Để cứu nguy Phật giáo khỏi nạn diệt vong, vào ngày 25-5-1963, Ban Trị sự TW Tổng hội Phật giáo Việt Nam triệu tập 11 giáo phái và hội đoàn Phật giáo, thành lập ra Uỷ ban Liên phái bảo vệ Phật giáo, do TT.Tâm Châu làm chủ tịch, dưới sự chứng minh tối cao của HT.Thích Tịnh Khiết.
Trong suốt hơn hai nghìn năm hiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện với những đe dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷ thứ 20. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảng lớn.
Thứ nhất là nội lực của Phật giáo bị suy kiệt sau gần 100 năm bị “nhiệm vụ khai hoá” của thực dân Pháp gạt ra khỏi vai trò phên dậu văn hóa của dân tộc.
Thứ hai là cùng đồng hành với dân tộc trong cao trào chống ngoại xâm nên đã hy sinh gần cạn kiệt nguồn vốn trí tuệ, thân mạng và cơ sở vật chất trên cả ba miền đất nước.
Thứ ba là sau ngày đất nước qua phân vào năm 1954, trong khi Phật giáo tại miền Bắc gần như hoàn toàn tê liệt vì hậu quả của chiến cuộc thì tại miền Nam, trong nỗ lực chập chững hồi sinh, Phật giáo lại phải đối mặt suốt gần một thập niên với một chính sách đàn áp, tiêu diệt có hệ thống của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Chính quyền Ngô Đình Diệm với vị Tổng Giám mục “quyền huynh thế phụ” đầy tham vọng đạo cũng như đời.
Phật giáo Việt Nam trở thành đối tượng bị nhắm đến đầu tiên, liên tục và hung hãn trong suốt 8 năm cai trị của chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ mà nhiệm vụ chính trị của tập đoàn lãnh đạo đã làm cho họ không còn chọn lựa nào khác, không còn cách hành động nào khác hơn là phải tiêu diệt Phật giáo.
Cho nên trong suốt 8 năm, Phật giáo đã bị kỳ thị, đàn áp, khống chế, thậm chí bị tiêu diệt trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt quần chúng cũng như công quyền tại miền Nam.
Từ luật pháp đến chính trị, từ giáo dục đến an ninh, từ kinh tế đến thương mại, từ nông nghiệp đến xã hội, từ quân đội đến hành chính … và đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo thì chính quyền dùng đủ mọi biện pháp để khống chế và tiêu diệt đến tận cùng.
Đó là các nguyên nhân dẫn đến phong trào đấu trong bất bạo động của Phật giáo Việt Nam và đại nguyện tự thiêu vì chánh pháp của Bồ tát Thích Quảng Đức.
Ngài đã tự thiêu thân vì chánh pháp vào lúc 11 giờ ngày 11-6-1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (ảnh dưới bài).
Trước đó vì sự đối xử ưu ái mà Diệm dành cho đạo Công giáo, trong đó bao gồm việc buộc phải cải đạo Phật tử sang Công giáo và sát hại những người biểu tình cũng như những người bất đồng chính kiến và tôn giáo.
Đặc biệt, khoảng tháng trước, người ta đã chứng kiến vụ bắn chết 9 người Việt Nam vì sắc lệnh cấm treo cờ Phật giáo; chỉ tám ngày trước đó, lính VNCH ở Huế đã đổ axit và các chất hóa học khác lên các Phật tử khi cầu nguyện, khiến 67 người nhập viện.
Các nhà báo Mỹ ghi lại cảnh tượng này. Ngài đã để lại lời nhắn cuối cùng và được công bố sau khi mình qua đời:
“Trước khi nhắm mắt xuôi tay hướng về Đức Phật quang lâm, tôi kính xin Tổng thống Ngô Đình Diệm phát tâm thương dân, thực hiện bình đẳng tôn giáo để trường tồn sức mạnh quê hương. Tôi kêu gọi chư tôn đức, thành viên tăng đoàn và cư sĩ Phật tử tổ chức đoàn kết hy sinh để bảo vệ đạo Phật ”.
Trái tim của Ngài đã được tìm lại từ đống tro tàn, không bị đốt cháy. Các nhà sư của ngài sau đó đã hỏa táng trái tim ngài trong một buổi lễ an táng; người ta nói rằng trái tim đó vẫn không bị hư hại mặc dù qua nhiều lần bị thiêu đốt.
Vụ việc khủng khiếp này không chỉ làm nổi bật sự tàn ác của chế độ gia đình trị của Diệm (em dâu của Diệm, bà Nhu đã nói về cái chết của ngài bằng cách tuyên bố đây là một "bữa tiệc nướng" và mong muốn có thêm nhiều nhà sư làm theo) các hình ảnh đó khiến người Mỹ không thể tiếp tục phớt lờ những gì đang diễn ra ở Việt Nam.
Cùng với các cuộc đàn áp tiếp tục của Diệm đối với các Phật tử, nó cũng khiến chế độ của Diệm không thể chống lại được, dẫn đến một âm mưu giữa Chính quyền Kennedy, Đại sứ Henry Cabot Lodge và một nhóm các tướng lĩnh miền Nam Việt Nam nhằm lật đổ và giết Diệm vào tháng 11 năm 1963.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét