Các thế lực thù địch với cách nhìn phiến diện cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng xã hội không có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy nghĩ của mình... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật!
Hiện nay, các phần tử phản
động, chống phá tiếp tục sử dụng luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do thông
tin, tự do Internet, mạng xã hội ở Việt Nam nhằm mục đích chống phá nền dân
chủ, kích động, chia rẽ trong xã hội, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp
vào nước ta. Chúng cho rằng, ở Việt Nam không có tự do thông tin, tự do mạng xã
hội, mạng xã hội bị kiểm duyệt gắt gao…
Ở Việt Nam, mạng xã hội bắt đầu
du nhập vào từ những năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog).
Đến nay, có khoảng hơn 300 trang mạng xã hội khác nhau đã đăng ký hoạt động và
có khoảng trên 76 triệu người dùng mạng xã hội. Trong đó, Facebook là mạng xã
hội phổ biến nhất vì nhờ có thiết kế thuận lợi cho người sử dụng khi tạo lập
tài khoản cá nhân, cũng như những tính năng trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc,
quan điểm cá nhân với những người cùng nhóm, cùng sở thích... nên đã thu hút
được nhiều thành viên tham gia. Tiếp sau Facebook là các trang My Space,
Twitter, các blog…
Với cơ chế hoạt động của mạng xã hội có tính chất tương tác cao, “cư dân mạng”
dễ dàng chia sẻ những thông tin cá nhân với nhau, nên đã thu hút số người tham
gia ngày càng đông, trong đó có giới trẻ. Điều này đã tạo ra những mặt thuận
lợi cho mọi thành viên khi tham gia mạng xã hội, đó là có thể chia sẻ cũng như
tìm kiếm những thông tin cần thiết phục vụ nhu cầu hoạt động riêng của mỗi
người. Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin chính thống, bổ ích, có tính giáo
dục, còn có các thông tin không chính thống, sai sự thật, xuyên tạc, cổ xúy cho
lối sống lệch chuẩn cũng được đưa lên mạng xã hội với các mục đích khác nhau.
Thời gian gần đây, tình trạng sử dụng mạng xã hội để lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, vu khống, nói xấu, kích động… diễn ra ngày càng phức tạp và tinh vi, gây
mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự và công việc của cán bộ, công
chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2022,
cơ quan điều tra các cấp của tỉnh đã phát hiện 8 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
trong đó có 5 vụ được thực hiện qua Internet. Ngoài ra, qua công tác nắm tình
hình, ghi nhận thông tin hành chục vụ việc liên quan đến tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản thông qua mạng viễn thông, mạng xã hội với phương thức, thủ đoạn
hoạt động mới, ngày càng tinh vi, gây thiệt hại lớn về tài sản của người dân,
gây bức xúc trong dư luận xã hội…
Mạng xã hội đã và đang trở
thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại tư
tưởng; làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước và mạng xã hội tác động tiêu
cực đối với sự phát triển văn hóa, nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc.
Vì vậy, cùng với việc phát triển mạng xã hội, cần phải có sự quản lý để phát
huy tốt nhất những mặt tích cực mà mạng xã hội mang lại.
Các thế lực thù địch với cách
nhìn phiến diện cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng xã hội không
có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy
nghĩ của mình... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật, bởi vì
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các
quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do thông tin, tự do
Internet. Thực tế, chúng ta đạt được những thành tựu trong phát triển kinh tế
như ngày nay, một phần là nhờ chúng ta tận dụng tốt cơ hội từ Internet, chính
điều kiện phát triển tự do về Internet và mạng xã hội đã góp phần quan trọng
trong xây dựng, phát triển đất nước; điều này đã là “một phần tất yếu” của các
tầng lớp xã hội.
Thông qua các trang mạng xã
hội, người dân có thể bày tỏ thông tin và chính kiến của mình; không những thế
còn có nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa
phương đã sử dụng Internet, mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục
hành chính và liên hệ trực tiếp với người dân... Những việc đang diễn ra hằng
ngày, hằng giờ ở Việt Nam đã chứng minh rằng ở Việt Nam không có chuyện đàn áp
mạng xã hội, mà trái lại còn được Đảng, Nhà nước bảo đảm sự phát triển tự do.
Thực hiện quyền tự do Internet, mạng xã hội luôn được đặt trong khung khổ pháp
luật. Nhờ đó mới bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động lợi
dụng mạng xã hội, Internet để vi phạm pháp luật Việt Nam. Theo đó, trong thời
gian qua, Nhà nước Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: ban hành
các văn bản pháp luật (Luật Báo chí năm 2016; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016;
Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số 72/2013/NÐ-CP quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ
thông tin và tần số vô tuyến điện; Quy định về những điều đảng viên không được
làm…) triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng có
hoạt động lợi dụng Internet, mạng xã hội vi phạm pháp luật. Ngày
26-10-2021, UBND tỉnh Kon Tum ban hành văn bản số 3855/UBND-KGVX yêu cầu các
sở, ban, ngành thuộc tỉnh và UBND các huyện, thành phố tăng cường nâng
cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong sử dụng mạng xã
hội… Điều này là hoàn toàn phù hợp và không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia
trên thế giới đã thực hiện như vậy. Ngay ở Mỹ, quốc gia tự cho mình là “đất
nước tự do”, Quốc hội nước này đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm xử lý,
ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để khủng bố, kích động bạo lực
hay vi phạm sở hữu trí tuệ... Do đó, ở Việt Nam không hề có chuyện đàn áp mạng
xã hội, hay tra tấn trái pháp luật bất kỳ blogger nào. Rõ ràng, đằng sau những
thông tin bịa đặt đó là âm mưu chính trị của các thế lực thù địch nhằm kích
động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng ta.
ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thời đại ngày nay,
mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và các quốc gia
hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện cụ thể. Điều
đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.
Thế nhưng, hiện một
số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ chức thù địch, đối
tượng phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài đang tìm cách đi
ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. Các đối tượng tìm kiếm sự can thiệp từ
bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích chính trị xấu.
Chẳng hạn, các đối
tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015
(sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh
quốc gia như: Điều 109 "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân"; Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông
tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam". Hay
như Điều 331 "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" thuộc Chương XXII
về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính...
Thực chất, việc kêu
gọi xóa bỏ các điều luật này xuất phát từ các đối tượng có âm mưu, hoạt động
chống phá Đảng, Nhà nước. Vậy, mục đích của các đối tượng kêu gọi xóa bỏ các
điều luật này là gì?
Thứ nhất, các đối
tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi “vùng cấm” của luật pháp, muốn đứng ngoài
vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị chế tài pháp luật xử
lý. Các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai an toàn, nằm trong “nhóm
lợi ích” vượt ra ngoài sự quản lý của pháp luật để tiến hành các hoạt động
chống phá Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà nước; thành lập các tổ chức
chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị pháp luật
cấm đoán.
Thứ hai, các đối
tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các hoạt động
tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự chú ý cho
dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi
nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có các bài
viết chống phá Việt Nam như đài RFA, RFI... Các hoạt động kêu gọi nhằm đánh lạc
hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam đang “rối
ren”; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để
đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.
Thứ ba, tất cả các
hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm ngoài âm mưu
tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà
nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần chúng toàn xã
hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc
kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam nhằm xuyên tạc,
vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân chủ, nhân
quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để “bóp nghẹt” quyền tự do dân
chủ, các quyền căn bản của công dân được Hiến định.
Các đối tượng chống
phá muốn xóa bỏ các điều luật nói trên đều nằm trong âm mưu, ý đồ hoạt động xâm
phạm an ninh quốc gia và đây không phải là thủ đoạn mới. Các Bộ luật Hình sự
trước đây khi ban hành và thực thi thì các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động
cũng tìm cách đả phá, đòi huỷ bỏ những điều luật mà họ cho rằng “lạc hậu”, “trói
cột”, “bịt miệng”…
Thời gian qua, đã có
nhiều đối tượng phạm tội, bị truy tố theo các tội danh quy định tại Điều 109,
Điều 117, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Trong đó,
phạm tội quy định tại Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” có thể kể đến các đối tượng như: Nguyễn Đình Thành (SN 1991, trú tại
xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, Bình Dương), Nguyễn Năng Tĩnh (SN 1976, trú tại
xóm 11, xã Quỳnh Hưng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), Nguyễn Đức Hùng (trú tại
phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh)… Các đối tượng này đều có hành vi
làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm
chống Nhà nước Việt Nam. Những hành vi này ảnh hưởng đến an ninh trên lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng, tác động đến đời sống tinh thần và sự thống nhất về nền tảng
tư tưởng chính trị, làm ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân vào hệ
thống chính trị… Hành vi phạm tội của các đối tượng đều bị truy tố, xử lý theo
tội danh, điều khoản tương ứng, đúng quy định pháp luật.
Thực tế, không phải
vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các đối tượng đều hiểu
rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp luật, là phạm tội,
nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội.
Thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần cảnh cáo, nhắc
nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất chấp, cố tình
thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với các điều khoản
tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên của cơ quan bảo
vệ pháp luật. Điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật và việc xử lý
đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các phần tử tham gia các
tổ chức phản động, chống phá Nhà nước).
Một nguyên tắc trong
xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể đứng
ngoài pháp luật. Dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì khi vi phạm đều xử lý
bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm đầu, cố tình thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm… thì sẽ bị
tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì nhận thức thấp kém, phạm
tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành khẩn khai báo… thì được
giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử, luận tội, toà án xem xét công và tội rõ ràng,
công minh.
Việc điều tra, truy
tố, xét xử các bị can, bị cáo tuân thủ theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ
luật Tố tụng hình sự, quá trình xét xử đảm bảo việc tranh tụng dân chủ trước
toà. Các vụ án xét xử bị cáo theo các tội danh mà các đối tượng thường xuyên có
hoạt động kêu gọi xóa bỏ như Điều 109, Điều 117, Điều 331 Bộ luật Hình sự cũng
đảm bảo theo quy định, nguyên tắc đó. Các hoạt động tố tụng đều thực hiện theo
các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, thể hiện sự công khai, minh
bạch, trách nhiệm trong các hoạt động công tố và các bản án được xem xét khách
quan, người dân ủng hộ, điều này cũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ổn định chính trị -
xã hội là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bài học từ một số quốc gia vùng Trung Đông, Bắc Phi, Nam Mỹ… cho thấy, khi xã
hội bất ổn, rối ren, hậu quả khủng hoảng đến với người dân là không thể lường,
sự bất ổn đó tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, làm đảo lộn đời sống
vật chất, tinh thần của người dân. Và một trong những nguyên do dẫn tới sự bất
ổn đó là có bàn tay chống phá của các thế lực xấu, sự bào mòn các giá trị căn
bản của luật pháp và xã hội.
Do đó, bảo vệ sự ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật là yếu tố căn
bản, góp phần tạo nên một xã hội công bằng, bền vững, loại trừ các nguy cơ can
thiệp, chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đó là mục tiêu tối thượng trong
công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Việc đòi bỏ
điều luật này, điều luật kia dưới vỏ bọc dân chủ, nhân quyền chỉ là chiêu trò,
thủ đoạn của các thế lực chống phá nhằm gây rối ren, bất ổn xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét