Thứ Hai, 20 tháng 6, 2022

 

Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cung cấp phương pháp luận, những luận chứng, luận cứ, lý luận và thực tiễn, những cấu trúc chính của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Bài viết phân tích làm rõ cấu trúc mô hình chủ nghĩa xã hội trong cuốn sách, từ chế độ chính trị, mô hình kinh tế tổng quát, nền văn hóa, đến cơ chế vận hành của xã hội... Đồng thời khẳng định đó là những đóng góp của Đảng và nhân dân ta trong việc tìm tòi mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa của nhân loại. 

Chủ nghĩa xã hội luôn là một sự tìm kiếm trong lịch sử nhân loại. CNXH từ không tưởng đến khoa học đều là khát vọng và tìm tòi của nhiều nhà tư tưởng, nhà cách mạng, nhằm giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, hòa mục...

Nhân loại đã từng thử nghiệm, xây dựng nhiều mô hình CNXH và đã trải nghiệm cả thành công lẫn thất bại. Sau sự sụp đổ của mô hình CNXH Xô viết, tuy phong trào XHCN lâm vào thoái trào, nhưng những tìm tòi về lý luận và thực tiễn của CNXH vẫn tiếp tục. 

Mô hình chủ nghĩa xã hội là tổng thể những thành tố, cấu trúc và những mối quan hệ cơ bản, đặc trưng, có tính ổn định, thể hiện bản chất của CNXH, cho phép chúng ta nhận diện được những đặc tính khác biệt về nội dung và hình thức và phương thức tồn tại, phát triển của chế độ xã hội XHCN của một quốc gia, một giai đoạn, một thời đại.

Để có thể xác định được mô hình CNXH Việt Nam, chúng ta cần làm rõ những cấu trúc chính sau đây:

1. Chế độ chính trị trong mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam 

Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trình bày về “chế độ chính trị”, “mô hình chính trị”, “hệ thống chính trị” và “cơ chế vận hành hệ thống chính trị” Việt Nam với tư cách là một vấn đề cơ bản của mô hình CNXH Việt Nam hiện nay (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).

Khi bàn về mô hình chính trị Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(1). Trong nền dân chủ XHCN, để nhân dân thực sự làm chủ, để phát huy dân chủ, Tổng Bí thư khẳng định quan điểm của Đảng ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”(2). Sự khác biệt giữa nền dân chủ XHCN nói chung và Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng, là ở chỗ “Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng”(3). Trong nền dân chủ XHCN ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đóng vai trò hạt nhân của nền dân chủ và hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền là trung tâm của hệ thống chính trị. Từ lôgíc đó, Tổng Bí thư đã chỉ ra vai trò của Đảng và “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”(4)

Nội dung của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã được chế định trong Hiến pháp, được nêu khái quát trong Cương lĩnh của Đảng và trong nghị quyết của Đảng, được Tổng Bí thư nhiều lần nhắc lại trong cuốn sách, có thể tóm tắt như sau:

- Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH.

- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền.

- Mọi cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến cơ sở do nhân dân bầu ra bằng các cuộc bầu cử dân chủ, đại điện cho quyền lực của nhân dân, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương thông qua chức năng lập hiến, lập pháp, ra quyết định; thực hiện giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Để làm rõ bản chất của nền dân chủ XHCN, Tổng Bí thư nhấn mạnh: 

- Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(5)

- “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò (...) củng cố, mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, chăm lo đời sống nhân dân; động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới”(6)

- “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”(7)

Đặc trưng của nền dân chủ XHCN Việt Nam là chế độ Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 

2. Cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam 

Cơ sở kinh tế của CNXH là một trong những vấn đề tranh luận gay gắt giữa các quan điểm về CNXH và cũng đã trải qua nhiều thử nghiệm ở các mô hình khác nhau. Trong phong trào cộng sản và công nhân từ thế kỷ XIX đến nay đã có những quan điểm và mô hình thực tiễn khác nhau, như của Prudon, Causky, V.I.Lênin (chính sách cộng sản thời chiến và NEP), mô hình Liên Xô (kế hoạch hóa tập trung), mô hình tự quản Nam Tư, mô hình nền kinh tế thị trường xã hội của các đảng xã hội dân chủ (Tây Âu, Bắc Âu), mô hình kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc. 

Trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, Đảng ta cũng đã trải qua quá trình thử nghiệm, tìm tòi, tổng kết từ thực tiễn; có cả những thành công và thất bại. Trong quá trình đổi mới, mô hình kinh tế của CNXH ở Việt Nam được khái quát tại Đại hội IX (năm 2001): “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. 

Những ai đã từng nghiên cứu về kinh tế XHCN, mới thấy sự khó khăn như thế nào, khi gắn khái niệm “kinh tế hàng hóa”, “kinh tế thị trường” với CNXH. Tổng Bí thư viết: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(8)

Tổng Bí thư đã cụ thể hóa nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”(9)

“Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(10)

Điều băn khoăn đối với nhiều người và cũng là khó khăn trong thống nhất nhận thức về tính định hướng XHCN và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Khác với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây trong mô hình CNXH Xôviết, mà chúng ta từng áp dụng, ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước không “chỉ huy” nền kinh tế bằng một “kế hoạch pháp lệnh”, không can thiệp sâu, trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà “Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(11)

Về định hướng XHCN, Tổng Bí thư chỉ ra rằng: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công”(12)

Ngày nay, mọi quốc gia đều quan tâm giải quyết vấn đề xã hội, cho dù quốc gia đó có mô hình kinh tế như thế nào. Trên thế giới, hiện có ba cách giải quyết vấn đề xã hội cơ bản: (i) Dựa vào thị trường, nhà nước chỉ can dự tối thiểu; (ii) Nhà nước thu thuế của doanh nghiệp rất cao, dùng khoản tiền thuế đó để phân phối lại, giải quyết vấn đề xã hội; (iii) Mô hình Xô viết, lấy ngân sách (chủ yếu là nguồn thu từ các cơ sở sản xuất thuộc nhà nước), để chi phí cho các vấn đề xã hội. Mỗi mô hình như vậy có những thành công và hạn chế khác nhau. Vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào?

Nét độc đáo của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là, việc bắt đầu xây dựng một nền kinh tế thị trường không phải lặp lại lịch sử tự phát ban đầu của nó, cũng không dễ dàng như ở các nước đã ở giai đoạn phát triển thuần thục của nền kinh tế thị trường. 

Đối với một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp như Việt Nam, với hơn 93% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ tăng 62,8%(13), chắc chắn chúng ta không có nguồn lực đủ lớn, tích lũy từ tiền thuế của doanh nghiệp để chi trả cho bảo đảm xã hội. 

Vì vậy, thực hiện công bằng, tiến bộ trong từng chính sách, trong từng bước phát triển của kinh tế thị trường là cách thức tối ưu để vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm xã hội. Nền kinh tế thị trường cung cấp việc làm, hàng hóa dịch vụ, nâng mức sống, mức tiêu dùng ngày càng cao cho xã hội. Song song với đó, việc bảo đảm xã hội lại tạo ra nguồn lực, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cho thị trường, nuôi dưỡng thị trường. Trong nền kinh tế đó, các doanh nghiệp phải đề cao trách nhiệm xã hội, chia sẻ với người dân trong từng bước phát triển, trong giải quyết lao động, việc làm, mà không phải chờ đến lúc thật giàu, hoặc đóng thuế thật cao, rồi mặc cho sự điều tiết, phân bổ lại của Nhà nước. Một nền kinh tế như vậy phù hợp với văn hóa Việt Nam. Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ khắc phục được những hạn chế, khiếm, mà thấm đẫm tình tương thân, tương ái, nghĩa đồng bào và trách nhiệm xã hội.

Sự khác nhau giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và XHCN, mà cụ thể ở mô hình CNXH Việt Nam là gì? Tổng Bí thư chỉ ra “đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa” là “một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội”(14). Như vậy, “Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át”(15)

Tổng Bí thư khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(16). Tổng Bí thư cho rằng “đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội”(17). Đó là một mô hình CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

3. Nền tảng tinh thần của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam 

Khẳng định quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, Tổng Bí thư một lần nữa nhấn mạnh, “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng”(18)

Đó là một nền văn hóa “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(19). Như vậy, nền văn hóa đó có nội dung là bản sắc dân tộc, tâm hồn dân tộc, lối sống, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc được kết nối với những giá trị, những xu hướng tiến bộ chung của nhân loại. Nền văn hóa của mô hình CNXH Việt Nam cắm rễ trên mảnh đất hiện thực, đã khắc phục và vượt qua những quy tắc giáo điều mang tính trừu tượng, hình thức, thiếu sức sống, thiếu động lực nội sinh thực tế, từng được coi là nguyên tắc chung cho tất cả những người XHCN. 

Mục tiêu chung của nền văn hóa đó, như Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh... văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội(20)

Tổng Bí thư quán triệt quan điểm của Đảng về trọng tâm của việc xây dựng văn hóa “là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp”(21). Như Đảng ta đã khẳng định: “Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới”(22). Coi “phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(23)

Theo Tổng Bí thư, nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam “là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mĩ ngày càng cao”(24)

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng Bí thư chỉ ra một số nhiệm vụ trọng tâm, với những nội dung quan trọng: khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam; học tập theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh(25);  “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(26)

4. Chủ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chủ thể của mô hình CNXH Việt Nam là nhân dân Việt Nam, với phạm trù nhân dân theo nghĩa rộng nhất, đầy đủ và toàn diện nhất. Tổng Bí thư chỉ rõ: “Chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm “Nước lấy dân làm gốc”... cần chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích thiết thực của nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”(27)

Tổng Bí thư khẳng định, đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước”(28). Trong tất cả các nguồn lực để xây dựng CNXH, Tổng Bí thư cho rằng: “nguồn lực con người là quan trọng nhất”(29). Trong đó, “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển... Chống tư tưởng kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(30).

Qua hơn 35 năm đổi mới, cơ cấu xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi, các giai cấp, tầng lớp đều có vị trí, vai trò nhất định trong mô hình CNXH Việt Nam và cần phải được định vị, nhận thức rõ cho phù hợp với điều kiện mới. 

Trong bối cảnh đó, Tổng Bí thư yêu cầu: “Chú trọng phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(31). “Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta tiếp tục kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam... Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(32)

Đối với giai cấp nông dân, Tổng Bí thư yêu cầu cần phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; người nông dân cần có những thay đổi trong tư duy và hành động để có thể làm chủ được công nghệ, làm chủ được nền nông nghiệp hiện đại... để có thể đủ sức cạnh tranh toàn cầu và phát triển bền vững(33)

Ngoài giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, cuốn sách của Tổng Bí thư cũng làm rõ vai trò của của đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân và thế hệ trẻ Việt Nam trong xây dựng CNXH. Điểm mới trong mô hình CNXH Việt Nam là khẳng định rõ vai trò của đội ngũ doanh nhân. Tổng Bí thư cũng đặt ra yêu cầu “phát triển đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”(34)

5. Nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và thế giới

Đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện cách nhìn nhận của chúng ta về thế giới và định vị một nước Việt Nam XHCN trong cộng đồng quốc tế. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư một lần nữa nhấn mạnh đường lối đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(35)

Theo Tổng Bí thư, đường lối đối ngoại của Đảng lấy nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền của đất nước, nhưng giàu tính nhân văn, trọng lẽ phải, công lý, chính nghĩa, hòa hiếu, hòa bình, hữu nghị; “dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột; gắn với thực tiễn của thế giới, để đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của thời đại”(36)

Tổng Bí thư khẳng định, đường lối đối ngoại đó là sự kế thừa “những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta”, tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm ngoại giao thế giới làm nên bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại Việt Nam(37). Một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam!”(38)

Nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn, chúng ta đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. “Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, v.v.. Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Trong đó, Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới”(39)

6. Về con đường (phương thức) đi lên chủ nghĩa xã hội

Tổng Bí thư đã trình bày cách tiếp cận mới của Đảng ta, với cách nhìn biện chứng hơn, thực tiễn hơn, ngày càng đúng đắn hơn, trên cơ sở tổng kết thành tựu hơn 35 đổi mới đất nước. Cách tiếp cận mới đã khắc phục được cách tiếp cận đơn giản, như: coi những nhiệm vụ mà chúng ta thực hiện hằng ngày để xây dựng CNXH ở một nước kém phát triển với mục tiêu cuối cùng của CNXH, làm cho không ít quần chúng lầm tưởng rằng, CNXH chỉ có vậy, kém xa các nước tư bản chủ nghĩa. Tổng Bí thư cũng nhắc lại những nhận thức sai lầm trong thiết kế và xây dựng mô hình CNXH thời kỳ quá độ ở nước ta như: nhấn mạnh một chiều tính ưu việt của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu, mà không thấy được vai trò quyết định của sự phát triển lực lượng sản xuất, kèm theo đó sự công bằng, bình đẳng xã hội được hiểu là sự bình quân, cào bằng; không thừa nhận trong thời kỳ quá độ lâu dài, còn sự tồn tại của các thành phần kinh tế; định kiến và đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

Từ những bài học mà Đại hội VI đã chỉ ra, trên cơ sở thực tiễn công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Tổng Bí thư khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(40). Theo Tổng Bí thư, cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam:

“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(41).

Khi bàn về thời kỳ quá độ, Tổng Bí thư viết: “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(42) và “nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”(43)

Với vai trò là một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, Đảng ta phải giải quyết nhiều vấn đề lớn và mới không chỉ mang tầm quốc gia - dân tộc, mà còn mang tầm thời đại. Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tác phẩm lý luận của nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng đã từng kinh qua nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau, trăn trở và trải nghiệm với thực tiễn của thời kỳ đổi mới, đã cung cấp cái nhìn có tính tổng kết về lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng, cung cấp những giá trị phương pháp luận quan trọng, cho phép chúng ta tự hào, tự tin, khẳng định những nội dung cơ bản về mô hình CNXH Việt Nam, như là thành quả sáng tạo của Đảng và nhân dân ta trên con đường phát triển.

_Nguồn: LLCT__

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (14), (15), (16), (17), (18), (21), (22), (23), (24), (26), (27), (28), (29), (30), (31), (32), (34), (36), (38), (39), (40), (41), (42), (43) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.28, 28, 29, 29,  48, 104, 93, 25, 26, 25-26, 26, 26-27, 20, 21, 21-22, 22, 163, 164, 165, 164, 164-165,172, 239-240, 111, 52, 111, 110, 288, 110, 181-182, 201, 184-185, 46, 24, 25, 25.

(13) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2021, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.37.

(19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.75-76.

(20), (25), (33), (37) Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.163, 170-171, 300, 181.

(35) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.161-162.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét