Sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người theo con đường dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp vĩ đại, kết hợp giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con người.
Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đem văn minh
chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người theo con
đường dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa - văn minh vĩ đại,
trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con
người.
Bắt đầu với khát vọng “muốn đi ra nước ngoài, xem
nước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp”, nhưng với Hồ Chí Minh, việc
đi phương Tây không chỉ để thỏa mãn ham muốn hiểu biết của tuổi trẻ, mà là
“muốn tìm xem ẩn giấu đằng sau” những gì đã làm nên văn minh và sức mạnh của
các nước phương Tây; muốn “xem cho rõ” sự “làm ăn ra sao” của những cường quốc
mà các nhà yêu nước Việt Nam đương thời kỳ vọng để có thể giúp đất nước mình
thoát khỏi ách thống trị thực dân và “sau khi xem xét họ làm thế nào... sẽ trở
về giúp đồng bào chúng ta”.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng
ra nước ngoài để tìm đường mưu giành độc lập, tự cường cho dân tộc. Tuy cùng
hành trang là giá trị văn hóa Việt Nam để đi ra nước ngoài, nhưng hai cụ Phan
và Hồ Chí Minh lại có những điểm không tương đồng. Một bên là tìm học giá trị
văn hóa mới mà dân tộc ta chưa có, nhưng chủ yếu là tìm một chỗ dựa, một cứu
cánh. Một bên là muốn tìm hiểu giá trị thật tạo nên cái mới và cả cái ẩn giấu
đằng sau nó của phương Tây. Bên này chỉ mới tiến tới sự tiếp nhận, còn bên kia
là đến tận nơi xem cho rõ cách làm.
Sự khác nhau về tầm nhìn và phương pháp đã tạo nên
kết quả khác biệt
Bên này đưa về những giá trị văn hóa mà dân tộc ta
chưa có, song không biết nó bắt đầu lỗi thời so với sự phát triển của lịch sử
nhân loại, nên những cố gắng cao nhất của hai cụ Phan chỉ là làm bùng phát
phong trào yêu nước ngắn ngủi đầu thế kỷ XX. Bởi vì những gì được xem là mới
đối với dân tộc mà hai Cụ đưa về, trên thực tế, đã bị nhân loại và chính phong
trào yêu nước của dân tộc vượt qua.
Bên kia là cuộc hành trình trong một thập kỷ để
trực tiếp khảo sát, nghiên cứu ở những nước có các cuộc cách mạng điển hình của
thế giới nhằm làm giàu văn hóa, nâng cao trí tuệ và mở rộng tầm nhìn đã giúp Hồ
Chí Minh có thể tiếp thu tinh hoa văn hóa - văn minh của loài người một cách có
chọn lọc. Nhờ vậy, Người đạt tới tầm thấu hiểu được sự tương đồng và khác biệt
giữa triết lý phương Đông và phương Tây; đã tìm ra nguồn gốc trực tiếp nỗi
thống khổ chung của các dân tộc thuộc địa, của những người lao động trên hành
tinh này và nhận thấy nhu cầu về quyền dân tộc và quyền con người là chung của
các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới.
Cùng với sự phê phán sự hạn chế tất yếu giữa lý
thuyết và thực tế, nổi bật là tính chất “không đến nơi” của cách mạng tư sản
điển hình (Mỹ, Anh, Pháp), Hồ Chí Minh đã phát hiện, tiếp thu và ghi nhận
“những lời bất hủ”, “lẽ phải không thể chối cãi được” ghi trong Tuyên ngôn Độc
lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp. Người
cũng trực tiếp thâu nhận được ưu, nhược của công cuộc xây dựng xã hội mới ở
nước Nga (1923-1924) và chứng kiến cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước nửa
thuộc địa, nửa phong kiến lớn nhất phương Đông là Trung Quốc (1925-1927).
Không chỉ là kết quả của sự trải nghiệm, với tầm
trí tuệ không ngừng được nâng cao trên cơ sở được làm giàu bằng tinh hoa văn
hóa - văn minh nhân loại và với tầm nhìn thế giới, Hồ Chí Minh mới có thể phân
tích để đúc rút được những kết luận đúng đắn như vậy. Tri thức sâu, rộng và
trải nghiệm thực tế trên thế giới là nền tảng giúp Người tiến tới tiếp nhận và
sử dụng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin để nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình
đi lên của loài người.
Trên cơ sở đó, Người đi tới khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản” và chỉ rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Như thế, con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã tìm ra cho dân tộc ta, mà thực chất
là giành ĐỘC LẬP dân tộc phải đưa tới TỰ DO và HẠNH PHÚC cho con người Việt
Nam, là phù hợp với xu thế phát triển, tiến hóa của nhân loại. Bởi vậy, cách
mạng Việt Nam hàm chứa sâu sắc các nội dung Dân tộc - Nhân loại và Thời đại.
Với sự ủng hộ của toàn dân và đồng tình của nhân loại tiến bộ, thuận theo quy
luật tiến hóa của loài người, cách mạng Việt Nam, từ trong đường lối mà Người
tìm ra, đã hội đủ Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa đảm bảo cho sự thắng lợi.
Tìm ra con đường cách mạng Việt Nam là công lao vĩ
đại đầu tiên, là cống hiến lý luận sáng tạo hàng đầu của Hồ Chí Minh và là di
sản văn hóa có giá trị vĩnh hằng đối với dân tộc ta.
Có thể nói, quá trình trên đây của Hồ Chí Minh là
quá trình hội nhập văn hóa để từ hành trang văn hóa Việt học tập, nghiên cứu,
lựa chọn, tiếp nhận, vận dụng và phát triển các giá trị tinh hoa văn hóa - văn
minh nhân loại nhằm tìm ra con đường đi lên cho dân tộc hướng tới mục tiêu giải
phóng con người. Chính quá trình tiếp biến tinh hoa văn hóa - văn minh này đã
mặc định tư tưởng và sự nghiệp cách mạng do Người lãnh đạo thực hiện ở Việt Nam
và đóng góp với nhân loại thấm đậm giá trị văn hóa - văn minh.
Giá trị cao cả đó là ở chỗ: Người đã lãnh đạo nhân
dân (i) giành độc lập cho dân tộc, giải phóng về chính trị cho con người Việt
Nam khỏi sự thống trị, bóc lột của ngoại bang; (ii) xây dựng xã hội mới nhằm
giải phóng về mặt xã hội cho con người Việt Nam khỏi sự thống trị và bóc lột
giai cấp, vì tự do và hạnh phúc của con người Việt Nam; (iii) đồng thời góp
phần cùng các dân tộc đấu tranh loại trừ chiến tranh và chủ nghĩa thực dân -
một trở lực lớn trên con đường tiến tới văn minh của nhân loại, đóng góp to lớn
vào cuộc đấu tranh xây dựng một thế giới mới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã
hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài người.
Những giá trị văn hóa - văn minh đó càng thêm sâu
sắc khi Hồ Chí Minh chủ trương cách mạng phải bắt đầu bằng sự giác ngộ nhân
dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục
đích đấu tranh và con đường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết
tự đứng lên để giải phóng mình và xây dựng xã hội mới xóa bỏ áp bức, bóc lột,
tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Người cho rằng,
“muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam
đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới
để có thể tham gia xây dựng nước nhà”.
Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi
Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đem văn minh
chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người theo con
đường dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa - văn minh vĩ đại,
trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con
người.
Giá trị sâu sắc nhất của văn hóa - văn minh là
hướng tới và đưa đến sự giải phóng toàn diện, phát triển và hoàn thiện con
người bằng việc làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát
triển và hoàn thiện của mình. Lấy thống nhất thay vì loại trừ để đoàn kết toàn
dân nhằm “đem sức ta giải phóng cho ta”; không ngừng phát triển văn hóa làm cho
nhân dân đồng thuận để “tự lực, tự cường” trong xây dựng xã hội mới là đường
lối và là phương pháp cách mạng thấm đậm nội dung văn hóa - văn minh mà Hồ Chí
Minh vận dụng, thực hiện ở nước ta.
Giải phóng dân tộc, giải phóng con người bằng sự
phát triển và hoàn thiện con người ở tầm cao văn hóa - văn minh như thế đã tạo
ra nguồn năng lượng và động lực tổng hợp cực kỳ mạnh mẽ, từ mỗi người đến toàn
dân, để làm nên mọi thắng lợi của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Đó là bí quyết
thành công của cách mạng Việt Nam, là bí quyết chính trị của Hồ Chí Minh. Đó là
lý do để hiểu, ở mọi hoàn cảnh lịch sử, Hồ Chí Minh luôn chủ trương nâng cao
dân trí, phát triển văn hóa, đẩy mạnh giáo dục đạo đức và xây dựng nhân cách
cho toàn dân đi đôi với mở cửa tiếp thu văn hóa - văn minh nhân loại.
Xã hội mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là sự kết
hợp giữa việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
với tiếp thu tinh hoa văn hóa - văn minh nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ
nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với cá
nhân, đó là văn hóa - văn minh để “làm việc, làm người, phụng sự Tổ quốc, phụng
sự nhân dân, phụng sự nhân loại”; là xóa bỏ tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa
xỉ và làm cho mọi người Việt Nam, từ già đến trẻ, đàn ông và đàn bà, ai cũng
hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng.
Hiện thân của văn hóa, văn minh Việt Nam
Xuất phát từ nội dung văn hóa - văn minh của cuộc
cách mạng, Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng Cộng sản phải là đạo đức, là văn minh và
người xây dựng xã hội văn hóa - văn minh phải có văn hóa, phải “thấm nhuần đạo
đức xã hội chủ nghĩa”. Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức
vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là xây dựng xã hội mới đem lại tự do, hạnh
phúc cho tất cả mọi người. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, đạo đức
cách mạng là đạo đức hành động và Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm
về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân học tập mà còn là một tấm gương ngời sáng về
đạo đức, văn minh.
Suy cho cùng, con đường mà Hồ Chí Minh tìm thấy và
dẫn dắt nhân dân ta thực hiện đã đưa tới những thắng lợi vĩ đại của dân tộc,
đóng góp vào giải quyết khát vọng lớn lao nhất, mục tiêu văn hóa - văn minh
nhất của nhân loại là cải tạo thế giới để giải phóng con người. Thế giới tôn
vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất là một
vinh danh kép cần phải được hiểu trên cùng một ý nghĩa: giá trị cao nhất của
văn hóa - văn minh, của đạo đức và nhân cách là hành động đóng góp vào sự giải
phóng, hoàn thiện con người. Đó chính là đỉnh cao của giá trị văn hóa - văn
minh, đạo đức và nhân cách Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh - Người là hiện thân của văn hóa, văn
minh Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét