Tổng kết lý luận gắn với thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
“Chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp,
có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu,
nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học”(1). Trên
cơ sở quán triệt “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” từ cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng, bài viết làm rõ những nội dung cơ bản: lý tưởng, khát vọng vì độc
lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc Việt Nam; con người là chủ thể, là động lực
trung tâm và phát triển toàn diện; dân sinh - dân chủ - dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh; thể chế phát triển nhanh - bền vững gắn với phát triển bao trùm.
1. Lý tưởng, khát vọng vì độc lập, tự
do, phồn vinh, hạnh phúc Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát
triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc”(2) với những định hướng mục tiêu đến
năm 2030 và năm 2045(3) nhằm hiện thực hóa xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Các tiêu chí này thể hiện “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta”(4).
Theo Tổng Bí thư, xây dựng xã hội XHCN là kiến tạo một kiểu xã hội mới về
chất mà chỉ có thực tiễn mới cho câu trả lời xác đáng. Tiền đề cho lý tưởng
XHCN là thành công, hạn chế lịch sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại, của phong
trào công nhân và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới đang đấu tranh cho
“các thành tựu, giá trị văn minh”(5) của nhân loại; trong đó,
trước tiên, cơ bản là của công cuộc đổi mới - phát triển theo định hướng XHCN ở
nước ta. Tại Việt Nam, một tiền đề không thể thiếu trên con đường đi lên CNXH
là lý tưởng, khát vọng đổi mới sáng tạo vì độc lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc
của đất nước và của mỗi người dân.
Lý tưởng, khát vọng không phải là những huyễn tưởng xuất phát từ ngẫu hứng
nhất thời, chủ quan, duy ý chí, mà được khơi dậy, gây dựng từ thực tiễn, niềm
tin vững chắc vào thể chế phát triển đất nước vì độc lập, tự do, phồn vinh,
hạnh phúc, vào bản lĩnh, kinh nghiệm mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã tổng kết
được, nhất là từ thực tiễn công cuộc đổi mới với vị thế, uy tín của đất nước đã
đạt được trong hơn 35 năm qua. Lý tưởng, khát vọng nuôi dưỡng, thúc đẩy nhu
cầu, năng lực đổi mới sáng tạo vì mục tiêu tốt đẹp. Cả hai đều là ước mơ, giá
trị tốt đẹp, dù cao cả hay bình dị; trong đó, lý tưởng thiên về nguyên tắc, giá
trị có tính lý luận hơn. Cả hai đều là kết quả của nhận thức sâu sắc và dựa vào
một niềm tin nhất định; được thể hiện bằng tình cảm nồng cháy, trong sáng và ý
chí kiên cường.
Do vậy, phải tổng kết cả về lý luận và thực tiễn về lý tưởng, khát vọng đổi
mới sáng tạo vì độc lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc của đất nước và mỗi người
Việt Nam trên con đường đi lên CNXH đang được thể hiện cụ thể trong công cuộc
đổi mới - phát triển theo định hướng XHCN. Nhờ đó có thể làm rõ và cổ vũ cho
“động lực và nguồn lực quan trọng” này của đất nước nhằm đổi mới sáng tạo bằng thể
chế phát triển nhanh - bền vững gắn với phát triển bao trùm theo lý tưởng, khát
vọng XHCN. Lý tưởng hay khát vọng đó xuất phát từ tâm khảm của mỗi người và của
toàn dân tộc Việt Nam. Đây là một trạng thái tinh thần của “gió ngày mai thổi
lại” để mang “hồn thời đại bay cao” (Tố Hữu) với sự thôi thúc mạnh mẽ từ niềm
tin vào thể chế phát triển của Việt Nam. Đây thực chất là chất men của chủ
nghĩa yêu nước khi vận nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc đã đến. Lý tưởng,
khát vọng đó có giá trị như lực lượng vật chất tạo nên “sĩ khí quốc dân” khi
mỗi người và toàn dân Việt Nam có niềm tin vào thể chế phát triển của đất nước,
từ đó, chủ động, tích cực đổi mới sáng tạo, đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm hiện
thực hóa lý tưởng, khát vọng XHCN được thể hiện ở mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc tổng kết lý luận gắn với thực tiễn đổi mới sáng tạo nhằm thực hiện lý
tưởng, khát vọng vì mục tiêu đó sẽ làm sáng tỏ và cổ vũ cho phương thức phát
triển hợp quy luật trên con đường đi lên CNXH dưới tác động của kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng
trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, “xã hội thông minh 5.0”...). Từ đó, làm rõ được
các cuộc vận động, phong trào đổi mới sáng tạo một cách đồng bộ, toàn diện về
cách nghĩ, cách làm theo phương châm: đổi mới sáng tạo trong tư duy, trước hết
trong tư duy kinh tế, trong thực hiện ba đột phá chiến lược (thể chế, nguồn
nhân lực, hạ tầng), trong công tác tổ chức và cán bộ, trong phong cách
làm việc, sinh hoạt... trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo kiểu
“Make in Vietnam”. Bởi chỉ đổi mới sáng tạo theo kiểu “Make in Vietnam” nước ta
mới trở thành một nước phát triển phù hợp với lý tưởng XHCN và công cuộc đổi
mới - phát triển theo định hướng XHCN thay vì kiểu “Made in Vietnam” vốn chỉ
bằng lòng với tiêu chí một nước đang phát triển, do đó có nguy cơ chệch hướng
XHCN.
Về mặt lý luận, có thể ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển,
từng bước định hình được lý tưởng, khát vọng XHCN ngày càng thiết thực hơn,
sáng rõ hơn trong cách thức phân kỳ của con đường đi lên CNXH thông qua công
cuộc đổi mới - phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta, nhằm trả lời câu hỏi:
“chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?(6).
Về mặt lý luận - thực tiễn, có thể nuôi dưỡng và thúc đẩy tầm nhìn để kiên định
lý tưởng, khát vọng XHCN một cách thực tế bằng cách gắn với xây dựng, thực hiện
Cương lĩnh của Đảng, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển mới trong nước và quốc tế trên con
đường đi lên CNXH. Từ đó, cùng với việc “nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu
sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từng bước
khắc phục những quan niệm giản đơn trước đây”(7) về CNXH, sẽ
đưa tinh thần phụng sự đổi mới - phát triển theo định hướng XHCN - phụng sự Tổ
quốc vào đời sống xã hội, đặc biệt vào thực tiễn hoạt động của giới trẻ và
doanh nghiệp. Tinh thần này trở thành triết lý phát triển nhanh - bền vững gắn
với phát triển bao trùm sẽ tạo nên kiểu “tư duy toàn cầu - hành động dân
tộc” nhằm góp phần xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc
sánh vai cùng các cường quốc năm châu và phục vụ nhân loại tiến bộ.
2. Con người là chủ thể, là động lực
trung tâm và là mục tiêu phát triển
Hiện nay, việc đề cao “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân”(8) đòi
hỏi thực hành, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân phải
kết nối với phát huy vai trò chủ thể, vị trí động lực trung tâm của con người
và phát triển toàn diện con người.
Thực tế cho thấy, chỉ con người với lý tưởng, khát vọng XHCN mới là chủ thể
của tất cả các nguồn lực, đồng thời là động lực trung tâm của tất cả các nguồn
lực trên con đường đi lên CNXH. Cho nên, việc xuất phát từ con người và “lấy con
người làm trung tâm” là tất yếu, nhưng nếu con người không được trao quyền và
được bảo đảm quyền của mình với tư cách là người chủ - làm chủ trong thể chế
dân chủ XHCN thì không thể phát huy được vị trí chủ thể, vai trò động lực trung
tâm của con người.
Vì thế việc tổng kết lý luận - thực tiễn về vấn đề này là để làm rõ việc
“không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”(9) nhằm bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân. Thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ nhằm
thực hành, phát huy dân chủ tập thể, quyền làm chủ tập thể, mà trước tiên và cơ
bản phải là làm chủ bản thân. Cho nên phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú trọng vào xây dựng, hoàn thiện thể
chế pháp quyền của bộ máy nhà nước, mà đồng thời cũng phải chú ý đúng mức đến
việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân với
tính cách là các quan hệ nền tảng, có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của
bộ máy nhà nước trong chỉnh thể chung của thể chế nhà nước pháp quyền XHCN.
Từ đó, kịp thời nắm bắt, điều tiết, tổng kết những quyền mới phát sinh
trong vai trò chủ thể, vị trí động lực trung tâm của người dân nhằm phát triển
toàn diện, như: quyền an ninh và an toàn thông tin mạng, quyền kinh doanh và
thanh toán trên nền tảng internet, quyền giáo dục và sinh hoạt tôn giáo, văn
hóa trực tuyến, quyền bí mật đời tư trên mạng xã hội, quyền an toàn thân thể,
danh dự, nhân phẩm của trẻ em, quyền của nhóm LGBT... nhằm làm sáng tỏ: để xây
dựng xã hội do nhân dân làm chủ, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện thì con người luôn giữ vai trò chủ thể,
vị trí vừa là động lực trung tâm, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới - phát triển
theo định hướng XHCN. Bởi xã hội XHCN là một xã hội “phát triển thực sự vì con
người, chứ không vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(10).
Thể chế pháp quyền của Nhà nước XHCN không chỉ thể hiện ở mục tiêu và bản
chất bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà còn được thể chế hóa thành
công cụ, phương tiện để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong
thực tế. Bởi lẽ, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế và phân hóa
giàu nghèo, phân hóa xã hội như hiện nay, mỗi chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội chỉ có thể được lựa chọn, xác định chính xác và triển khai,
thực hiện một cách hiệu lực, hiệu quả trên thực tế khi: (1) Xuất phát và nhắm
đến đúng thành phần kinh tế, giai tầng xã hội cần được thụ hưởng quyền lợi
chính đáng khi xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách; (2) Phân rõ chủ thể
được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi đó;
(3) Lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của
người dân vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách; (4) Bảo đảm sự
công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện.
Đây chính là các tiêu chí của cách tiếp cận dựa trên quyền con người và
cũng là công cụ, phương tiện cần phải có trong thực hành, phát huy dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, kể cả trong “Nghiên cứu, ban hành
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”(11).
3. Dân sinh - dân chủ - dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(12). Việc vận dụng, phát triển sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền dân tộc (chủ quyền quốc gia, quyền tự
quyết và quyền phát triển) phải luôn gắn với bảo đảm quyền con người, quyền
bình đẳng của các dân tộc thiểu số và của tất cả các cộng đồng khác, đặc biệt
là quyền sinh kế (dân sinh) và dân chủ. Bởi lẽ, “nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(13).
“Quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một...
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho
nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(14).
Trong công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta sử dụng cả hai thuật ngữ nhân
quyền (quyền con người) và quyền công dân, đồng thời luôn gắn với dân sinh, dân
chủ. Bởi lẽ, dân chủ là dân quyền, trước hết là quyền sinh kế và quyền chính
trị, cho nên giành lấy và bảo đảm hai loại quyền này sẽ thúc đẩy bảo đảm các
quyền con người khác (dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa); bảo đảm quyền dân tộc
- quốc gia phải trên cơ sở bảo đảm dân sinh, dân chủ (và ngược lại).
Việc tổng kết lý luận - thực tiễn về mối quan hệ này sẽ góp phần làm sáng
tỏ: trên con đường đi lên CNXH, bên cạnh việc bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực
của nhân dân. Trong “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”(15). Cho nên, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Dân sinh
là cội nguồn sâu sa, là bản lề và với tính cách là bản chất của chế độ XHCN,
dân chủ bảo đảm cho con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trung tâm trên
con đường đi lên CNXH. Đồng thời “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các
dân tộc, tôn giáo”(16).
Từ đó, chỉ ra sự cần thiết phải tăng cường xây dựng mối quan hệ giữa thực
hành dân chủ, thể chế pháp quyền và đại đoàn kết toàn dân tộc trong Nhà nước
pháp quyền XHCN. Hiện nay, do khung khổ pháp lý lớn hơn, toàn diện hơn của cơ
chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(17) được
xác định tại Đại hội XIII của Đảng, cho nên: (1) Kiến nghị Quốc hội nâng Pháp
lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn (năm 2007) thành luật
cũng như hoàn thiện các nghị định về thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp
nhằm kịp thời ghi nhận, bảo đảm việc thực hiện “dân giám sát, dân thụ hưởng”
cũng như tổng thể cơ chế đó; (2) Tạo động cơ khuyến khích tham gia thực hành
dân chủ trực tiếp ở cơ sở, ví dụ bổ sung tiêu chí về tham gia vào các công việc
cộng đồng trong các tiêu chí về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa; (3)
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền trong hoạt động tư pháp theo
phương châm: “Phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(18); (4) Đấu
tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm, vi phạm và những quan điểm sai trái,
thù địch nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh xã
hội và an ninh quốc gia.
4. Thể chế phát triển nhanh - bền vững
gắn với phát triển bao trùm
Lý tưởng, khát vọng vì Việt Nam độc lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc phải
diễn ra trên cơ sở một thể chế chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nhất định.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển ngày càng cao như hiện nay, để
tiến lên CNXH ở một nước đang phát triển như Việt Nam, trước tiên và cơ bản
phải xây dựng, thực hiện được thể chế phát triển nhanh - bền vững gắn với phát
triển bao trùm nhằm kiến tạo niềm tin, khơi dậy lý tưởng, khát vọng đổi mới
sáng tạo của người dân.
Việc tổng kết lý luận - thực tiễn về thể chế phát triển nhanh - bền vững
gắn với phát triển bao trùm nhằm làm rõ “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính
quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam
là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(19).
Đồng thời, “phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ, công bằng xã hội”(20), để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần
của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Qua tổng kết lý luận - thực tiễn về vấn đề này sẽ góp phần làm rõ các khía
cạnh sau:
- Phát triển bao trùm để “không để ai bị bỏ lại phía sau” thực chất là kiểu
phát triển luôn bảo đảm các kết nối theo chuỗi sản xuất, dịch vụ, tiêu dùng;
giữa hoạt động kinh tế - xã hội của các thành phần, khu vực kinh tế khác nhau;
giữa kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội; giữa trong và ngoài
nước; giữa con người với kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường... nhằm góp
phần “nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn”(21) như Tổng
Bí thư đã xác định.
- Việc thực hiện phát triển nhanh - bền vững gắn với phát triển
bao trùm là nhằm đáp ứng yêu cầu, nhu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
để giảm nguy cơ tụt hậu, đồng thời tăng cường năng lực đi tắt, đón đầu, thích
ứng với nền kinh tế thị trường, các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất
hiện đại cũng như các phong trào nhân văn, dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Bởi
lẽ, bản chất của toàn cầu hóa là liên kết các hoạt động, giao lưu quốc tế về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường. Vì thế, các quan hệ toàn cầu
mang tính khách quan nhiều hơn do tác động của các cuộc cách mạng khoa học,
công nghệ hiện đại, các công ty xuyên quốc gia, các mạng lưới thiết chế và thể
chế quốc tế... so với giai đoạn quốc tế hóa. Do đó, hội nhập quốc tế là tất yếu
và thực chất là một sự liên kết có tính cạnh tranh để chủ động sinh tồn, phát
triển, đồng thời giảm đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực đến lợi ích quốc
gia - dân tộc. Việc tổng kết lý luận - thực tiễn về vấn đề này sẽ gợi mở cho
việc xác định lý tưởng, khát vọng đổi mới sáng tạo để mạnh dạn “đi tắt, đón
đầu”, tận dụng những cơ hội mà các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất quốc
tế... mang lại nhằm xây dựng thành công Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” với các tiêu chí phát triển vào năm 2030 và năm 2045 như
Đại hội XIII của Đảng đã xác định.
- Làm rõ việc kết nối phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
môi trường với sinh kế và đời sống xã hội của người dân để thực hiện mục tiêu
cuối cùng và cao nhất là bảo đảm mỗi người và cộng đồng phát triển toàn diện.
Cần nhấn mạnh là, phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
môi trường dù đạt thành tựu đến đâu mà con người không được tái tạo bền vững về
thể chất, tinh thần, giới tính người và các thế hệ người thì hầu như không có ý
nghĩa thực tế. Chẳng hạn hiện nay, sự giảm sút dân số là một dấu hiệu tiêu cực
về tính chất chưa bền vững, chưa bao trùm trong phát triển tại một số nước phát
triển. Qua đó sẽ hướng quá trình phát triển nhanh - bền vững gắn với bao trùm một
cách hài hòa giữa hoạt động sinh kế của người dân theo thể chế kinh tế thị
trường, với sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN và quan hệ con người -
quan hệ công dân trong đời sống xã hội nhằm tạo nên sự bình đẳng, không phân
biệt đối xử giữa các giai tầng trong xã hội, giữa nam và nữ với mức độ chênh
lệch giàu nghèo, chênh lệch đời sống vùng miền không lớn. Nhờ đó bảo đảm công
bằng xã hội và phát triển con người toàn diện theo chỉ số phát triển con người
(HDI) và bình đẳng giới (GDI), nhằm phát triển bền vững đời sống xã hội của con
người, đặc biệt tái sản sinh bền vững con người, giới tính và các thế hệ người.
Đây là tiêu chí cốt lõi quán xuyến quá trình phát triển nhanh - bền vững gắn
với bao trùm trên con đường đi lên CNXH ở nước ta.
- Kịp thời phát hiện những nội hàm mới của phát triển nhanh - bền vững gắn
với phát triển theo chuỗi hay bao trùm. Đây là yêu cầu đang rất cần thiết, bởi
ngày nay, sự phát triển của bất cứ lĩnh vực đời sống xã hội nào cũng không thể
diễn ra một cách biệt lập mà nó có sự kết nối bao trùm với sự phát triển của
các lĩnh vực khác. Nếu không có sự kết nối bao trùm giữa chúng thì rất khó thực
hiện sự phát triển của bản thân lĩnh vực kinh tế cũng như của bản thân lĩnh vực
xã hội...
Tính chất phát triển bao trùm hay phát triển theo chuỗi “hai trong một”
hoặc “nhiều trong một” không làm nội hàm của phát triển trở nên thiếu trọng
tâm, trọng điểm hay làm lu mờ mũi nhọn đột phá có tính đặc thù của riêng kinh
tế hay xã hội, văn hóa, môi trường. Công nghiệp 4.0, tăng trưởng xanh, kinh tế
tuần hoàn, xã hội thông minh 5.0... sẽ giúp con người xử lý thông minh, hiệu
quả những vấn đề phát sinh trong quá trình kết nối theo chuỗi. Kinh
nghiệm của Liên hợp quốc trong triển khai, thực hiện Chương trình phát triển
thiên niên kỷ giai đoạn 2001-2015 với 8 mục tiêu và Chương trình nghị sự phát
triển bền vững giai đoạn 2016-2030 với 17 mục tiêu cho thấy, càng mở rộng nội
dung, mục tiêu phát triển bền vững thì càng mở rộng nội hàm phát triển bao
trùm.
- Cuối cùng, sẽ nâng cao năng lực phát triển trên con đường đi lên CNXH,
chủ động thích ứng với trạng thái “bình thường mới” hiện nay nhằm thúc đẩy lý
tưởng, khát vọng đổi mới sáng tạo như: đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế và đổi mới
mô hình tăng trưởng gắn với cải cách thể chế, đáp ứng được yêu cầu chuyển mạnh
sang nền kinh tế số, chính quyền số và xã hội số; tìm kiếm hướng phát triển
mới, thị trường mới (như nâng cao năng lực của các đầu tàu kinh tế Bắc, Trung,
Nam, chú ý phát hiện, bồi dưỡng một số đầu tàu kinh tế mới ở cả ba miền...);
đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao trong lãnh đạo, quản trị và
khoa học, công nghệ; đẩy mạnh phân cấp, trao quyền, ủy quyền, phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương, cơ sở theo hướng bảo đảm
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhằm khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo
của địa phương, cơ sở...; xây dựng chế độ khuyến khích và bảo vệ cán bộ, đảng
viên dám đột phá, đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế
pháp quyền của bộ máy nhà nước và của cả người dân nhằm thực hiện công khai,
minh bạch nghĩa vụ bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân.
___Nguồn: LLCT___
(1), (4), (5), (6), (7), (9), (10), (15), (16), (19), (20), (21) Nguyễn Phú
Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.17, 23, 25, 23, 23, 28, 21, 28, 29, 26-27, 27,
55.
(2), (3), (8), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.34, 34 - 36, 51, 177.
(12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.175, 64.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.41.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét