Sự hình thành của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả lớn nhất của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên tìm được con đường cứu nước đúng đắn, khoa
học, cách mạng, vừa đáp ứng nhu cầu lịch sử dân tộc, hợp lòng dân, vừa phù hợp
xu thế của thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917. Tiếp đó, giương cao ngọn cờ độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, Người
và Đảng Cộng sản Việt Nam do Người đứng đầu đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử dân tộc.
Nêu cao
bản chất Chính phủ của dân, do dân, vì dân
Từ
thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng Tám 1945, ngày 2/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam mới, thay mặt quốc dân đồng bào đọc bản Tuyên ngôn độc lập
trịnh trọng công bố sự ra đời chính thức của một chính quyền mới - chính quyền
dân chủ nhân dân; một nhà nước mới - nhà nước tự do và độc lập; một thể chế mới
- dân chủ cộng hoà. Khác với các hình thức nhà nước của phong kiến, thực dân đã
từng tồn tại ở Việt Nam, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu cao bản chất chính phủ của dân, do dân, vì dân, Người dùng
từ "Chính phủ là công bộc của dân" để diễn tả các công việc của chính
phủ phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người.
Từ
người đứng đầu Chính phủ - Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến các thành viên Chính phủ
và tất cả các bộ, ngành bao giờ "cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết
thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải
tránh". Những yêu cầu này của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ sự thấu
hiểu về nhiệm vụ lịch sử của chính quyền mới, chính quyền cách mạng chăm lo tự
do hạnh phúc cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Như tiêu ngữ "Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc" ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam từ thuở khai sinh Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là khát vọng, là mục tiêu
phấn đấu.
Chính
phủ nhân dân là tập hợp những con người của dân, do dân, vì dân nên Chính phủ
phải biết làm việc cho mục tiêu khát vọng ấy. Đặt "quyền lợi dân lên trên
hết thảy", nỗ lực làm việc, nêu gương liêm khiết, mẫu mực đoàn kết thống
nhất, kỷ luật, kỷ cương nghiêm minh, tự giác... là yêu cầu, nhiệm vụ, là trọng
trách, chức năng, cũng là đạo đức cao cả của người cán bộ Chính phủ - những
người được dân bầu lên, cử lên Chính phủ.
Đặt
"quyền lợi dân lên trên hết thảy", cho nên, ngay trong phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đó là 6 nhiệm
vụ khẩn thiết, sát hợp với đòi hỏi trước mắt của nước nhà: giải quyết nạn đói;
giải quyết nạn dốt; xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức cuộc tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu; giáo dục nhân dân trừ bỏ những thói xấu do chế độ
thực dân đã dùng mọi thủ đoạn để đầu độc và hủ hoá dân ta; xóa bỏ thuế thân,
thuế chợ, thuế đò và "tuyệt đối cấm hút thuốc phiện"; thực hiện tín
ngưỡng tự do; lương - giáo đoàn kết.
Trước
hết, theo sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ phát động phong trào
tăng gia sản xuất để đẩy lùi nạn đói và ổn định đời sống nhân dân. Đích thân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Thư gửi đồng bào toàn quốc ra sức cứu đói, hô hào
nhân dân chống nạn đói, "coi cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại
xâm". Ngày 7/12/1945, Người viết thư Gửi nông gia Việt Nam với lời lẽ mộc
mạc, tha thiết: "Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy
chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất
như một tấc vàng".
Trước
nạn đói đang trầm trọng, trên tinh thần "sẻ cơm nhường áo", Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề nghị với đồng bào cả nước và bản thân Người - người đứng đầu
Chính phủ đã nêu gương thực hiện trước: "Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo".
Ông Vũ
Kỳ, Thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại: Nhân dân ta lúc đó dù còn nhiều khó
khăn nhưng Cụ Hồ đã kêu gọi thì từ Nam chí Bắc đều hưởng ứng nhiệt liệt. Bởi,
không phải Cụ Hồ chỉ kêu gọi mà chính Cụ Hồ đã làm, đã thực hiện và là người
thực hiện đầu tiên... Nhớ hồi đó có nhiều thư từ khắp nơi gửi đến, có thư của
các cụ già, của phụ nữ, của cả các cháu thiếu nhi... gửi đến Chính phủ, đến Cụ
Hồ, đề nghị Bác đừng nhịn ăn. Cảm động hơn có nhiều người xin nhịn thêm để thay
phần cho Bác. Nhưng câu trả lời của Bác là: "Tôi là người nêu ra, tôi phải
làm gương mẫu". Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp
được hàng vạn tấn gạo cứu đói. Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện
tích trồng lúa và hoa màu tăng lên, nạn đói đã sớm được khắc phục.
Coi mọi
lực lượng dân tộc đều là nguồn lực của cách mạng, cho nên ngay trong những năm
đầu của chính quyền mới, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy vai trò của giới công thương trong sự nghiệp
xây dựng đất nước.
Ngày
17/9/1945, trong thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp "Tuần lễ vàng",
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Muốn củng cố nền tự do độc lập ấy, chúng ta
cần sức hy sinh phấn đấu của toàn quốc đồng bào; nhưng chúng ta cũng rất cần
sức quyên giúp của nhân dân, nhất là những nhà giàu có".
10h
ngày 18/9/1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp khoảng 30 nhà tư sản có
tiếng ở Hà Nội. Trong buổi gặp mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò
của giới công thương trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước sau gần 80 năm thực
dân Pháp đô hộ. Người phân tích khúc chiết, thấu tình đạt lý mối quan hệ giữa
dân giàu - nước mạnh và khuyến khích: "Các nhà có tài sản lớn ở Hà Nội nên
làm cho Tuần lễ vàng ở thủ đô Hà Nội có kết quả để tỏ rõ cho thế giới biết
người Việt Nam đồng lòng giúp nước...".
Sự kiện
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp giới công thương đã một lần nữa thể hiện tinh thần nhất
quán và xuyên suốt của Người và Chính phủ là: Lập cho được một chính phủ có
nhiều thành phần, gồm nhiều đại diện của các đảng phái, đoàn thể, ngày càng
mang tính dân chủ hơn, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, để tạo thành lực
lượng cách mạng.
Tiếp đó,
ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Giới công thương Việt Nam,
hoan nghênh giới công thương đã đoàn kết lại thành Công thương cứu quốc đoàn và
gia nhập Mặt trận Việt Minh, đem vốn làm ích nước lợi dân. Người chỉ rõ:
"Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền
hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây
dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân
và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này".
Chính nhờ quan điểm và chính sách đúng đắn, tình cảm và sự hợp tác chân thành
của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch mà đội ngũ các nhà công thương Việt Nam đã
biểu thị lòng yêu nước của mình bằng những việc làm cụ thể, thông qua "Tuần
lễ vàng", khi quyên góp được 370 kg vàng cho Chính phủ, góp 20 triệu đồng
vào Quỹ Độc lập, 40 triệu đồng vào Quỹ Đảm phụ quốc phòng.
Song
song với diệt giặc đói, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát động. Ngày
8/9/1945, Hồ Chủ tịch ký 3 sắc lệnh quan trọng về giáo dục là Sắc lệnh số 17
đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 19 lập cho nông
dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối; Sắc lệnh số 20 định rằng
việc học chữ quốc ngữ từ nay là bắt buộc và không mất tiền.
Thực
hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những người đã biết chữ hãy
dạy cho những người chưa biết chữ"... Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa
biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết
thì chủ nhà bảo", một phong trào thanh toán nạn mù chữ đã dâng cao trong
cả nước. Các lớp học bình dân học vụ mở ra ở khắp mọi nơi với sự tham gia của
đông đảo quần chúng nhân dân. Nhờ đó, chỉ một năm sau Cách mạng tháng Tám, đã
có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Tuy
nhiên, để sự nghiệp kháng chiến kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung
tâm là củng cố chính quyền nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời
đã kiên quyết thực hiện tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xúc tiến
tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Ngày
6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành và thành công tốt đẹp trên phạm
vi cả nước. Cuộc bầu cử dẫn ến sự ra đời của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, củng cố tính pháp lý của Nhà nước Việt Nam mới. Tại phiên họp thứ
nhất ngày 2/3/1946, Quốc hội đã lập ra Chính phủ liên hiệp kháng chiến, gồm 12
thành viên do Hồ Chủ tịch đứng đầu.
Trọng
tâm là giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên
Cùng
với Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, việc soạn thảo Hiến pháp được Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm đặc biệt. Ngày 9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà đã được Quốc hội thông qua, đặt cơ sở pháp lý cho tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước và toàn xã hội.
Ngày
3/11/1946, Quốc hội đã thông qua danh sách Chính phủ mới do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đệ trình, gồm 14 uỷ viên. Đây là một Chính phủ "tỏ rõ cái tinh thần
quốc dân liên hiệp", "chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để
tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam
mới".
Để kiện
toàn bộ máy Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký một loạt sắc lệnh về hệ thống tổ
chức bộ máy nhà nước với chức năng, nhiệm vụ mới, trọng tâm là việc giáo dục,
rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bên
cạnh các cơ quan Trung ương, việc xây dựng hệ thống chính quyền các cấp được
chú trọng. Để không gây xáo trộn, Nhà nước chủ trương giữ nguyên các đơn vị
hành chính cũ, có điều chỉnh cho thống nhất với toàn quốc, gồm 4 cấp: Kỳ (sau
đổi thành bộ), tỉnh, huyện, xã.
Cũng
nhằm bảo đảm tính pháp lý và sự thống nhất, Chính phủ đã ra Sắc lệnh 63 ngày
22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân địa phương (ở nông thôn) và Sắc lệnh
số 77 ngày 21/12/1945 về chính quyền nhân dân ở đô thị.
Theo
Sắc lệnh số 63, chính quyền nhân dân địa phương gồm hai cơ quan: HĐND và Ủy ban
hành chính. Ở cấp tỉnh và xã có cả 2 cơ quan trên, còn cấp kỳ và huyện chỉ có
uỷ ban hành chính. Trong tiến trình kháng chiến, hệ thống chính quyền các cấp
tiếp tục được củng cố và kiện toàn, bảo đảm đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến
quốc đến thành công.
Sự hình
thành Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là kết quả của một quá trình tìm tòi,
khảo nghiệm lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả lớn nhất của cuộc
Cách mạng tháng Tám 1945.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đặt những nền móng bước đầu nhưng rất vững chắc cho nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam: Nhà nước đó bắt rễ vững chắc trong nhân dân, được
toàn dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Nhà nước đó đã ban hành Hiến pháp, hiến pháp dân chủ đầu tiên trong lịch
sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
Cán bộ
của chính quyền đó được xây dựng trên quan điểm rất cách mạng và theo những tư
tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính quyền đó là của dân, do dân và vì
dân, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ mà lịch sử giao phó, xứng đáng với
"cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu xa" của nhân dân mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Chính phủ đối với ta như người
"anh cả" trong gia đình, một đồng chí phụ trách trong một địa phương,
một người đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh
vào"./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét