Bác
Hồ kính yêu là lãnh tụ lỗi lạc của toàn dân tộc, là người sáng lập, rèn luyện
và lãnh đạo Đảng ta, Người đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ. Vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công việc thành công hoặc thất
bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Do vậy Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Suốt
cuộc đời Người, mặc dù phải quán xuyến trăm công ngàn việc cách mạng, Bác vẫn
luôn là “người làm vườn” cần mẫn, ra sức chăm chút “vun trồng những cây cối quý
báu” của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta. Một trong những bài giảng quan trọng
của Người truyền đạt lớp cán bộ đầu tiên năm 1927 tại hải ngoại là phải thường
xuyên trau dồi “tư cách một người cách mệnh”. Bản thân từng người phải rèn luyện
ra sao; đối với đồng nghiệp, đồng chí, đối với nhân dân, đối với công việc phải
như thế nào?... Ngày 17-9-1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ
An), Bác căn dặn: “Cán bộ ta nhiều người cúc cung tận tụy, hết lòng trung
thành với nhiệm vụ, với chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có nhiều người hủ
hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là vì công
vinh tư. Thậm chí dùng phép công để báo thù tư , làm cho dân oán đến Chính phủ
và đoàn thể . Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn
thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay…”. Ngày
17-10-1945, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng,
Bác nêu 6 căn bệnh của cán bộ, công chức thời bấy giờ. Đó là ‘trái phép”, do tư
thù tư oán mà bắt bớ trái phép, tịch thu bừa bãi; “cậy thế”, cho mình là người
của ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy; “hủ hóa”, muốn
ăn ngon mặc đẹp, chi tiêu ngày càng xa xỉ, lấy của công dùng vào việc tư; “tư
túng”, kéo bè kéo cánh, không tài năng gì cũng đưa vào chức này chức nọ; “chia
rẽ”, bênh vực lớp này chống lại lớp kia; “kiêu ngạo”, lúc nào cũng lên mặt
“quan cách mạng”, coi khinh quần chúng. Người phê phán gay gắt những “lầm lỗi rất
nặng nề nói trên”, đồng thời chỉ rõ: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận
biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa”. Sự nghiệp cách mạng phát triển, công việc
ngày càng nhiều, cán bộ đảng viên tăng thêm. Do thiếu tư tưởng, rèn luyện,
không ít người đã vi phạm khuyết điểm và những khuyết điểm đó mang nặng dấu ấn
của “quan cai trị”, “người cầm quyền” dưới thời kỳ thống trị của thực dân,
phong kiến.
Sau
ngày toàn quốc kháng chiến, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Bác đã
nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết tẩy sạch”. Đó là: “Địa phương chủ nghĩa”,
chỉ biết đến lợi ích của địa phương mình, bộ phận mình; “Óc bè phái”, nghe người,
dùng người hẩu với mình; “óc quân phiệt quan liêu”, hống hách, như một “ông vua
con” ở nơi mình phụ trách; “óc hẹp hòi”, không biết dùng chỗ hay của người khác
và giúp họ chữa chỗ dở; “ham chuộng hình thức”, thích hình thức bề ngoài, phô
trương cho oai; “làm việc lối bàn giấy”, thích làm việc kiểu giấy tờ, chỉ tay
năm ngón, ít đi vào quần chúng, bám sát thực tiễn; “vô kỷ luật, kỷ luật không
nghiêm”, việc dễ thì làm, khó thì bỏ, bỏ địa phương khi chiến tranh lan đến;
“ích kỷ, hủ hóa”, thích ăn ngon mặc đẹp, xa hoa, chỉ lo danh lợi của bản thân
mình… Người đã dành nhiều thời gian cho
việc xây dựng, rèn luyện, uốn nắn những lầm lỗi, lệch lạc của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Trong cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” Bác nghiêm khắc đòi hỏi từng tổ chức,
từng người: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người
mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết
điểm phải kiên quyết tự sửa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng mới
nhanh chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”. Bác đã nêu lên khá nhiều
khuyết điểm của không ít cán bộ, đảng viên và chỉ dẫn cách thức chữa từng căn bệnh
cụ thể. Những khuyết điểm đó, theo Người, có thể xếp vào ba loại: “Khuyết
điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và
ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là
ba hoa. Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu không chữa ngay để nó lây ra, thì có
hại vô cùng. Bác đã nêu lên hàng loạt chứng bệnh tệ hại khác và mỗi chứng bệnh
là một kẻ địch. Kẻ địch bên trong của mỗi người cán bộ, đảng viên. Người phân
tích sâu sắc: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên
ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong ta đáng sợ hơn, vì nó phá
hoại từ trong phá ra”. Những chứng bệnh này là bước phát triển tất nhiên của những
chứng bệnh cũ. Đó là: “Bệnh nể nang”, làm ngơ trước sai lầm của người quen biết,
họ hàng, thân thích; “bệnh tham lam”, tự tư tự lợi, đặt lợi ích cá nhân lên
trên lợi ích dân tộc, “bệnh lười biếng”, tự cho mình là cái gì cũng biết, việc
gì cũng giỏi, lười suy nghĩ, lười học tập, dành lấy việc dễ, đẩy việc khó cho
người; “bệnh kiêu ngạo”, tự cao tự đại, ham địa vị, danh vọng, hay lên mặt,
thích được tâng bốc; “bệnh hiếu danh”, tự cho mình là anh hùng, quan trọng,
không chịu làm những công tác thiết thực; “thiếu kỷ luật”, đặt mình lên trên tổ
chức, thích sao làm vậy; “óc hẹp hòi”, khinh người, không cân nhắc người tốt, sợ
người ta hơn mình; “óc lãnh tụ”, làm được một vài việc thì cho mình đáng là
lãnh đạo, lãnh tụ ở địa phương, đơn vị; “bệnh hữu danh vô thực”, làm việc không
thiết thực, làm cho có chuyện, làm ít nói nhiều; “kéo bè kéo cánh”, từ bè phái
dẫn đến chia rẽ, hợp với mình thì dở cũng cho là hay, che đậy cho nhau; “bệnh cận
thị”, không nhìn xa thấy rộng; “bệnh tị nạnh”, cái gì cũng muốn “bình đẳng”,
cào bằng như nhau; “xu nịnh, a dua”, bốc thơm cấp trên và những người có quyền
thế, theo gió bẻ buồm…những chứng bệnh trên bắt nguồn từ “bệnh cá nhân”, mọi
suy nghĩ việc làm đều xuất phát từ lợi ích cá nhân và đặt lợi ích cá nhân lên
trên hết, trước hết. Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình, vì phe nhóm mình.
Bác khẳng định: mắc những căn bệnh đó là do “kém tính đảng”, mắc một trong những
bệnh đó “là hỏng việc”. Người căn dặn “chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và
tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy”. Từ đây, Bác đã nói đến chỉ
đích danh và phê phán gay gắt “bệnh cá nhân”- chủ nghĩa cá nhân trong con
người cán bộ, đảng viên.
Năm
1951, trong bài báo “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, Bác chỉ rõ: Bệnh
quan liêu mệnh lệnh là do xa nhân dân, khinh nhân dân, không tin cậy nhân dân,
không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân dân, sợ nhân dân… và Người căn
dặn: “Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy
chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy”. Bác Hồ đã lưu ý và kêu gọi cán bộ, đảng viên,
nhân dân phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan
liêu. Người nói: “Tham ô là kẻ cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi,
song kết quả cũng rất có hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn
tham ô. Mà có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu. Muốn trừ nạn tham ô,
lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”. Cùng với việc phê phán chủ
nghĩa cá nhân, Bác luôn đề cao đạo đức cách mạng và chỉ rõ người cách mạng phải
kiên quyết loại trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đầu óc mình. Bác phân tích rõ nguồn
gốc và những tác hại của chủ nghĩa cá nhân: “vết tích xấu xa nhất và nguy hiểm
nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức
cách mạng…, là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống
dốc”, nó “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải
tiêu diệt nó”. Đúng như vậy, người có đầu óc cá nhân chủ nghĩa thường ít hoặc
không nghĩ đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân và và cộng đồng chung
quanh họ, mà thường lo cho lợi ích riêng của cá nhân cũng như của phe nhóm
mình, đặt nó lên trên lợi ích chung của đất nước, của tập thể. Họ là những người
tham danh, hám lợi, thích địa vị, hay so bì, tị nạnh. Có chút thành tích thì tự
cao, tự đại, kiêu ngạo, công thần, gây lủng củng chia rẽ nội bộ. Chủ nghĩa cá
nhân đẻ ra chủ nghĩa tự do, quan liêu mệnh lệnh, tham ô lãng phí, lười biếng…;
đẻ ra biết bao thói hư tật xấu và hằng trăm hàng ngàn căn bệnh nguy hiểm. Người
mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, của
phe nhóm trước hết. Họ ngại gian khổ, khó khăn, chỉ nghĩ đến hưởng thụ, ăn chơi
sa đọa, biến chất. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại
coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, xa rời quần
chúng, xa rời thực tế, không có tinh thần học hỏi cố gắng vươn lên. Họ thường tạo
thành phe nhóm, gây mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần
trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước, gây tổn hại lợi ích cách mạng…
Bác
Hồ đã khẳng định: “Cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân.
Muốn thành người cách mạng, thành người cộng sản chân chính thì phải chống chủ
nghĩa cá nhân” . Người chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm” và
đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải “phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết,
tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng,
thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phải cố gắng học tập,
rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt nhiệm vụ”.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chỉ dẫn của Người về xây dựng, rèn luyện,
bồi dưỡng, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn
trong cuộc đấu tranh khắc phục những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của kinh tế
thị trường phản ánh trong suy nghĩ, hành động của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân.
V3.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét