- Tính lịch sử
+ Tôn giáo ra đời cùng với sự phát triển sản xuất và
tư duy trùi tượng
Trong suốt giai đoạn đầu của thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo vẫn chưa
tồn tại, mà chỉ đến cuối thời kỳ này, và sang thời kỳ cổ đại thì những tôn giáo
đầu tiên mới bắt đầu hình thành. Đó là do chỉ đến thời kỳ này con người mới có
đủ những tri thức để xây dựng, hoàn thiện hệ thống kinh sách và tín điều, mà
quan trọng nhất là việc xuât hiện chữ viết để ghi chép kinh sách.
+ Chịu tác động của những biến đổi lịch
sử
Khi xem xét những tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ đầu lịch sử, ta nhận
thấy chúng mang nhiều đặc điểm xuất phát từ những tín ngưỡng rất sơ khai. Tôn
giáo của người Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp - La Mã hay Giéc-manh..., đều là những
tôn giáo đa thần (polytheism) mang màu sắc tín ngưỡng "vạn vật hữu linh";
các thần thánh đều đại diện cho những lực lượng thiên nhiên, và "những
lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hoá một cách hết sức nhiều vẻ và hết
sức hỗn tạp". Là đại diện cho những lực lượng tự nhiên chi phối đời sống
con người, thần thánh của các tôn giáo chi phối đời sống con người. Và bắt
nguồn từ đó, những lực lượng chỉ mang tính tự nhiên đã dần mang tính xã hội. Và
bắt nguồn từ đó, tôn giáo mang tính giai cấp- khi xuất hiện giai cấp và nhà
nước trong xã hội chiếm hữu nộ lệ.
+ Tôn giáo sẽ mất đi trong những điều kiện nhất định
Trong bước nhảy vọt từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà
chỉ "dần mất đi ảnh hưởng của nó đối với ý thức xã hội",
và "chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tôn giáo mới
có thể hoàn toàn biến mất và hoàn toàn bị xoá bỏ khỏi đời sống con người".
- Tính xã hội, quần chúng của tôn giáo:
Trong Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen, Mác
viết: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân".
Ăng
ghen: "Cơ đốc giáo cũng như mọi phong trào cách mạng lớn đều do quần chúng
tạo nên"[1];
"Cơ đốc giáo cũng như CNXH hiện đại, nắm lấy quần chúng qua hình thức
những giáo phái này khác, qua các hình thức các quan điểm cá nhân mâu thuẫn
nhau"[2].
Tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo của
con người, những tôn giáo cũng phản ánh khát vọng của những con người bị áp bức
về một xã hội về tự do, bình đẳng. Mặt khác, giáo lý của các tôn giáo đều chứa
đựng những giá trị chân, thiện, mỹ. Do đó, vẫn thu hút được số đông quần chúng
tham gia.
Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân. Sinh hoạt tôn giáo là hoạt động văn hóa, tinh thần của con
người – hoạt động xã hội.
- Tính giai cấp của tôn giáo
Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo luôn
phản ánh ý chí, nguyện vọng của những giai cấp nhất định
Những lực lượng thuộc tầng lớp trên của
xã hội, có địa vị, có tiền của và có tri thức hơn, đã biết lợi dụng tôn giáo để
bảo vệ và củng cố quyền lợi của mình. Đồng thời tôn giáo nhờ đó được phát
triển, mở rộng. Đây là cơ sở hình thành liên minh thần quyền- thế quyền
Một sự kiện quan trọng có thể lấy làm minh chứng
cho sự tác động của tầng lớp quý tộc tới tôn giáo, đó chính là sự kiện "Công
đồng Nicaea": Hoàng đế La mã là Constantine đã triệu tập hội nghị tất cả
các giám mục Kitô giáo tại Nicaea (Thổ Nhĩ Kỳ) năm 325 để biên soạn bộ Kinh
Thánh Tân Ước với mục đích chính là để thống nhất các chi nhánh của Kitô giáo,
đưa tôn giáo này trở thành công cụ để mê hoặc nhân dân, củng cố quyền lực của
bản thân hoàng đế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét