chẽ để "không thể", "không dám" "không muốn", "không cần" tham nhũng, tiêu cực. Để thực hiện có hiệu quả phương châm "bốn không", các quy định hiện nay đã đầy đủ hay chưa, cần bổ sung những gì, thưa ông?

Hiện đã có nhiều quy định pháp luật cụ thể hóa chủ trương của Đảng trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Nhưng để làm tốt hơn nữa, cần cụ thể hóa những quy định này hơn.

Thứ nhất, phải dứt khoát loại bỏ những phần tử cơ hội, lợi ích nhóm, tiêu cực, tham nhũng ra khỏi bộ máy.

Thứ hai, những kẻ tham nhũng cần phải bị tịch thu toàn bộ tài sản, triệt tiêu tư tưởng "hy sinh đời bố củng cố đời con".

Thứ ba, đề cao danh dự của cán bộ, đảng viên, để những kẻ nhúng chàm không còn có thể "ngẩng mặt" đối diện với xã hội nữa. Ở các nước như Singapore, Hàn Quốc, những kẻ bị kết tội tham nhũng bị xã hội chỉ trích, lên án rất nặng nề.

Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ tiền lương phù hợp để cán bộ, đảng viên có cuộc sống ổn định, giúp họ yên tâm công tác, cống hiến.

Truyền cảm hứng mạnh mẽ
Theo ông, cuộc đời liêm chính, tấm gương đạo đức của Tổng Bí thư đã tạo nguồn cảm hứng thế nào đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như người dân, để từ đó đóng góp vào sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước?

Những kết quả trong phòng chống tham nhũng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thời gian qua đã truyền cảm hứng không chỉ trong cán bộ, đảng viên mà còn trong nhân dân. Đấu tranh phòng chống tham nhũng giờ đã trở thành phong trào, thành xu thế. Không cán bộ đảng, đảng viên, tổ chức đảng nào có thể nằm ngoài xu thế đó.

Phòng chống tham nhũng, tiêu cực giờ đây cũng đã huy động được sức mạnh của nhân dân. Không ít vụ được phanh phui, xử lý là do nhân dân tìm ra. Phong trào này giờ đây đã không còn "trên nóng, dưới lạnh", không còn chuyện "tắm từ vai xuống" mà đã lan tỏa khắp các cấp, các ngành.

Sinh thời, Tổng Bí thư luôn nhấn mạnh và coi trọng danh dự của người cán bộ đảng viên. Ông thường xuyên nhắc nhở: "Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất", "Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ. Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu…". 

Đó là triết lý sống rất ý nghĩa. Tấm gương đạo đức, giản dị của ông sẽ còn được nhắc tới mãi.

Theo ông, di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cần được tiếp tục phát huy như thế nào thời gian tới?

Đây không phải lần đầu tiên chúng ta thực hiện xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mà ngay từ khi mới hình thành, công việc này đã được Đảng ta chú trọng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc chiến chống tham nhũng đang cần một thủ lĩnh phất cờ thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xuất hiện, hội tụ đủ trí tuệ anh minh, dũng khí để giương cao ngọn cờ đó. Những tư tưởng, quan điểm của Tổng Bí thư mãi mãi là "kim chỉ nam" cho hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. 

Vì thế, những tư tưởng, quan điểm đó cần được tiếp tục quán triệt sâu sắc, phát huy mạnh mẽ để trở thành quyết tâm chính trị và hành động thực tế của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng./.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ QUỐC PHÒNG TRẢ LỜI VIỆC CỐ Ý XĂM MÌNH ĐỂ TRỐN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ!

     Ghi nhận việc thanh niên cố ý xăm mình để tránh nghĩa vụ quân sự, Bộ Quốc phòng cho biết sẽ nghiên cứu sửa nghị định để ngăn chặn tình trạng này!
Bộ Quốc phòng vừa trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Tây Ninh liên quan đến việc tuyển chọn nghĩa vụ quân sự với công dân có hình xăm.

Trong kiến nghị, cử tri cho biết Bộ Quốc phòng quy định công dân có hình xăm, chữ xăm trên cơ thể thì không được gọi nhập ngũ. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp thanh niên lợi dụng, cố tình xăm hình tại những bộ phận trên cơ thể để không phải đi nghĩa vụ quân sự.

Cử tri kiến nghị Bộ Quốc phòng xem xét giải pháp chống lợi dụng việc xăm hình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời bảo đảm nguồn chất lượng công dân nhập ngũ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trả lời cử tri, Bộ Quốc phòng cho biết quy định về hình xăm, chữ xăm khi tuyển chọn công dân nhập ngũ được quy định tại Thông tư liên tịch số 50/2016/TTLT-BQP-BCA ngày 15/4/2016. Thông tư nêu rõ không tuyển chọn vào phục vụ trong quân đội những trường hợp sau: 

"Trên cơ thể có hình xăm, chữ xăm có nội dung chống đối chế độ, chia rẽ dân tộc, mang tính kinh dị, kỳ quái, kích động tình dục, bạo lực. Hình xăm, chữ xăm gây phản cảm ở vị trí lộ diện, như: Mặt, đầu, cổ; từ 1/2 cánh tay trên trở xuống, từ 1/3 dưới đùi trở xuống. Hình xăm, chữ xăm chiếm diện tích từ 1/2 lưng, ngực, bụng trở lên".

Công dân có hình xăm không thuộc nội dung nêu trên hoặc chủ động tẩy xóa hình xăm thì vẫn được xem xét gọi nhập ngũ.

Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng cũng ghi nhận một số công dân đã lợi dụng quy định trên, cố tình xăm hình, xăm chữ lên cơ thể trước thời điểm khám tuyển (hoặc sau khi sơ tuyển biết đủ tiêu chuẩn gọi nhập ngũ) nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự, gây dư luận bất bình.

Để ngăn chặn các hành vi lợi dụng, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, Bộ Quốc phòng đã có Công văn 4142/BQP-TM ngày 5/11/2020 về việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2020.

Hàng năm, Bộ cũng chỉ đạo Cục Bảo vệ an ninh Quân đội hướng dẫn chi tiết cụ thể về hình xăm, chữ xăm khi tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, góp phần hạn chế hành vi lợi dụng hình xăm, chữ xăm trên cơ thể để trốn tránh nghĩa vụ quân sự.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Quốc phòng cho biết sẽ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các chính sách, đề xuất sửa đổi nghị định, thông tư liên quan vào thời điểm phù hợp để pháp luật về nghĩa vụ quân sự được thực hiện hiệu quả, thiết thực và nghiêm minh./.
Yêu nước ST.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Trước hết, cần phải nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc xây dựng thế

trận lòng dân trên không gian mạng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các hoạt động

tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn cho nhân dân về cách thức hoạt động trên mạng, từ đó giúp

cho họ có thể tránh được những thông tin sai lệch, tin giả, đồng thời có thể đóng góp vào việc

bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và nhà nước. Một số giải pháp cụ thể có thể xem xét vận

dụng như sau:

Cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác: Để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng

của việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng, chính phủ và các tổ chức có liên quan

cần cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về các mối đe dọa an ninh mạng, những hậu quả có

thể xảy ra nếu không xây dựng được thế trận lòng dân trên không gian mạng.

Tổ chức các cuộc tập huấn, đào tạo: Chính phủ và các tổ chức có liên quan nên tổ chức các cuộc

tập huấn, đào tạo về an ninh mạng và xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cho cộng

đồng, nhất là các đối tượng trẻ tuổi và người dân nông thôn.

Sử dụng mạng xã hội, các kênh truyền thông: Sử dụng mạng xã hội và các kênh truyền thông là

một cách hiệu quả để truyền tải thông điệp về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận lòng

dân trên không gian mạng.

Tăng cường hợp tác với các tổ chức phi chính phủ: Các tổ chức phi chính phủ có vai trò quan

trọng trong việc nâng cao nhận thức của nhân dân về vấn đề an ninh mạng. Chính phủ cần tăng

cường hợp tác với các tổ chức này để tạo ra các chiến dịch thông tin hiệu quả và lan tỏa thông

điệp đến cộng đồng.

Xây dựng các chương trình giáo dục: Tạo ra các chương trình giáo dục về an ninh mạng và xây

dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cho học sinh và sinh viên là một trong những giải

pháp hiệu quả để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận

lòng dân trên không gian mạng.

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền: Các hoạt động tuyên truyền như cuộc thi, triển lãm hoặc các

sự kiện có liên quan đến an ninh mạng và xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng có

thể được tổ chức để thu hút sự chú ý của cộng đồng và nâng cao nhận thức của họ.

Tăng cường công tác quản lý và giám sát: Tăng cường công tác quản lý và giám sát các hoạt

động trên mạng cũng là một giải pháp quan trọng để xây dựng thế trận lòng dân trên không gian

mạng. Chính phủ và các tổ chức có liên quan cần tăng cường công tác giám sát, đánh giá và xử

lý các hành vi vi phạm pháp luật trên mạng.

XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG LÀ MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT

 Trong bối cảnh không gian mạng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, việc xây dựng thế

trận lòng dân trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

trở nên cực kỳ cần thiết. Điều này giúp đảm bảo sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng và nhà

nước, đồng thời giúp củng cố nền tảng tư tưởng, vững chắc nhất là trong bối cảnh thế giới đang

đối diện với rất nhiều thách thức mới trong thời đại số hóa và công nghiệp hóa.Trên môi trường

internet, trong đó có mạng xã hội, mỗi tài khoản của công dân Việt Nam là một phần trong thế

trận quốc phòng trên không gian mạng. Mỗi tài khoản phát huy tác dụng tốt sẽ là một chiến sĩ,

một đơn vị chiến đấu trên không gian mạng. Sự bố trí các tài khoản, hệ thống kênh truyền thông

trên không gian mạng tương đương với việc xây dựng khu vực phòng thủ trên không gian mạng.

Mỗi bài viết tuyên truyền, đấu tranh phản bác như những viên đạn bắn vào kẻ thù, vào các thế

lực thù địch.

Ngoài ra, xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cũng giúp cho Đảng và Nhà nước

kiểm soát tốt hơn các thông tin trên mạng, giảm thiểu được các thông tin sai lệch, đồng thời cũng

giúp cho nhân dân có thể tiếp cận với những thông tin đúng đắn, hữu ích. Điều này đóng góp

quan trọng vào việc nâng cao kiến thức, giáo dục và truyền thông cho nhân dân, từ đó củng cố

nền tảng tư tưởng, hệ thống giá trị, nền văn hóa của đất nước.

Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của

Đảng và nhà nước trong thời đại công nghệ số. Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng

có các vai trò và tầm quan trọng như sau:

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng: Thế trận lòng dân trên không gian mạng là một phần của

công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp đảm bảo ý thức, tư tưởng

của nhân dân được vững chắc, gắn kết với chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cách mạng.

Đảm bảo an ninh quốc gia: Thế trận lòng dân trên không gian mạng còn giúp đảm bảo an ninh

quốc gia, tránh các hoạt động xâm phạm, tấn công vào cơ sở hạ tầng mạng và đảm bảo an toàn

thông tin quốc gia.

Xây dựng một môi trường mạng lành mạnh: Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng

cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một môi trường mạng lành mạnh, giảm thiểu

các hành vi lừa đảo, giả mạo, phân biệt chủng tộc, tôn giáo trên mạng.

Nâng cao năng lực quản lý mạng: Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cũng là cách

để nâng cao năng lực quản lý mạng của chính quyền và các cơ quan chức năng, giúp họ có thể

đối phó với các tình huống nguy hiểm và xử lý các vấn đề mạng nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế số: Thế trận lòng dân trên không gian mạng còn giúp tạo môi

trường thuận lợi cho phát triển kinh tế số, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị

trường toàn cầu và nâng cao sức cạnh tranh.

NHỮNG MỐI NGUY HIỂM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Hiện nay, không gian mạng đang phát triển với tốc độ chóng mặt, có sự tham gia của rất nhiều

người dùng trên toàn thế giới. Cùng với đó, có rất nhiều nội dung, thông tin được đăng tải lên

mạng, từ các trang web, blog, diễn đàn, mạng xã hội, v.v. Tuy nhiên, không phải tất cả các thông

tin đó đều mang tính chất tích cực và đúng đắn. Ngược lại, có rất nhiều thông tin sai lệch, thậm

chí là hoàn toàn sai sự thật, với mục đích lôi kéo, dụ dỗ, hoặc gây chia rẽ trong xã hội.Các cuộc

tấn công mạng của các nhóm tội phạm cũng đang trở thành mối đe dọa ngày càng lớn đối với các

tổ chức và doanh nghiệp trên toàn thế giới. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2017, cuộc tấn công

Ransomware WannaCry đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho hàng nghìn cơ quan, tổ chức

trên khắp thế giới, bao gồm cả các cơ quan chính phủ và các tổ chức giáo dục, y tế.

Trên không gian mạng, thông tin và tin tức có thể được chia sẻ một cách rất nhanh chóng. Tuy

nhiên, điều đó cũng có thể dẫn đến sự lan truyền nhanh chóng của thông tin sai lệch và tin tức

giả, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người đọc. Ví dụ, trong thời gian đại dịch Covid-19,

đã có nhiều thông tin sai lệch và tin tức giả được chia sẻ trên mạng xã hội, gây ra sự hoang mang

và lo ngại cho người dân. Không gian mạng ở Việt Nam đang phát triển rất nhanh, đặc biệt là

trong lĩnh vực thương mại điện tử, dịch vụ trực tuyến và mạng xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó là các vấn đề an ninh mạng đang trở nên phức tạp hơn, gây

ra nhiều mối đe dọa và rủi ro cho an ninh quốc gia, an toàn thông tin và quyền lợi của người

dân.Một trong những diễn biến chính trên không gian mạng ở Việt Nam hiện nay là tình trạng

tấn công mạng. Các cuộc tấn công mạng có thể đến từ các hacker chuyên nghiệp, các nhóm tội

phạm mạng, hoặc thậm chí là các quốc gia khác. Những cuộc tấn công này có thể nhằm vào các

cơ quan chính phủ, các công ty lớn, ngân hàng, trang thông tin điện tử, hoặc thậm chí là các cá

nhân. Mục đích của những cuộc tấn công mạng này thường là để đánh cắp thông tin, phá hoại hệ

thống, hoặc gây ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của các tổ chức, cơ quan hay cá nhân bị tấn

công.

Ngoài ra, việc lợi dụng không gian mạng để phát tán các thông tin sai lệch, tin giả, thông tin

phản động, hay các hình thức tác động thông tin khác đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Các

tác động này có thể làm mất niềm tin của người dân vào Đảng và Chính phủ, và dẫn đến các rủi

ro xã hội khác. Đã có việc sử dụng các tài khoản giả mạo để tung ra các thông tin sai lệch, phản

động về các vấn đề nhạy cảm như chủ quyền biển đảo, biên giới... Các tài khoản giả mạo thường

được tạo ra với tên, hình ảnh và thông tin cá nhân của người dân thật nhằm gây sự tin tưởng của

người đọc.

Từ đó, các tin tức, bài viết, hoặc những phát ngôn thiếu chính xác, thiếu căn cứ được đăng tải

trên các trang mạng xã hội, trang web tin tức hoặc diễn đàn để gây sự chú ý của người dùng

mạng. Một số trường hợp, các tài khoản giả mạo còn được sử dụng để tạo ra các cuộc trò

chuyện, thảo luận giả tạo nhằm gây ảnh hưởng đến quan điểm của người đọc hoặc đưa ra những

ý kiến không có căn cứ để xuyên tạc, bôi nhọ những cá nhân, tổ chức, đảng phái cụ thể. Các hoạt

động này không chỉ ảnh hưởng đến ý thức cộng đồng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và

Nhà nước Việt Nam.

CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

 Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và internet như hiện nay, đã tạo ra môi

trường không gian mạng rộng lớn, tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch đang lợi dụng triệt để môi trường không gian mạng để

chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta . Đứng trước tình hình đó, ngày 25/7/2018, Bộ Chính

trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian

mạng. Bên cạnh phải xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân truyền thống, cần thiết và

đặc biệt quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng trên không gian mạng, bao gồm chính sách,

pháp luật quản lý hoạt động trên không gian mạng; các bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng

và bố trí các hạ tầng, dịch vụ, tài khoản trên không gian mạng.

Ngày 10/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc

gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030 theo

Quyết định số 964/QĐ-TTg. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và mạng

internet, không gian mạng đã trở thành một môi trường rất quan trọng cho hoạt động tình báo,

phản gián và tấn công gián điệp. Việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng giúp bảo

vệ an ninh quốc gia, đảm bảo an toàn thông tin, tránh các hoạt động phá hoại, tấn công mạng và

bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng.Trên không gian mạng, "thế trận lòng dân" bao gồm

việc xây dựng một mối quan hệ tốt giữa Đảng, chính phủ, các tổ chức chính trị và người dân

thông qua các hoạt động truyền thông, giáo dục và tương tác trực tuyến.

Công tác này sẽ giúp tăng cường sự ủng hộ của người dân đối với các chính sách của Đảng và

chính phủ, bảo vệ tư tưởng của đảng và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.Với

sự phổ biến của mạng internet, thông tin tràn lan và đa dạng, tuy nhiên đôi khi thông tin sai lệch

và độc hại cũng được lan truyền rộng rãi. Việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng

giúp xây dựng nền tảng thông tin chính thống, đảm bảo thông tin đúng và chính xác được truyền

tải đến người dân, giúp người dân có đánh giá chính xác về các vấn đề của xã hội.Trên không

gian mạng, "thế trận lòng dân"; còn có ý nghĩa tạo dựng một hình ảnh tích cực về Đảng, chính

phủ và đất nước trên mạng, tăng cường sự ủng hộ của người dân và chống lại các hoạt động tác

động tiêu cực của các tổ chức và cá nhân phản đối chính quyền.