Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Vai trò của chính đảng vô sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, song để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực phải thông qua nhân tố chủ quan của chính giai cấp công nhân. Trong học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học đã luận giải sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan. Trong đó, việc tổ chức ra đội tiền phong của giai cấp công nhân thành một chính đảng mác xít chân chính - đảng cộng sản, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân là nhân tố quyết định nhất. Vai trò của đảng cộng sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, thể hiện: Đảng cộng sản làm chuyển biến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác. Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền và lãnh đạo xây dựng xã hội mới luôn đòi hỏi giai cấp công nhân phải được thu hút, tập hợp trong một tổ chức thống nhất dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp đó là đảng cộng sản. Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, tổ chức, tuyên truyền và giáo dục giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho phong trào của giai cấp công nhân vươn tới trình độ nhận thức lý luận và trở thành một phong trào chính trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự mình tổ chức thành chính đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng do giai cấp hữu sản lập ra, mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò này của đảng được quy định từ mối quan hệ khách quan vốn có giữa đảng với giai cấp công nhân, trong đó giai cấp công nhân chính là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng cộng sản, nơi xuất phát hình thành ra đội tiền phong của giai cấp và là nguồn bổ sung lực lượng bảo đảm cho đảng tồn tại và phát triển về mọi mặt. Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân là mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa tổ chức cao nhất, bộ phận đại diện cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp với toàn bộ giai cấp công nhân. Khẳng định đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, ở chỗ, đảng giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo của giai cấp, là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu dẫn dắt, tập hợp và tổ chức giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Vai trò ấy được thể hiện: đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao hơn bộ phận còn lại của giai cấp để lãnh đạo giai cấp và dân tộc; là lực lượng đi đầu nắm bắt, tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân để định ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động; đồng thời, đảng còn là một tổ chức thống nhất về ý chí, hành động, kỷ luật và đoàn kết. Đảng cộng sản tuyên truyền, vận động, thu hút tập hợp và tổ chức các giai tầng xã hội khác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Việc thu hút, tập hợp, tổ chức lại và đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã hội khác cả trong nước và nước ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp để giai cấp công nhân giành được chính quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ thành công tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước và trên toàn thế giới.

Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải triệt để trong đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các khuynh hướng sai trái dưới mọi hình thức trong phong trào công nhân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân phát triển đúng hướng, từng bước đi đến thắng lợi cuối cùng. 

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, xuất phát từ đặc điểm và khả năng cách mạng của họ.

 


C.Mác khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”[1]. Ra đời và phát triển cùng với nền đại công nghiệp, nên giai cấp công nhân có số lượng và chất lượng ngày càng tăng, được đại công nghiệp rèn luyện, tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Giai cấp công nhân lại có hệ tư tưởng độc lập và tiên tiến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ đó, giai cấp công nhân có những phẩm chất ưu việt hơn hẳn tất cả các giai cấp khác trong xã hội. Những phẩm chất đó là: giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất, đồng thời còn là giai cấp có tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế rộng rãi. Những phẩm chất đó của giai cấp công nhân ngày càng được tôi luyện, củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp và cuộc đấu tranh của mình chống chế độ tư bản chủ nghĩa.

Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ quy định giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Trong xã hội, giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản phù hợp và thống nhất với lợi ích của quần chúng nhân dân lao động và các giai tầng xã hội khác. Chỉ có họ mới có khả năng đại biểu cho quyền lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của toàn bộ quần chúng lao động; có khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, giác ngộ về địa vị sứ mệnh lịch sử của mình và lôi cuốn, tập hợp, tổ chức quần chúng bị áp bức tham gia vào cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản; có khả năng lãnh đạo và đi tiên phong trong các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động và toàn dân tộc chống áp bức, bóc lột cũng như trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; có khả năng đoàn kết thống nhất toàn thể giai công nhân các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng. Như vậy, giai cấp công nhân vừa có vai trò tổ chức lãnh đạo cách mạng, vừa là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.

Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm thực hiện sứ mệnh của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió, mà phải có những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định.

Hiện nay, các thế lực thù địch và cơ hội cho rằng, các nước tư bản phát triển công nhân không còn bị bóc lột như trước nữa, đã trung lưu hóa…, cho nên giai cấp công nhân không còn sứ mệnh lịch sử toàn thế giới như trước, không còn đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao, có nhà lầu, xe hơi, có cổ phần, cổ phiếu… Song, điều đó không có nghĩa giai cấp công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Những sự biến đổi ấy không thể làm thay đổi một sự thật hiển nhiên rằng, toàn bộ tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản, cả sức lao động trí óc và lao động chân tay để kiếm sống và vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư. Do vậy, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân vẫn không hề thay đổi, họ vẫn đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.

Thêm nữa, trước sự phát triển, tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhiều người cho rằng sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân đã được chuyển giao cho tầng lớp trí thức. Theo họ, thời đại hiện nay là thời đại của văn minh trí tuệ, thời đại mà khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì tầng lớp trí thức mới là lực lượng xã hội có đủ năng lực trí tuệ và có đủ khả năng tổ chức lãnh đạo các lực lượng xã hội trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Trong mọi xã hội, trí thức luôn có vai trò rất quan trọng, trực tiếp và đi đầu trong quá trình phát triển các lý thuyết, khoa học công nghệ, khoa học quản lý, khoa học xã hội và nhân văn... góp phần trong việc nâng cao dân trí. Song, tầng lớp trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng thay thế giai cấp công nhân. Vì, trong mọi chế độ xã hội, tầng lớp trí thức chỉ là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Trí thức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp, nó không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là lực lượng kinh tế, chính trị độc lập. Tầng lớp trí thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập, nó chỉ theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp mà nó phục vụ. Do địa vị kinh tế - xã hội của họ, tầng lớp trí thức không thể là người lãnh đạo cách mạng, mặc dù tất cả các giai cấp thống trị trong lịch sử đều cần đến trí thức và đào tạo ra đội ngũ trí thức của mình để thực hiện vai trò thống trị đối với xã hội. Về kinh tế thì tầng lớp trí thức không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Họ cũng là những người làm thuê và bị bóc lột, nhưng họ là tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo và sử dụng với sự ưu đãi cao. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền lợi của tầng lớp trí thức gắn liền với quyền lợi của giai cấp tư sản.

Thực tế lịch sử đã cho thấy, chưa bao giờ tầng lớp trí thức lãnh đạo thành công một cuộc cách mạng xã hội nào. Các cuộc đấu tranh của tầng lớp trí thức tuy có tiếng vang nhất định, nhưng mục tiêu của các cuộc đấu tranh ấy không bao giờ vượt qua được khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Họ cũng dễ sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp thống trị khi những yêu cầu tối thiểu đưa ra được chấp nhận. Vì thế, những cuộc đấu tranh do trí thức thực hiện không bao giờ và không thể đi đến mục tiêu cuối cùng giải phóng toàn thể nhân dân lao động trên toàn thế giới như giai cấp công nhân được.

Với quan điểm hoàn toàn khách quan và khoa học về địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân, hoàn toàn khẳng định được rằng, trong thời đại ngày nay, chỉ duy nhất giai cấp công nhân mới là lực lượng có sứ mệnh lịch sử.



[1] C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 610.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hoàn toàn khách quan, trước hết từ địa vị kinh tế - xã hội của họ quy định.

 


Giai cấp vô sản - giai cấp công nhân hiện đạicon đẻ của nền đại công nghiệp hiện đại. Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến dưới chủ nghĩa tư bản. Khi đại công nghiệp hiện đại càng phát triển thì lực lượng sản xuất càng phát triển, mang tính xã hội hoá ngày càng cao làm cho mâu thuẫn không thể điều hoà giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản, tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân tiến hành để xoá bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột.

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân luôn bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột nặng nề, nên họ có lợi ích cơ bản đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Do đó, xét về bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong tất cả các giai cấp đối lập với giai cấp tư sản, họ có tinh thần và ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức, bất công xã hội.

Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là lực lượng xã hội duy nhất có khả năng lãnh đạo và tổ chức các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động xây dựng xã hội mới, phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tạo ra một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại.

Cơ sở khách quan quy định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và vai trò chính đảng vô sản

 


Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn khách quan: “… cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”[1].

Song sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân không phải là ý muốn chủ quan của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, mà được quy định một cách khách quan bởi địa vị kinh tế - xã hội và phẩm chất, khả năng cách mạng của giai cấp công nhân hiện đại.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 613.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân khác hẳn về chất so với sứ mệnh của các giai cấp trước đó

 


Mục tiêu cuối cùng mà sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thực hiện là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp công nhân làm cách mạng nhằm xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nguồn gốc sinh ra mọi áp bức bóc lột, bất công xã hội, chứ không phải thực hiện sự thay thế chế độ tư hữu này bằng chế độ tư hữu khác, hay thay đổi hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác như trước đây.

Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm mang lại lợi ích cho tất cả nhân dân lao động trên toàn thế giới, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả những phong trào lịch sử từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều do mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đi đa số, mưu lợi cho tuyệt đại đa số”[1].

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính quốc tế, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Tính quốc tế do bản chất của giai cấp công nhân và yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa quy định. Tuy nhiên, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được giai cấp công nhân ở từng quốc gia dân tộc thực hiện trước hết ở nước mình, qua đó góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của giai cấp công nhân toàn thế giới. Điều đó đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[2]. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân luôn phải giải quyết đúng đắn các mối quan hệ dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 611.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 613.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

 


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân một trong ba phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Như vậy, thực chất nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, xây dựng xã hội cộng sản văn minh trên toàn thế giới. Ph.Ăng ghen đã viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”[1]. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình kết hợp chặt chẽ và thống nhất biện chứng giữa xóa và xây (giữa cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới). Trong lịch sử, các cuộc cách mạng xã hội đều không xoá bỏ chế độ tư hữu và chỉ kết thúc khi chính quyền đã được chuyển từ tay giai cấp bóc lột cũ sang giai cấp bóc lột mới. Cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân thực hiện đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền, việc thiết lập được chuyên chính vô sản mới chỉ là thắng lợi bước đầu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động còn phải tiếp tục đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới. Trong đó, việc xây dựng xã hội mới có vị trí quan trọng và quyết định nhất đến thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh liên tục bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa, trải qua các giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, giai cấp công nhân phải làm cuộc cách mạng xã hội, lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản thiết lập chính quyền vô sản, phải “tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”[2] và “phải tự nhận lấy sứ mệnh đại biểu cho toàn bộ lợi ích của một dân tộc và do đó lãnh đạo dân tộc ấy về chính trị”[3]. Giai đoạn thứ hai, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân phải  lãnh đạo và tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Chưa đạt được mục tiêu cuối cùng này thì giai cấp công nhân cũng như toàn thể nhân dân lao động chưa được giải phóng hoàn toàn.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1994, tr. 393.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 624.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1993, tr. 530.

Phẩm chất và khả năng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam

 


Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam vừa mang phẩm chất, khả năng cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế vừa mang phẩm chất và khả năng riêng có của mình, tựu trung lại ở mấy điểm sau:

Giai cấp công nhân Việt Nam có trí tuệ, bản lĩnh, ý thức tổ chức kỷ luật cao. Từ khi mới ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm tiếp nhận và được trang bị vũ khí lý luận tiên tiến, khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin, hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy không là sản phẩm trực tiếp của nền đại công nghiệp song được tôi luyện trong sự phát triển của đại công nghiệp, nên giai cấp công nhân Việt Nam mang trong mình ý thức tổ chức, kỷ luật cao. Trong đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong những bước ngoặt của lịch sử nhân loại và dân tộc, mặc dù bị kẻ thù tìm mọi cách đàn áp và phải đối đầu với vô vàn khó khăn thử thách song giai cấp công nhân Việt Nam vẫn giữ được bản lĩnh, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam giành từ thắng lợi lợi này đến thắng lợi khác.

Là giai cấp có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù về số lượng, không chiếm t lệ đa số trong tng s dân cư song giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giữ vai trò quyết định trong việc phát triển, hoàn thiện phương thức sản xuất mới ở Việt Nam, sớm có hệ tư tưởng độc lập, tiên tiến. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích cơ bản của bè lũ xâm lược và tay sai nhưng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải phóng của nhân dân lao động. Do đó, giai cấp công nhân có đủ điều kiện, khả năng trở thành lực lượng duy nhất tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong công cuộc xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng và tin cậy nhất của nhân dân”[1]. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, sau hơn 35 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng. Thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước, thực sự là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp công nhân Việt Nam có tinh thần cách mạng triệt để. Trong suốt quá trình cách mạng, nỗi đau mất nước cộng với nỗi khổ vì bị áp bức bóc lột bởi giai cấp tư sản thực dân - đế quốc và tay sai, sớm chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, được tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thống nhất, xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - khiến động cơ, nghị lực và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được nhân lên gấp bội.

Là giai cấp đoàn kết rộng rãi với các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân lao động, những tầng lớp lao động khác và là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt, bóc lột thậm tệ của thực dân - đế quốc và tay sai thi hành ở nước ta, nên có quan hệ chặt chẽ và mật thiết với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong suốt quá trình cách mạng từ trước, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam còn gắn bó mật thiết, có đóng góp quan trọng trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn về nhiều mặt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 407

Ý nghĩa nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học về lý luận

 


Nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho mọi người hiểu được chủ nghĩa Mác - Lênin một cách toàn diện, cân đối, đầy đủ và hoàn chỉnh. Nếu không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ làm cho triết học, kinh tế chính trị học Mác - Lênin dễ chệch hướng chính trị - xã hội, trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng hoàn toàn xã hội và con người khỏi các chế độ tư hữu, áp bức, bất công, chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác... mà thực tế lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến. Trên cơ sở hiểu biết đầy đủ chủ nghĩa Mác, mỗi người sẽ có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về chủ nghĩa xã hội để có niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách mạng; để vận dụng sáng tạo và phát triển đúng đắn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, trang bị vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân và những người lao động để tìm ra con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng mình khỏi chế đ sở hữu tư sản, ách áp bức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội thật sự công bằng, bình đẳng, vì sự tiến bộ của con người

Nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những nhận thức chính trị - xã hội (như đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học) cho các đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội... Vì thế, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin có lý khi xác định rằng, Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình. Cũng như Triết học và Kinh tế chính trị học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới (cả tự nhiên, xã hội và bản thân con người) theo hướng tiến bộ, văn minh.

Nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp mỗi người có căn cứ nhận thức khoa học, tăng khả năng miễn dịch trước các quan điểm sai trái. Những kiến thức lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành nền tảng để cán bộ, nhân dân cảnh giác, phân tích đúng đắn và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta; chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu, luận giải những quy luật, tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét các hiện tượng chính trị - xã hội phải luôn quán triệt quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quá trình phân tích các hiện tượng chính trị - xã hội phải gắn với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Phải tôn trọng khách quan, xuất phát từ điều kiện khách quan để tìm ra con đường, biện pháp cách mạng đúng đắn trong cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết chống mọi biểu hiện chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan; chủ động đề phòng, ngăn chặn khuynh hướng giáo điều, dập khuôn máy móc.

Phương pháp kết hợp lịch sử lôgíc

Trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của các sự thật lịch sử mà phân tích để rút ra những nhận định, khái quát về lý luận có kết cấu chặt chẽ, khoa học - tức là rút ra được lôgíc của lịch sử, không dừng lại ở sự liệt kê sự thật lịch sử. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa xã hội khoa học đã là những tấm gương mẫu mực về sử dụng phương pháp này khi phân tích lịch sử nhân loại, đặc biệt là về sự phát triển các phương thức sản xuất để rút ra được lôgíc của quá trình lịch sử, căn bản là quy luật mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột, quy luật đấu tranh giai cấp dẫn đến các cuộc cách mạng xã hội và do đó, cuối cùng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, dẫn đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn

Là một học thuyết chính trị - xã hội, Chủ nghĩa xã hội khoa học sử dụng phổ biến phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn. Nếu thoát ly thực tiễn tình hình kinh tế, xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp trong những giai đoạn lịch sử nhất định thì những nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ trở nên chung chung, trừu tượng, tư biện và không có sức thuyết phục, không mang lại hiệu quả, thậm chí phải trả giá đắt cho những quyết sách chính trị sai lầm từ suy diễn chủ quan. Do đó, phải từ thực tiễn chính trị - xã hội rút ra những kết luận về lý luận để từ đó quay lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Đồng thời, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản phải có cơ sở lý luận thực tiễn đầy đủ, phải bám sát cuộc sống và tình hình chính trị - xã hội trong nước và quốc tế.

Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể

Khi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tiễn một xã hội cụ thể, đặc biệt là trong điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... phải luôn có sự nhạy bén về chính trị - xã hội trước tất cả các hoạt động và quan hệ xã hội, trong nước và quốc tế. Trong thời đại còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn chính trị thì mọi hoạt động, mọi quan hệ xã hội ở các lĩnh vực, kể cả khoa học công nghệ, tri thức và sử dụng tri thức, các nguồn lực, các lợi ích... đều có nhân tố chính trị chi phối mạnh nhất, nhưng nó lại có vẻ “đứng đằng sau hậu trường” (thậm chí cố tình che đậy như trong các đảng và chính phủ tư sản cầm quyền). Không chú ý phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội, không có nhạy bén chính trị và lập trường - bản lĩnh chính trị vững vàng thì dễ mơ hồ, nhầm lẫn, sai lệch.

Các phương pháp có tính liên ngành

Chủ nghĩa xã hội khoa học cần phải sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể của các khoa học xã hội khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, sơ đồ hoá, mô hình hóa… để nghiên cứu những khía cạnh chính trị - xã hội của các mặt hoạt động trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội, trong đó có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học trực tiếp nghiên cứu, luận chứng những quy luật và những vấn đề có tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhằm thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu cả phương diện khách quan và chủ quan của quá trình phát sinh, hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Phương diện khách quan, Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Quy luật chính trị - xã hội là những quy luật phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực chính trị - xã hội, thông qua các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ quốc gia, quan hệ quốc tế. Quy luật chính trị - xã hội, bao gồm quy luật, tính quy luật trong cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp công nhân; trong cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; quá trình cách mạng thế giới trong thời đại hiện nay. Phương diện chủ quan là trên cơ sở quy luật, tính quy luật chính trị - xã hội, Chủ nghĩa xã hội khoa học đề ra con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Phạm vi đối tượng nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học là quá trình phát sinh hình thành phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, nó bao gồm các nhóm quy luật: Quy luật, tính quy luật  trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân; quy luật, tính quy luật trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội; quy luật, tính quy luật của quá trình cách mạng thế giới hiện nay; những điều kiện, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng để thực hiện quy luật, tính quy luật của cả ba quá trình trên.

Đối tượng nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học có sự khác biệt với đối tượng nghiên cứu của một số khoa học liên ngành. Song, sự phân biệt đối tượng nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học với đối tượng nghiên cứu của một số ngành khoa học khác chỉ có tính chất tương đối vì xã hội là một chỉnh thể thống nhất, các lĩnh vực của đời sống xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.

Khái niệm Chủ nghĩa xã hội khoa học

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là một khoa học độc lập thuộc nhóm xã hội - nhân văn, ra đời vào thế kỷ XIX trên cơ sở chín muồi của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tiền đề văn hoá tư tưởng và công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen. Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, Chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội hoàn chỉnh, cân đối, triệt để cách mạng, luận chứng một cách toàn diện dưới góc độ triết học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời, chiến thắng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đều tất yếu như nhau. Theo nghĩa hẹp, Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin, là biểu hiện lý luận của phong trào công nhân, trực tiếp luận chứng khoa học dưới góc độ chính trị - xã hội quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp, nghiên cứu riêng; có hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính độc lập tương đối; có sự kế thừa và phát triển tư tưởng trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học có vị trí, vai trò quan trọng:

Chủ nghĩa xã hội khoa học kế thừa và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong lịch sử lên tầm cao mới, chất lượng mới. Sự ra đời, phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở hiện thực và khoa học vững chắc, có sự kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng, khắc phục và loại trừ những hạn chế, những yếu tố không hợp lý của các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng trong lịch sử; đồng thời đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới mà cuộc sống xã hội đặt ra. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một giá trị văn hoá, văn minh nhân loại, đã tìm ra những quy luật, tính quy luật của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng con người, giải phóng xã hội.

Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thật sự là học thuyết khoa học, cách mạng, cân đối, hoàn bị. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ quả tất yếu rút ra từ triết học và kinh tế chính trị học Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là lý luận về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, là lý luận chính trị - xã hội trực tiếp chỉ đạo hoạt động thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ nhằm nhận thức thế giới một cách đúng đắn, không dừng lại ở việc chỉ ra tính tất yếu khách quan, các nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn vạch rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, các phương pháp cách mạng đúng đắn để hiện thực hoá việc cải tạo thế giới, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ tư tưởng chính trị, cơ sở lý luận chính trị trực tiếp để các Đảng Cộng sản và công nhân đề ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng. Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và cách mạng, giữa tính khoa học và tính giai cấp, tính đảng; giữa lý luận và thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thực tiễn xã hội... vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn luôn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận và tìm cách loại bỏ. Do đó, luôn kiên định và phát triển, trung thành và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa xã hội khoa học là điều kiện cơ bản bảo đảm để giai cấp công nhân, các đảng cộng sản thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp, từ bỏ và phản bội các nguyên lý Chủ nghĩa xã hội khoa học, chắc chắn gây nên những tổn thất khôn lường đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở mỗi nước và thế giới. Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận chống lại chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại.

Đối với Việt Nam, Chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[1].



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 563