KHẮC PHỤC NHỮNG BIỂU
HIỆN LỆCH LẠC TRONG HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra một trong 9 biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, đó là: “Nhận thức
sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị;
lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Quán triệt và triển
khai thực hiện chủ trương của Đảng, việc học tập, nghiên cứu và vận dụng
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành nền nếp trong tổ chức thực hiện và đạt nhiều
kết quả quan trọng, là cơ sở để thực hiện có hiệu quả công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới.
Tuy nhiên,
trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn còn một số biểu hiện nhận thức lệch lạc, thiếu đúng đắn về vấn
đề có tầm quan trọng đặc biệt này. Nguyên nhân là do một bộ phận cán bộ, đảng
viên ngại học, lười học, lười nghiên cứu; trong nghiên cứu không có phương pháp
khoa học, hoặc không nghiên cứu thấu đáo, nghiên cứu lý luận thiếu tính thực
tiễn, minh họa đường lối, quan điểm nhưng chưa cắt nghĩa đủ độ sâu sắc với vấn
đề thực tiễn đặt ra, dẫn tới hiểu và vận dụng không đúng tư tưởng Hồ Chí
Minh. Loại ý kiến này-hoặc vô tình hay hữu ý-đều có thể tiếp tay cho
các quan điểm thù địch, sai trái, cơ hội chính trị lợi dụng nhằm chống phá Đảng.
Để học tập,
nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn cách mạng,
thích ứng với tình hình mới và đạt hiệu quả thiết thực, góp phần bảo vệ vững chắc
nền tảng tư tưởng của Đảng, cần khắc phục những sai lệch sau:
Thứ nhất, khắc phục tình
trạng ngại học, lười học lý luận chính trị nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng; xem nhẹ lý luận, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm.
Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của bệnh ngại học, lười học lý luận
chính trị của cán bộ, đảng viên, đó là: “Chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào
công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện
tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa
công tác và học tập. Hoặc là sau một thời kỳ học tập tại chức có cán bộ phàn
nàn trước những khó khăn của việc đọc tài liệu, khó khăn đào sâu suy nghĩ”.
Nhận thấy những
nguy hại của căn bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng
viên, Đảng ta cũng đã chỉ rõ, lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên
tiếp nhận những thông tin mới cũng là biểu hiện của sự suy thoái. Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra một trong 9 biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, đó
là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập
lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Vì
vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh, phải “khắc
phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”.
Thứ hai, khắc phục biểu hiện
tách rời lý luận với thực tiễn; không thấy sự thống nhất giữa tư tưởng Hồ Chí
Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nghiên cứu lịch
sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Người có nguồn
gốc lý luận chủ yếu từ Chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngày 12-7-1946, trả lời phóng
viên trong cuộc họp báo tại biệt thự Roayan Môngxô, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa.
Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Hồ Chí Minh không bao giờ đối
lập hoặc “tách mình” ra khỏi quan điểm, lập trường tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin để đưa ra các quan điểm riêng, đúng như Người đã nói: “Cố
gắng vận dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong hoàn cảnh
cụ thể của nước mình”.
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu của sự hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh, bởi vì Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, đặc biệt là những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời, đặt nền tảng vững chắc cho những vấn đề có tính nguyên tắc về lập
trường quan điểm và phương pháp chỉ đạo cách mạng. Những phạm trù cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên
cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện
chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây để
hình thành tư tưởng của mình.
Bản chất của
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, “tuy hai
mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, những quan điểm tách rời Chủ nghĩa Mác-Lênin với
tư tưởng Hồ Chí Minh, không nhận thức được sự thống nhất giữa tư tưởng Hồ Chí
Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, hoặc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận Chủ
nghĩa Mác-Lênin đều sai trái, có dụng ý xấu.
Thứ ba, khắc phục khuynh hướng
cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh “không phải là một hệ thống” mà chỉ là những
quan điểm chỉ đạo thực tiễn của Người.
Cần phải khẳng
định rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”, nghĩa là bao quát
nhiều lĩnh vực, nhưng không phải tất cả mọi vấn đề đều gắn với tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ở đây cần hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh như là những tư tưởng chính trị
theo nghĩa rộng, gồm tư tưởng về mục tiêu cách mạng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
về mục đích cách mạng: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; về lực lượng cách mạng: Toàn dân tộc lấy công-nông làm gốc; về tổ
chức cách mạng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận đoàn kết toàn dân; về
phương pháp cách mạng: Động viên toàn dân, tổ chức toàn dân... Do đó, yêu
cầu phương pháp luận khi nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên bình diện
tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ chặt chẽ giữa
các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng
đó quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do.
Nhận thức như
vậy trong nghiên cứu và vận dụng sẽ tránh được các khuynh hướng sai lầm và
xuyên tạc cho rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát
biểu ngắn gọn hoặc quan điểm chỉ đạo thực tiễn của Người; hoặc cái gì cũng quy
về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng của Người chỉ gắn với những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, khắc phục khuynh
hướng đơn giản hóa, tầm thường hóa hoặc đi sâu vào tầm chương trích cú, xa
rời thực tiễn cách mạng.
Hồ Chí Minh là
một nhà văn hóa lớn đạt đến sự hòa quyện nhuần nhuyễn lý trí với tình
cảm, sự gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản
lĩnh tinh nhạy của một chính khách và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân
dân. Trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo nước
ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lý luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế nhuần
nhuyễn của những đường nét triết lý phương Đông và văn hóa phương Tây, vừa dân
tộc, vừa quốc tế. Đặc điểm nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí
Minh không trộn lẫn vào đâu được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng
lớp nhân dân một cách dễ dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa
rất truyền thống, vừa rất hiện đại.
Khi nghiên
cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề quan trọng là ở chỗ nhận ra
đâu là nét đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua việc làm, qua cách sống,
qua lời nói, qua bài viết, qua sự nghiệp cách mạng của Người. Đừng cố tìm
và không nên tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có sẵn, vì
như vậy cũng vô hình trung là xuyên tạc, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Thứ năm, đấu
tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều; đồng
thời bảo vệ, phát triển và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Sức sống mãnh
liệt của Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ ở những
nguyên lý, những quan điểm do các lãnh tụ nêu lên mà còn ở sự vận dụng
sáng tạo, bảo vệ và phát triển của các thế hệ tiếp theo. Chính sự vận dụng sáng
tạo, bảo vệ và phát triển đó làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trường tồn và ngày càng có sức mạnh to lớn. Có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh là một
nhà lý luận-thực tiễn. Người xây dựng lý luận, vạch cương lĩnh, đường lối, chủ
trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Và từ thực
tiễn lãnh đạo cách mạng, Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển,
cho nên tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh luôn sáng tạo, không lạc hậu, giáo điều.
Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm,
bài viết mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới
sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu.
Hơn nữa, Hồ
Chí Minh có một phong cách nói và viết rất ngắn gọn không theo lối viết kiểu
hàn lâm. Vì vậy, chỉ căn cứ vào bài viết, bài nói, tác phẩm của Người là chưa đầy
đủ, mà phải thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của Người. Vấn đề đặt ra là
để phù hợp với chính những lời nói và việc làm của C.Mác, V.I.Lênin, Hồ Chí
Minh, trong nghiên cứu khoa học cũng như vận dụng vào hoạt động thực tiễn,
chúng ta cần chú trọng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: Tuyệt đối trung
thành, vận dụng sáng tạo, bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và xét lại, chủ nghĩa
giáo điều.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã và đang soi đường cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên con
đường xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Vì vậy, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng
cao trình độ tư duy lý luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo
đức cách mạng, năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng của Đảng
và Nhà nước ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng. Điều đó đặt ra yêu cầu mới là tăng cường nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhất thiết phải nắm vững
bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng đó
phù hợp, gắn bó sống động với công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
trong tình hình mới.
Phạm Văn Trường CH32, hệ SĐH
bài rất ý nghĩa
Trả lờiXóa