Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.
Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hoá sự quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hoá chế độ chính trị ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”; những vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hoá, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo ; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc, các tôn giáo ; những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau :
Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo và giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế xã hội; mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam.
Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam như: truyền đạo trái phép để “tôn giáo hoá” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền.
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của chúng ta.
Trên lĩnh vực tôn giáo, những sự khác biệt giữa người có đạo với người không theo đạo cũng được sử đụng để cường điệu thành mâu thuẫn giữa cộng sản vô thần với nhân dân, khiến một bộ phận các tôn giáo trở thành lực lượng đối lập.
Trên lĩnh vực dân tộc, khối đại đoàn kết dân tộc cũng có các thách thức nghiêm trọng đến từ hoạt động gây chia rẽ giữa dân tộc Kinh với các dân tộc thiểu số, đặc biệt tại các vùng biên cương trọng yếu. Sự nuôi dưỡng, cổ vũ và cung cấp phương tiện cho các phong trào “ly khai” ở những vùng chiến lược như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc, với tính chất và đặc thù khác nhau nhưng đều có khả năng gây các điểm nóng, mất ổn định chính trị - xã hội nghiêm trọng, dẫn đến hoạt động phá rối an ninh và thậm chí bạo loạn, lật đổ chính quyền địa phương.
Vấn đề tôn giáo và dân tộc, cùng với vấn đề giai cấp có thể nói là ba vấn đề trụ cột nhất mà bất cứ nhà nước nào cũng phải thiết kế các cơ chế giải quyết. Ở những nưóc mà cơ cấu dân tộc và tôn giáo tương đối thuần nhất, các vấn đề này trong quá khứ ít được đưa thành trọng tâm. Với toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, tình hình trở nên rất khác. Bên cạnh các cuộc di dân (hợp pháp và bất hợp pháp), sự dịch chuyển lao động toàn cầu cũng như sự giao tiếp qua các phương tiện hiện đại đã khiến ngay cả các quốc gia vốn tương đối thuần nhất về cơ cấu sắc tộc và tôn giáo cũng phải thay đổi quan niệm.
Thách thức an ninh về dân tộc và tôn giáo lại càng phức tạp gấp bội khi chúng hòa quyện với nhau như ở Việt Nam, và hòa quyện với các vấn đề giai cấp, tức các vấn đề về kinh tế. Các giải pháp nếu chỉ hướng đến vấn đề kinh tế (tạo công ăn việc làm, thu nhập...) dù rất quan trọng lại luôn chưa đủ và thậm chí kém hiệu quả nếu không quan tâm đến đúng đối tượng để thay đổi nhận thức. Do vậy, về hình thức, người truyền đạo làm điều tốt đẹp, nhưng về mục đích bên trong, các hành động như vậy nhắm tới việc tạo nên sự chênh lệch về kinh tế và văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc, từ đó tác động tới nhận thức của đồng bào dân tộc với chính quyền, đặc biệt là chính quyền địa phương.
Tổng kết các kinh nghiệm ứng phó trong thời gian qua, bước đầu có thể nêu lên một số điểm chính trong kinh nghiệm ứng phó của chúng ta như sau:
Giữ vững các nguyên tắc cốt lõi: Không chấp nhận đa nguyên đa đảng; hòa nhập không hòa tan.
Thống nhất về quan điểm chỉ đạo chung: Đảm bảo an ninh về tư tưởng và thể chế chính trị phải là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn bộ hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng với lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt.
Nhấn mạnh phương châm ứng phó: Lấy giữ vững bên trong là chính, lấy “xây” là chính; tiến hành đồng bộ cả về địa bàn và lĩnh vực. Kết hợp chặt chẽ với ứng phó các thách thức khác, các nguy cơ khác như bốn nguy cơ chính đã được chỉ ra.
Linh hoạt và sáng tạo trong sử dụng các hình thức tiến hành: kết hợp phòng ngừa với chủ động tiến công.
Để vô hiệu hoá sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ đạo, về tổng quát, Việt Nam cần: “Nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích tình hình; nhận diện rõ đối tác, đối tượng; phát hiện từ sớm các mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự; kiên quyết không để bị động, bất ngờ, nhất là về mặt chiến lược. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, triển khai các biện pháp bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo tinh thần “gỉữ nước từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét