Sau khi phân tích
tình hình thế giới và khu vực, khẳng định Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành
viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Báo cáo chính trị tại Đại
hội XIII của Đảng đưa ra định hướng hoạt động đối ngoại, đó là: “Đẩy mạnh đối
ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương... Coi trọng phát triển quan
hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng... Đẩy mạnh và làm
sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối
tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác... Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực
thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”.
Nhìn một cách tổng
quát, chính sách đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua là sự kế thừa
và tiếp nối chính sách đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, nhất
là chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), với
chủ trương nhất quán là “đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại”,
“Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế”.
Về “đối tác”, có thể
dễ dàng nhận thấy ngoài hai nước Lào và Cam-pu-chia có quan hệ “láng giềng đặc
biệt”, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước
và đối tác toàn diện với 13 nước. Trong số các đối tác, Việt Nam cũng đặt thứ tự
ưu tiên với các nước láng giềng, tiếp đó là các đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện.
Tuy nhiên, quan hệ
đối tác của Việt Nam không chỉ dừng lại ở những đối tác truyền thống, đối tác
chiến lược và đối tác toàn diện, mà còn bao gồm cả các “đối tác quan trọng
khác”. Hàm ý của “đối tác quan trọng khác” này dựa trên phạm vi quan hệ đối ngoại
sâu rộng hiện nay của Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao
với 189/193 nước thành viên của Liên hợp quốc, là thành viên của nhiều tổ chức
khu vực và quốc tế; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó FTA
song phương Việt Nam - Anh và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP) là những FTA mới nhất. Với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng và nhiều
tầng nấc như vậy, Việt Nam có lợi ích đan xen giữa các đối tác với nhau. Vì vậy,
nói một cách khác, “đối tác” của Việt Nam là tất cả những nước đã thiết lập
quan hệ ngoại giao, là những nước có quan hệ kinh tế với Việt Nam, là những
thành viên trong các tổ chức khu vực và thế giới (như ASEAN và Liên hợp quốc),
cơ chế - hiệp định đa phương (như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương - CPTPP, RCEP, Tiểu vùng Mê Công), diễn đàn (như Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu - ASEM), các phong trào mà Việt Nam là thành
viên. Nói như vậy có nghĩa không phải chỉ những mối quan hệ nào được xác định
là “đối tác chiến lược” hay “đối tác toàn diện” mới là “đối tác” của Việt Nam,
mà đó là chỉ dấu cho mức độ và tính chất của mối quan hệ đối tác được thiết lập
trên cơ sở nhu cầu của Việt Nam và các đối tác. Lẽ dĩ nhiên, mức độ và tính chất
quan hệ đối tác này sẽ quyết định phạm vi hợp tác chiến lược và toàn diện theo
thỏa thuận và cách hiểu giữa hai bên, không lệ thuộc vào cách đánh giá của bên
thứ ba.
Về “đối tượng”, Báo
cáo chính trị tại Đại hội XIII chỉ rõ đó là những lực lượng có “âm mưu, hành động
can thiệp... vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Cùng với
đó, Đại hội XIII của Đảng xác định các thách thức: 1- Tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức
tạp. 2- Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất
nước ta. 3- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định... là những thách thức rất lớn đối với nước ta
trong thời gian tới. Hai trong số ba thách thức nêu trên trực tiếp hoặc gián tiếp
liên quan đến các “đối tượng” bên ngoài. Riêng đối với thách thức thứ hai, Sách
trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 chỉ rõ: Tình hình Biển Đông thời gian gần
đây mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực, nhưng các yếu tố gây mất ổn định,
căng thẳng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp đang đặt ra thách thức mới đối với
việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, bảo vệ hòa bình và ổn định của Việt Nam. Những
diễn biến mới trên Biển Đông, trong đó có các hành động đơn phương, áp đặt dựa
trên sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế và hoạt động quân sự hóa, làm thay đổi
nguyên trạng, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam
theo luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia liên quan, đe dọa
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực. Ngoài
ra, các vấn đề an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, buôn bán người,
khủng bố, di cư bất hợp pháp, thảm họa môi trường, dịch bệnh, thiên tai, thay đổi
dòng chảy trên các con sông xuyên biên giới... tác động đến an ninh nguồn nước,
an ninh lương thực, an ninh môi trường ở nhiều địa phương, cũng là những thách
thức đối với sự phát triển của Việt Nam. Như vậy, nếu cho rằng, “đối tượng” là
những gì cản trở sự phát triển của Việt Nam, chống phá chế độ, đe dọa đến sinh
mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự tồn vong của chế độ, xâm hại đến lợi ích
quốc gia - dân tộc, thì “đối tượng” nên được hiểu là bao gồm cả những thách thức
trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét