Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Chuyện ít biết về người anh Đại Nghĩa

Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là người đã gieo mầm thuật phóng cho ngành Quân giới - Công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Dù anh đã đi xa, song chúng tôi sẽ chẳng thể nào quên được những buổi giảng bài trong rừng sâu, hay những vũ khí như súng Bazooka, SKZ… đã ra đời dưới sự chỉ đạo của anh…

Năm 1947, tôi 16 tuổi, là một trong 8 học sinh của trường Khải Định (nay là Trường THPT chuyên Quốc Học - Huế) từ biệt gia đình, lên chiến khu tham gia kháng chiến chống Pháp và về Nha Nghiên cứu kỹ thuật chi nhánh Liên khu 4, ở Yên Sơn (Đô Lương, Nghệ An). Tại đây, chúng tôi được học về vũ khí, thuốc nổ và tiếp thu nhiều kiến thức từ người anh lớn Trần Đại Nghĩa.

Hôm ấy, anh Thúy Liễu, phụ trách Nha Nghiên cứu kỹ thuật chi nhánh Liên khu 4 hướng dẫn chúng tôi cách pha chế thuốc nổ fulminate thông qua cuốn  sách Chimie et Explosife (Hóa chất và chất nổ) của Berthollet và Howard trong gian nhà tranh nằm bên bờ sông Lam. Bỗng có tiếng lao xao ngoài cửa, bước vào là một người đàn ông cao ráo trong bộ quần áo màu nâu, đôi mắt sáng sau cặp kính cận rất dày. Anh Liễu đứng vụt dậy: "Các em ơi, anh Trần Đại Nghĩa đây rồi!". Khoảnh khắc lần đầu gặp anh cách đây đã gần 80 năm mà tưởng chừng như mới vừa hôm qua.

Trước đó, chúng tôi biết tin ở Hội nghị Fontainbleau (Pháp), kỹ sư Phạm Quang Lễ (sau này được Bác Hồ đặt tên là Trần Đại Nghĩa) đã theo Bác trở về nước phục vụ kháng chiến, dù đang làm việc tại Pháp với mức lương cao. Đó là người anh chúng tôi vẫn luôn khâm phục, không ngờ hôm ấy được gặp gỡ, quây quần bên anh.

Khi ấy, mặt trận Hà Nội đang thiếu súng Bazooka để phá xe tăng địch, không cho quân Pháp chọc thủng phòng tuyến. Noi gương anh, chúng tôi lao vào công việc không ngừng nghỉ. Anh Nghĩa đã cấp tốc mở các lớp đào tạo về xạ thuật, hóa chất, cơ khí, vẽ kỹ thuật hay tinh chế thuốc nổ cheddite, fulminate, mìn hẹn giờ, súng không giật SKZ 60, SKZ 81, SKZ 120… Anh còn dạy chúng tôi cách nén ép thuốc phóng đạn tên lửa OF. Cũng từ đấy, chúng tôi đã có nhiều kỷ niệm với vị Cục trưởng Cục Quân giới, kiêm Giám đốc Nha Nghiên cứu kỹ thuật. Buổi sáng, anh dạy chúng tôi học bằng tiếng Việt xen lẫn tiếng Pháp; buổi chiều sau giờ làm việc, anh em chúng tôi lại cùng chạy ùa xuống sông... Đến tận bây giờ, tiếng cười đùa trên khúc sông những năm tháng ấy như vẫn còn văng vẳng trong tâm trí tôi.


Trong những ngày đầu mùa mưa, khi những giọt nước mưa đầu tiên chạm vào đất, các loài ếch, nhái… bò ra từ nơi ẩn náu để tận hưởng không khí mát lành và nguồn nước mới. Đêm xuống, chúng tôi đốt đuốc, chuẩn bị đi bắt ếch, anh Nghĩa thấy vậy cũng muốn đi theo. Vị kỹ sư cùng chúng tôi lội bùn, cùng im nghe từng tiếng ộp oạp, cùng rình vồ bắt ếch, nhưng vì bị cận thị nặng nên anh Nghĩa chưa từng vồ được chú ếch nào. Về tới cơ quan, người anh lấm bùn từ đầu đến chân nhưng vẫn luôn cười nói rất vui vẻ, gọi đấy là những buổi "xả stress". Do những giờ chế tạo thuốc nổ cực kỳ căng thẳng, chúng tôi phải ngồi trong căn phòng nhỏ, phía trước là một hố sâu đã đào sẵn để đề phòng, nếu thấy ánh lửa phụt lên là hất cả khay fulminate vào đấy để tránh thương vong. Khi sấy thuốc nổ cực mạnh fulminate, chỉ cho phép dùng một cái lông ngỗng để nhẹ nhàng đảo thuốc cho khô, phải tuyệt đối tập trung tinh thần mấy tiếng đồng hồ. Vì thế, những đêm đi bắt ếch thật sự là một liều thuốc giải tỏa mọi căng thẳng, là một kỷ niệm đẹp trong ký ức của tôi về chiến khu.

Thực đơn ở chiến khu quanh năm chỉ là rau tàu bay hoặc ngọn su su luộc, thi thoảng có ít lạc giã nhỏ nấu với dưa cải muối. Tôi chỉ cho anh Nghĩa cách đào tìm măng tre, măng vầu và cách muối măng vừa chua, vừa giòn để cải thiện. Ớt trong rừng nhiều nên mỗi ống tre vừa thơm mùi măng lên men, vừa đẹp mắt với những lớp măng vàng óng điểm xuyết những quả ớt xanh, đỏ nén chặt. Anh Nghĩa cúi sát vào bụi tre, tỉ mẩn ngắm nghía nhưng hiếm khi tìm được những mầm măng vừa nhú lên bên dưới lớp lá tre. Mỗi lần tìm được một búp măng bé tẹo, anh đều phấn chấn chạy vào xưởng để khoe với chúng tôi. Mồ hôi ướt đẫm cả quần áo nhưng anh vẫn nở nụ cười rạng rỡ trong tiếng hoan hô của các em.


Dù đã cố gắng cải thiện nhưng bữa ăn thời ấy luôn là: sáng ăn sắn luộc, chiều là bánh sắn luộc. Cứ lặp đi lặp lại như vậy nên có vài người đã bỏ bữa vì quá ngán. Tôi lại được một cậu học viên trong lớp đào tạo pháo binh khóa 1 hướng dẫn cách nướng sắn thơm ngon hơn và vỏ nóng giòn như bánh mì. Anh Nghĩa sau khi ăn thử đã giục tôi: "Em bày cho anh với".."Đơn giản thôi nhé. Sau khi chọn một củ sắn mới đào, kích cỡ đừng quá to và gọt vỏ thật sạch. Lấy một tờ giấy thấm khô rồi quấn hai lớp giấy quanh củ sắn. Sẵn bếp luôn có nhiều tro nóng, hãy vùi ngay củ sắn vào. Khi thấy sắn có mùi thơm thì lấy ra. Khi bóc lớp giấy đã cháy ra, vỏ ngoài của củ sắn đã vàng giòn, vừa thơm vừa bùi". Mặc dù rất thích nhưng anh Nghĩa không làm được ngon như tôi, phần vì anh không biết chọn đúng loại sắn và không thạo cách vùi vào tro nóng đến độ nào là vừa. Vì vậy, thỉnh thoảng trước giờ đi ép thuốc đen, anh cười cười rồi giơ ngón trỏ: "Một bánh mì sắn nhé". Hôm nào kiếm được chút mỡ lợn đem phi hành thơm rồi phết lên thì anh sẽ ăn hết veo trong giây lát.

Anh Nghĩa làm việc trong căn buồng nhỏ, chỉ có một chiếc bàn, một cái giường tre và rất nhiều thùng đựng thuốc nổ, song mùi thuốc lá anh hút ám cả vào những vách tre đan long đôi. Lắm lúc tôi nghĩ dại: "Chỉ một tàn thuốc lá rơi xuống thôi là tất cả đi đời". Vậy mà 9 năm ở trong rừng sâu, tất cả đều an toàn. Khi tôi nhắc lại, anh cười cười: "Chắc là thuốc nổ nó sợ mình?!".

Anh Nghĩa có thể là một người uyên bác về chất nổ, về vũ khí; là người luôn đau đáu phải làm sao để có thể gieo mầm thuật phóng cho ngành Quân giới, nhưng lại lúng túng mỗi khi phải giặt vài bộ quần áo bằng vải thô màu nâu đất của mình. Sau những giờ tiếp xúc với thuốc đen, a-xít hay trèo đèo, lội suối để về các khu quân giới, quần áo mọi người đều lấm bùn và ướt đẫm mồ hôi. Mà anh thì không biết cách giặt quần áo ở suối. Có lần nước suối dâng cao sau mùa lũ, anh đang loay hoay đặt chân xuống thì chiếc áo để trên tảng đá bị dòng nước cuốn đi. Chúng tôi cố chạy theo mà chẳng thể nào vớt lên được, đành đứng nhìn chiếc áo nâu trôi theo dòng nước đục. Tiếc ngẩn người vì ai cũng chỉ có từ hai đến ba bộ để thay đổi. Khi đi giặt quần áo ở giếng, anh Nghĩa cũng thả gầu xuống nhưng không biết cách giật dây để nước tràn vào gầu. Nghe được tiếng đập mạnh vào thành giếng, nhưng khi kéo lên, nước không được 1/4 gầu. Anh tập mãi mà không được. Người đàn ông dáng cao cao, lắc lắc mái tóc: "Khó quá"! Thế nhưng anh dứt khoát không cho chú cần vụ giặt quần áo giúp anh. Kiểu giặt quần áo của anh Nghĩa là nhúng sơ sơ quần áo vào nước, rũ rũ vài cái rồi treo lên cây phơi, có khi cũng chẳng cần nhúng nước, anh chỉ dùng một que tre đập đập cho bụi văng ra, phơi nắng một buổi sáng rồi gấp quần áo lại thay gối ngủ qua đêm. Hôm nào có dịp đến chỗ anh ở, chúng tôi tranh thủ giấu anh, lấy hai bộ quần áo còn lại của anh, giặt sạch sẽ, phơi nắng thơm tho, gấp lại cẩn thận rồi cất vào tủ. Chuyện ngại giặt quần áo chỉ chấm dứt khi anh lấy vợ...

Sau này, khi đã nghỉ hưu, vợ chồng anh Nghĩa chuyển vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có nhiều dịp gặp gỡ, hàn huyên, nhất là các buổi cựu cán bộ, nhân viên Nha Nghiên cứu kỹ thuật phía Nam gặp mặt vào dịp Tết nguyên đán. Ngồi nghe chúng tôi ôn lại những kỷ niệm cũ, anh Nghĩa nở nụ cười hiền hậu với đôi mắt năm tháng đã xếp lên rất nhiều nếp nhăn. Một con người tuổi đã cao, đôi mắt trìu mến nhìn đàn em sau đôi kính cận. Anh Nghĩa hỏi tôi: "Sao em không làm một bữa măng nấu ếch đãi anh em? Anh ăn vài lần mà nhớ mãi. Rất thèm nhưng vẫn không dám đòi hỏi vì sợ các em không bắt được ếch mà vấp phải rắn độc". Và khi đã được ăn đủ loại bánh mì với nhiều mùi vị khác nhau, anh vẫn nhắc "không quên được hương vị bánh mì sắn em làm".

Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là người đã gieo mầm thuật phóng cho ngành Quân giới - Công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Từ năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, anh là hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Viện sĩ  Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô và Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức cùng nhiều chức vụ khác, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động nhưng anh vẫn luôn sống cuộc đời thanh bạch, giản dị và nồng cháy một trái tim yêu nước. Và dù anh đã đi xa, song chúng tôi sẽ chẳng thể nào quên được những buổi giảng bài sang sảng trong rừng sâu, hay những vũ khí như súng Bazooka, SKZ… đã ra đời dưới sự chỉ đạo của anh – người được mệnh danh là "ông Phật làm súng".

XUÂN PHƯỢNG

Đạo diễn, nhà văn, nguyên chiến sĩ Quân giới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét