Như vậy, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng trên các phương diện chính là: Trong công tác tổ chức; trong hoạt động lãnh đạo trong sinh hoạt đảng và trong các mặt khác của công tác xây dựng Đảng. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là việc phức tạp, phạm vi phải xây dựng các quy định rất rộng, cần sự kiên trì và sự chỉ đạo tập trung.
Việc hoàn thiện cơ chế để
bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
cần tập trung vào xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách thức thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ sao cho khắc phục được những hạn chế, bất cập
trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, như tình trạng dân chủ hình thức;
bóp méo dân chủ để phục vụ ý đồ cá nhân; không quy được trách nhiệm cá nhân khi
có sai phạm xảy ra; nhân danh nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng hành xử gia
trưởng, độc đoán... Trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề
sau:
1. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, bầu người
đứng đầu trong các tổ chức của Đảng.
Cần hoàn thiện các quy định
về chế độ bầu cử theo hướng mở rộng bầu cử trực tiếp cấp ủy, người đứng đầu cấp
ủy từ cơ sở đến cấp huyện, tỉnh từ nay đến năm 2030. Để khắc phục tình trạng
dân chủ hình thức và bóp méo dân chủ trong bầu cử ở nơi này hay nơi khác, theo
tinh thần mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, cần giới thiệu nhiều phương án nhân
sự để lựa chọn, quy định bắt buộc có số dư trong giới thiệu ứng cử và bầu cử
cấp ủy và cả các chức danh là người đứng đầu. Sự không hài lòng trong dư luận, tính
hình thức và nguy cơ làm biến dạng dân chủ do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ
yếu ở tình trạng phổ biến là chỉ có một ứng viên cho một chức danh lãnh đạo
trong bầu cử hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng cần tập
trung nghiên cứu thực hiện chế độ để những người tham gia bầu có thể bãi miễn
đại biểu do mình bầu ra.
2. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách trong Đảng.
Cần hoàn thiện các quy chế
làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó quy định rõ về thẩm quyền,
trách nhiệm của tập thể lãnh đạo (cấp ủy, ban thường vụ, ban cán sự đảng...)
theo hướng chỉ bàn và quyết định những vấn đề lớn, chỉ trực tiếp quản lý cán bộ
là người đứng đầu; đồng thời, tăng thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân là thành
viên tập thể lãnh đạo, người đứng đầu (nhất là bí thư, các phó bí thư cấp ủy),
đi đôi với hoàn thiện các quy định, thiết chế kiểm soát quyền lực bằng chế độ
kiểm tra, giám sát, bỏ phiếu bất tín nhiệm...
Hoàn thiện quy định về chế
độ tổ chức, làm việc của thường trực cấp ủy, ban cán sự đảng và đảng đoàn vì
đây là những cơ cấu tổ chức đặc biệt, được hình thành không do bầu cử trực
tiếp, nhưng có trách nhiệm, thẩm quyền rất lớn, dễ vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ nếu thiếu các quy định cụ thể và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Trong trường hợp bí thư cấp ủy đồng thời làm chủ tịch ủy ban nhân dân, vẫn phải
bố trí thường trực cấp ủy đủ ba thành viên lãnh đạo để thực hiện được nguyên
tắc tập trung dân chủ.
3. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong đại hội đảng.
Cần xây dựng, hoàn thiện các
quy định bảo đảm Đại hội đại biểu toàn quốc thật sự là cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng; đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên là cơ quan lãnh đạo có
vị trí, vai trò cao nhất trong tổ chức đảng, khắc phục biểu hiện hình thức của
đại hội đảng các cấp. Ngay trong chính đảng mác-xít đầu tiên do C. Mác và Ph.
Ăng-ghen sáng lập là Liên đoàn những người cộng sản, Điều lệ của Liên đoàn năm
1847 đã quy định Ban chấp hành trung ương tham dự Đại hội, nhưng không
có quyền biểu quyết. Với quy định này, cho thấy C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã
rất quan tâm đến ngăn chặn ảnh hưởng của ban chấp hành đối với đại hội đảng và
là chỉ dẫn có ý nghĩa đối với vấn đề hạn chế ảnh hưởng quá mức của ban chấp
hành đến đại hội đảng.
Cần xây dựng quy định về chế
độ thảo luận trong đại hội đảng bảo đảm sự thảo luận, tranh luận thật sự trong
đại hội đảng, khắc phục tính hình thức của tham luận tại đại hội.
4. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ ra nghị quyết và chấp hành nghị
quyết.
Xây dựng, hoàn thiện quy chế
ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể. Các quy định phải bảo
đảm để mọi cán bộ, đảng viên thực hiện được quyền tham gia quyết định công việc
của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo
lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo
nghị quyết. Quy định rõ chế độ lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp
dưới, của đảng viên và nhân dân, hồi đáp các ý kiến góp ý, các kiến nghị.
Xây dựng, hoàn thiện
chế độ thảo luận, tranh luận trong xây dựng nghị quyết bảo đảm khuyến khích mọi
đảng viên thảo luận dân chủ tất cả mọi vấn đề trong phạm vi chức năng tổ chức
đảng của mình; đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng phải tạo cơ chế để khơi gợi,
khuyến khích được đảng viên dân chủ thảo luận, phát huy cao nhất tính sáng tạo
và giá trị đóng góp của đảng viên. Bảo đảm tất cả ý kiến của đảng viên phải
được tôn trọng, ghi nhận, kể cả có đúng, có sai, dù xuôi chiều hay trái chiều.
Không đưa ra các quy định hạn chế ý kiến góp ý, chất vấn, hay đồng nhất việc có
ý kiến trái chiều với sự mất đoàn kết trong tổ chức đảng.
Chế độ ra quyết định phải
bảo đảm việc ban hành nghị quyết của Đảng đều trên cơ sở được tổ chức thảo luận
dân chủ rộng rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở
lên, lấy ý kiến góp ý của nhân dân nếu cần, được cân nhắc nhiều mặt, phân tích
thấu đáo, nhất là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Đối
với những vấn đề mới, khó, phức tạp thì cần được tổ chức hội thảo, tọa đàm để
tiến hành thảo luận, trao đổi kỹ lưỡng, xin ý kiến chuyên gia trước khi quyết
định.
5. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện quyền và nhiệm vụ của đảng viên.
Cần cụ thể hóa các quy định
để thực sự thực hiện được các quyền của đảng viên về: Quyền được thông tin và
thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ
trương của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng; quyền ứng cử, đề cử và bầu cử
cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương;
quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp
trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu
cầu được trả lời; quyền trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định
công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
6. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện thẩm quyền của tổ chức đảng các cấp.
Cần xây dựng, hoàn thiện các
quy định về việc tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình nhưng không trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Điều này sẽ ngăn ngừa được tình trạng
vi phạm thẩm quyền khi ban hành các nghị quyết, dẫn đến việc ban hành các nghị quyết
sai trái của một số tổ chức đảng như trong thời gian vừa qua. Thực hiện có nền
nếp chế độ kiểm tra, giám sát các quyết định của tổ chức đảng các cấp và xử lý
các quyết định trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên
và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
7. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ báo cáo và thông báo hoạt động của
cấp ủy.
Quy định rõ về chế độ cấp ủy
các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng
cấp; cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cấp
dưới, bảo đảm thật sự là một “kênh” kiểm soát quyền lực trong Đảng; chế độ định
kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả, thực chất tự phê bình và phê bình.
8. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
Hoàn thiện cơ chế, chính
sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng
người có đức, có tài. Cơ chế phát hiện, tuyển chọn phải bảo đảm phát hiện từ cơ
sở để lựa chọn được người có đầy đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng được bầu vào
cấp ủy khóa mới; phát hiện người có tài, đức để tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
trọng dụng.
Thực hiện nghiêm và hoàn
thiện chế độ ràng buộc trách nhiệm cả về chính trị, tinh thần và kinh tế với
người đề cử, tiến cử trong công tác nhân sự nếu việc đề cử, tiến cử vi phạm các
quy định, để chống tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương, thân quen, “cánh hẩu”,
“lợi ích nhóm”; đồng thời, tránh cách làm giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc
trong công tác cán bộ. Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát có nền nếp việc
chấp hành nghiêm Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về
việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.
Cần tập trung kiểm tra, giám sát thực hiện quy định về không bố trí những người
có quan hệ gia đình (vợ, chồng; bố, mẹ của vợ hoặc chồng; con, anh chị em ruột)
cùng đảm nhiệm các chức danh có liên quan như: Bí thư, phó bí thư, trưởng ban
tổ chức, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cùng cấp ủy; chủ tịch ủy ban nhân dân và
người đứng đầu cơ quan nội vụ, thanh tra cùng cấp ở một địa phương; thành viên
trong cùng ban cán sự đảng, đảng đoàn; người đứng đầu và cấp phó của người đứng
đầu trong cùng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát để
phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp xen ghép ý đồ cá nhân, đề ra tiêu chí,
tiêu chuẩn, điều kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản
chất, không đúng sự thật nhằm vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình
tham mưu thực hiện quy trình công tác cán bộ; để vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con
nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của
mình để thao túng, can thiệp công tác cán bộ. Cần thực hiện ráo riết các biện
pháp trọng tâm như trên để đưa việc chấp hành các quy định về kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ đi vào nền nếp, trở thành văn hóa trong Đảng và hệ
thống chính trị.
Thường xuyên hoàn thiện cơ
chế phát hiện, thay thế kịp thời những cán bộ kém năng lực và kém phẩm chất, có
khuyết điểm nghiêm trọng, không còn đủ uy tín. Tổ chức thực hiện, kiểm tra,
giám sát có nền nếp việc chấp hành Quy định số
41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc miễn nhiệm, từ
chức đối với cán bộ”.
9. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác tư tưởng.
Xây dựng và hoàn thiện chế
độ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác lý luận theo hướng mở
rộng dân chủ trong nghiên cứu lý luận, thu hút và phát huy trí tuệ của đông đảo
các chuyên gia trên các lĩnh vực cùng tham gia; tạo môi trường cho nghiên cứu
dự báo phát triển. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, khó phải được tổ chức
nghiên cứu một cách thấu đáo, chuyên sâu, bài bản.
Cần quy chế hóa trách nhiệm
và khuyến khích sự cống hiến của đảng viên làm công tác tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, đồng thời cụ thể hóa các điều cấm đối với đảng viên theo
Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những
điều đảng viên không được làm” trong nói, viết, tuyên truyền, để tạo thành chế
độ vừa phát huy dân chủ, thúc đẩy sáng tạo, vừa bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật
trong công tác tư tưởng.
10. Cơ chế thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số.
Cần xây dựng quy định về chế
độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số, gồm: Trường hợp được bảo lưu ý kiến thuộc
về thiểu số; quy trình và thời gian xử lý bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số;
quyền và trách nhiệm của đảng viên có ý kiến được bảo lưu; phòng ngừa, ngăn
chặn, xử lý nghiêm tình trạng bảo lưu mang tính hình thức; ngăn ngừa sự lợi
dụng, lạm dụng quyền dân chủ của một số đảng viên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét