Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín
đồ các tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong quần chúng nhân dân, đã cùng
với cộng đồng dân tộc đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Do đó, đoàn kết tôn
giáo có tác động lớn đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
một vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của cách mạng
Việt Nam.
Thực tế cho thấy, khi xâm lược Việt
Nam, các thế lực thực dân, đế quốc đều tìm mọi thủ đoạn lợi dụng các tôn giáo,
hòng biến các tôn giáo ở Việt Nam thành lực lượng đối lập với dân tộc, chống
phá cách mạng. Âm mưu nguy hiểm, thâm độc của chúng là thực hiện chính sách
“chia để trị”, từ đó làm suy yếu lực lượng cách mạng. Chúng lợi dụng sự khác
biệt về nhân sinh quan, thế giới quan cũng như cách thức hoạt động theo những
thể chế và thiết chế văn hóa - xã hội khác nhau giữa những đồng bào có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau; giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào
không có tín ngưỡng, tôn giáo; đặc biệt là những người có đạo với những người
cộng sản, gây nên những hiểu lầm, mâu thuẫn và xung đột. Trước những luận điệu
như: “cộng sản là vô thần”, “cộng sản nắm chính quyền sớm muộn gì cũng sẽ tiêu
diệt tôn giáo”, “thà mất nước còn hơn mất Chúa”..., Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đảng Cộng sản chẳng những không tiêu diệt tôn giáo, mà còn bảo hộ tôn giáo.
Đảng Cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột người. Bọn đế quốc tuyên
truyền bịa đặt, chúng mong chia rẽ giáo dân với Chính phủ và đồng bào khác.
Chúng hòng đạt mục đích tội ác là chống cộng và chống nhân dân”.
Suốt cuộc trường chinh chống thực dân
Pháp, các thế lực tôn giáo phản động cấu kết cùng chủ nghĩa thực dân dùng chiêu
bài “nguy cơ đỏ”, kích động nhân dân bằng luận điệu “cộng sản sẽ tiêu diệt tôn
giáo” nhằm gây chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, tạo căng thẳng giữa chính quyền
cách mạng và một bộ phận nhân dân. Ngay từ năm 1925, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh đã lên án việc thực dân Pháp cấu kết với một số giáo sĩ, chức sắc tôn giáo
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược Việt Nam. Người tố cáo những giáo sĩ
Pháp làm gián điệp, trực tiếp bắn giết đồng bào, cả giáo và lương. Với những
chứng cứ thuyết phục, Người đã vạch trần một số tên thực dân khoác áo linh mục,
lợi dụng tôn giáo tiếp tay cho giặc Pháp xâm lược Việt Nam, cùng với việc vơ vét
của cải và gây tội ác với đồng bào. Người viết: “... Mọi đoàn đi khai hoá - dù
đến Ăngtiơ, Mađagátxca, Tahiti hay là Đông Dương - cũng đều có móc theo một
đoàn gọi là đoàn truyền giáo... Họ đã lợi dụng lòng hiếu khách của người An Nam
để đánh cắp những bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn
chinh...”.
Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đế
quốc Mỹ tuyên truyền “Chính phủ Việt Nam cấm đạo”, gây hoang mang trong dư
luận, chia rẽ và dụ dỗ, lừa bịp bằng thần quyền, đe doạ trắng trợn, dùng vũ lực
cưỡng ép đồng bào vùng Công giáo di cư vào Nam nhằm làm chỗ dựa chính trị, quân
sự cho chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời cô lập, chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, phá hoại cách mạng XHCN ở miền Bắc... Một số kẻ đã lợi dụng tôn giáo,
khai thác, bịa đặt yếu tố thần bí của tôn giáo, tâm linh để trục lợi cá nhân
nhằm bòn rút tiền của nhân dân. Ngày 15/6/1957, nói chuyện tại Hội nghị Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có một số người đồng bóng
lạc hậu, mê tín bị những kẻ xấu lợi dụng để xoay tiền”…
Rõ ràng trong thời kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, các thế lực thực dân, đế quốc luôn lợi dụng tôn giáo dưới
mọi hình thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc và tôn giáo; gây hiềm khích kỳ thị, chia rẽ giữa các tôn giáo để tiến tới
mục tiêu chống phá cách mạng. Hoạt động lợi dụng tôn giáo một cách ráo riết của
các thế lực thù địch ảnh hưởng lớn đến tư tưởng trong quần chúng nhân dân, thậm
chí là cán bộ, đảng viên. Trên thực tế, có một bộ phận đồng bào tôn giáo, thậm
chí một số cán bộ, đảng viên không hiểu rõ chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Chính phủ, do đó, trong quá trình thực hiện còn mắc sai lầm, xúc phạm
đến tình cảm của giáo dân gây nên “những vụ đụng độ nhỏ giữa đồng bào với
nhau”. Hồ Chí Minh đã giải thích nguyên nhân tình trạng đó như sau: “Một đàng
có những người Công giáo nhẹ dạ, dễ tin; đàng khác có những cán bộ cấp thấp của
Chính phủ thiếu tế nhị. Nhiều kẻ gây rối lợi dụng khai thác hai yếu tố trên
nhằm tạo ra một bầu không khí không lành mạnh”.
Hồ Chí Minh cũng thẳng thắn chỉ ra, một
số cán bộ làm công tác tôn giáo đôi khi chưa có phương pháp vận động đồng bào
thích hợp, chưa thực hiện đúng đường lối đại đoàn kết của Đảng nên đã làm cho
tình hình tôn giáo ở nhiều nơi thêm phần phức tạp, tạo cơ hội cho kẻ thù lợi
dụng. “Có những cán bộ không biết tổ chức, không biết giải thích tuyên truyền,
lại tự tư tự lợi, không cảnh giác để cho bọn phản động chui vào các đoàn thể
rồi phá hoại”. Trong khi thực hiện công tác, nhất là ở vùng đồng bào Công giáo,
cán bộ chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ; chưa gần gũi học hỏi quần
chúng; chưa hiểu được phong tục tập quán của quần chúng nên đã dẫn tới hậu quả
không tốt. “Không những dân ghét cán bộ, mà còn oán Chính phủ, oán Đảng”.
Lênin cho rằng: “Đấu tranh chống lại
các thành kiến tôn giáo thì phải cực kỳ thận trọng; trong cuộc chiến đấu này,
ai làm thương tổn đến tình cảm tôn giáo, người đó sẽ gây thiệt hại lớn. Cần
phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục. Nếu hành động thô bạo, chúng
ta sẽ làm cho quần chúng tức giận; hành động như vậy sẽ càng gây thêm chia rẽ
trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà sức mạnh của ta là ở sự đoàn kết”. Với
phương châm kiên trì và mềm mỏng nhưng rất kiên quyết trong từng thời điểm nhạy
cảm và bằng nhiều hình thức, nhiều biện pháp khác nhau, Hồ Chí Minh đã từng
bước giải quyết thành công mâu thuẫn, xung đột nảy sinh giữa các bộ phận giáo
dân và chính quyền cách mạng, thực hiện đoàn kết tôn giáo, kịp thời phòng chống
và đấu tranh với những hành động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục nâng cao
tinh thần cảnh giác với âm mưu của địch đối với đồng bào theo các tôn giáo và
giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh của những cán bộ làm công tác
tôn giáo là một trong những vấn đề quan trọng góp phần tăng cường sự đoàn kết
tôn giáo, cũng là góp phần vào cuộc đấu tranh chống lại việc lợi dụng vấn đề
tôn giáo. Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa II, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “phải ra sức
tuyên truyền chính sách của ta và vạch rõ chính sách chia rẽ của địch” Người
khẳng định: “Phần lớn đồng bào tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu
nước kháng chiến, như Công giáo ở nhiều nơi, như Cao Đài kháng chiến, v.v.. Một
phần thì bị địch lợi dụng như ngụy quân Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo ở Nam Bộ.
Một số đồng bào Công giáo tuy bản chất thì tốt, nhưng bị bọn cầm đầu phản động
lung lạc, nên họ hoài nghi chính sách của Đảng và Chính phủ”.
Các chức sắc tôn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đối với đồng bào tôn giáo. Do đó, Hồ Chí Minh gửi gắm các nhà tu hành, các
chức sắc tôn giáo như linh mục, giám mục khi truyền bá tôn giáo “có nhiệm vụ
giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của công dân, ý thức tôn trọng
chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Bản thân Hồ Chí Minh đã sử dụng các
những phương pháp tuyên truyền rất hiệu quả và phù hợp (bằng chữ viết, bằng lời
nói, bằng nêu gương...) đối với đồng bào tôn giáo. Người giải thích: Người Cộng
sản cũng như đồng bào tôn giáo, đều vì lợi ích chung, mong muốn cuộc sống độc
lập, tự do và hạnh phúc cho mọi người dân trên đất nước. Vì thế, phải kiên
quyết phản bác và lật rõ mưu đồ lừa bịp của thực dân, phong kiến, khiến cho
đồng bào tôn giáo hiểu sai lệch chủ trương, đường lối của Đảng, dẫn đến có
những hành vi, biểu hiện chống lại cách mạng.
Năm 1949, khi nhà báo Mỹ Haron Ixac đặt
câu hỏi: Người Pháp nói “Việt Nam là cộng sản hoặc là do cộng sản chi phối.
Theo ý Cụ thì thế nào?”. Hồ Chí Minh đã trả lời: “Đó là tuyên truyền láo của
thực dân. Chính phủ Việt Nam gồm có đại biểu các đảng phái, như tôn giáo, dân
chủ, xã hội, mácxít. Có nhiều bộ trưởng không vào đảng phái nào. Lại có một vị
hoàng tộc. Sao gọi được là cộng sản chi phối”.
Để chống lại việc lợi dụng các tôn giáo
của các thế lực thù địch, cùng với việc tuyên truyền, vận động, Hồ Chí Minh chú
trọng việc tổ chức xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và chăm lo nâng cao đời sống của nhân dân.
Đất nước giành được độc lập là môi
trường và điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo phát triển, nhân dân được tự do
thực hành tín ngưỡng, tôn giáo dưới sự đảm bảo và tôn trọng của Nhà nước. Ngày
3/9/1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đề
nghị thực hiện ngay các quyền cơ bản của nhân dân, trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo. Người viết: “Hiện nay những vấn đề gì là cấp bách hơn cả. Theo
ý tôi, có sáu vấn đề: (...) Vấn đề thứ sáu: - Thực dân và phong kiến thi hành
chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.
Quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân đã
được hiện thực hóa bằng việc Nhà nước đảm bảo hành lang pháp lý cho nhân dân
thực hiện. Hiến pháp đầu tiên nước ta năm 1946 (do chủ tịch Hồ Chí Minh là
Trưởng ban soạn thảo), Chương II, mục B đã ghi rõ: “Mọi công dân Việt Nam có
quyền tự do tín ngưỡng”. Người cũng yêu cầu cán bộ của Đảng, Nhà nước, đoàn thể
và Mặt trận phải gương mẫu chấp hành chính sách tôn giáo; tận tâm giải thích,
hướng dẫn đồng bào thực hiện đúng chính sách, pháp luật về tôn giáo, đồng thời
kiên quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần,
nâng cao trình độ dân trí của đồng bào tôn giáo, nhất là đồng bào ở vùng sâu,
vùng xa và những vùng khó khăn là cơ sở quan trọng để chống lại sự lợi dụng vấn
đề tôn giáo của các thế lực thù địch. Hồ Chí Minh cho rằng, “Ở những nơi nào
đồng bào Công giáo đói kém, ta phải hướng dẫn họ tăng gia sản xuất, tôn trọng
tự do tín ngưỡng của họ. Có như thế chúng ta mới thành công trong việc chống di
cư, chớ không phải kẻ khẩu hiệu tầm bậy, không phải ngăn ngừa, mệnh lệnh mà
chống được di cư”.
Để bảo vệ lợi ích của dân tộc và nhân
dân trước các thế lực thù địch, Hồ Chí Minh đã ứng xử vừa mềm dẻo, linh hoạt,
vừa kiên quyết, đặc biệt Người không khoan nhượng với những kẻ đi ngược lại với
lợi ích của dân tộc, của đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Người
phân biệt tự do tín ngưỡng, tôn giáo và việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của
các thế lực thù địch, phản động, phân biệt rõ những kẻ chủ mưu lừa bịp với
những người lầm lỡ bị dụ dỗ, lôi kéo. Người viết: “phải xét rõ những phần tử
khác nhau đó, và dùng chính sách khác nhau mà đối phó”. Người tuyên bố: “Chính
phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương,
sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn” và “Nếu giáo
hội có người làm tay sai cho đế quốc xâm lược, thì bất kỳ những người đó ở tôn
giáo nào cũng phải chịu pháp luật trừng trị. Không vì trừng trị bọn phản động
trong giáo hội, mà Chính phủ can thiệp đến tín ngưỡng tự do. Cũng không vì bảo
hộ tín ngưỡng tự do, mà Chính phủ dung túng bọn chó săn của đế quốc, để mặc
chúng phá hoại Tổ quốc yêu quý của chúng ta”.
Hồ Chí Minh đấu tranh không khoan
nhượng với những kẻ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền,
kích động quần chúng chống lại cách mạng. Điều 7, Sắc lệnh tôn giáo số 234 ký
ngày 14/6/1955 nêu rõ: “Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa tôn
giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến
tranh phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm tự do
tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác hoặc làm những việc trái pháp
luật”.
Tôn giáo đã, đang và sẽ còn tiếp tục tác động lớn
đến đời sống xã hội của nước ta hiện nay. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, việc quán triệt, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thực hiện các nhiệm
vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Đặc biệt, trong việc chống lại những
quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù
địch hiện nay, tư tưởng và những bài học kinh nghiệm của Hồ Chí Minh về tôn
giáo lại càng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc./.
TBQL
17
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét