Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Một số quan điểm, nguyên tắc trong giải quyết vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc ở Việt Nam.

 Từ nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của mỗi dân tộc -tộc người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết đề xuất một số quan điểm, nguyên tắc cần kiên định trong giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta trong bối cảnh mới.

Rực rỡ
Ảnh minh họa: ninhbinh.gov.vn

1. Mở đầu

Vấn đề dân tộc, giải quyết quan hệ dân tộc luôn là vấn đề rất phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, trên cả phương diện dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã sớm xác định: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những thuận lợi, khó khăn của tình hình trong nước, Đảng xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam.

Hiện nay, để tiếp tục giữ vững những thành tựu, khắc phục những hạn chế, yếu kém, việc vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc cần quán triệt một số quan điểm sau:

2. Kiên định quan điểm “vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam”

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ rất sớm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở cả tầm chiến lược và sách lược, cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhờ vậy, Đảng ta tập hợp và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo… trong Mặt trận Dân tộc thống nhất trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội IV (năm 1976), Đảng chủ trương: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về vai trò, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 7 khóa IX ra Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày 12-3-2003 về công tác dân tộc(1). Đây là lần đầu tiên, Đảng ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc, thể hiện nhận thức mới, đúng đắn của Đảng về vai trò, tầm quan trọng của công tác dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc dưới tác động bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước. Quan điểm đầu tiên được Đảng xác định trong Nghị quyết là: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Nhận thức mới trong quan điểm này thể hiện ở việc Đảng không chỉ coi vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài như đã được xác định trước đây, mà còn xác định đây là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, việc giải quyết các quan hệ tộc người ở Việt Nam đã được nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời, hiệu quả hơn.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt đến công tác dân tộc và giải quyết các vấn đề dân tộc.

Tuy nhiên, hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp và khó nắm bắt về dân tộc. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 24/NQ/TW về công tác dân tộc, Đảng ta đã chỉ rõ, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong công tác dân tộc còn rất nhiều hạn chế(2), nếu không được phát hiện kịp thời và giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá vỡ sự ổn định của các dân tộc và đe dọa nền hòa bình của đất nước. Bài học của nhiều quốc gia trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX cho thấy nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và không xác định đúng vị trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia, không giải quyết kịp thời và triệt để vấn đề dân tộc thì có nguy cơ dẫn đến xung đột dân tộc, đe dọa sự tồn vong của chế độ, thậm chí dẫn đến nguy cơ sụp đổ nhà nước.

Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt đến công tác dân tộc và giải quyết các vấn đề dân tộc. Quan điểm “vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách” tiếp tục được khẳng định nhất quán và xuyên suốt qua các kỳ đại hội. Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, Đảng ta tiếp tục “xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị”(3), tạo cơ sở lý luận để Nhà nước tiếp tục xây dựng, triển khai chính sách dân tộc phù hợp với bối cảnh mới hiện nay. Tiếp tục nhận thức đúng đắn và đầy đủ quan điểm này là tiền đề, điều kiện quan trọng để giải quyết thành công vấn đề dân tộc, thực hiện tốt công tác dân tộc ở nước ta trong thời kỳ mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, các dân tộc Việt Nam “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển”. Đây cũng chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng ta trong tình hình mới hiện nay.

3. Thực hiện hiệu quả nguyên tắc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển” trong giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay

Việt Nam là quốc gia bao gồm 54 dân tộc, với trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều, sự đa dạng về văn hóa, nhưng thống nhất với nhau về lợi ích cơ bản và lâu dài. Vận dụng sáng tạo Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề ra nguyên tắc “đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc” nhằm giải quyết vấn đề dân tộc trong quốc gia dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương thức bảo đảm lợi ích chính đáng của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm nhất quán của Đảng là bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Chính cương của Đảng được thông qua tại Đại hội II năm 1951 đã khẳng định: “1. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc (…) 3. Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(4). Nguyên tắc “Đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc” được Đảng quán triệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong giải quyết vấn đề dân tộc cho đến trước đổi mới.

Bước vào thời kỳ đổi mới, trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nguyên tắc “Bình đẳng, đoàn kết” tiếp tục được Đảng ta khẳng định và bổ sung, phát triển. Đại hội VI và Đại hội VII bổ sung: “Bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”(5); Đại hội VIII: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ”(6); Đại hội IX: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”(7); Đại hội X: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến bộ”(8); Đại hội XI: “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”(9); Đại hội XII: “Bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển”(10). Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược của chính sách đoàn kết các dân tộc trên cơ sở nguyên tắc “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”(11).

Vận dụng sáng tạo nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn đất nước, Đảng ta xác định, trong hoạch định và thực thi chính sách dân tộc luôn dựa trên quan điểm “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Đây vừa là một trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam, vừa là nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc.

Các nguyên tắc nêu trên có quan hệ biện chứng với nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Có bình đẳng thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, thương yêu, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc.

4. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các dân tộc ở Việt Nam có sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội. Vì vậy, cần có chính sách dân tộc đúng đắn và sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng và Chính phủ xây dựng các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền núi, đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ đồng bào miền ngược. Đồng bào các dân tộc ít người cũng phải không ngừng vươn lên về mọi mặt. Dân tộc đa số và dân tộc thiểu số cũng như giữa các dân tộc thiểu số với nhau phải coi nhau như anh em ruột thịt, phải giúp đỡ lẫn nhau, làm cho đồng bào các dân tộc được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa.

Thấm nhuần và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng luôn quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, coi đây là nhiệm vụ cốt lõi để hiện thực hóa phương châm “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau” giữa các dân tộc, tạo động lực xây dựng, phát triển đất nước.

Đại hội IV (năm 1976), cùng với chủ trương: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”, Đảng nhấn mạnh: “… tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người với dân tộc đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp; làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(12).

Trong thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VII, Đảng nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”(13).

Đại hội IX, trên cơ sở nhất quán chính sách dân tộc của các kỳ đại hội trước đó, đã chỉ ra phương hướng, mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã đề ra quan điểm phát triển kinh tế - xã hội cũng như phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải căn cứ điều kiện và đặc điểm của từng vùng(14). Nghị quyết số 24 NQ-TW ngày 12-3-2003, Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc chỉ rõ: “Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất”(15). Việc quán triệt quan điểm phát triển toàn diện các lĩnh vực thay cho quan điểm phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số và miền núi có ý nghĩa rất lớn trong triển khai thực hiện các chính sách dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng. Thực tiễn vùng đồng bào dân tộc, miền núi những năm qua đã cho thấy thành quả của nhiều chương trình, dự án khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX.

Tiếp tục triển khai chủ trương của Đảng, ngày 19-6-2020, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 được Quốc hội khóa XIV thông qua, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt chương trình ngày 14-10-2021. Đây là giải pháp đột phá, có tính lịch sử, nhằm đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng “lõi nghèo” của cả nước, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Lần đầu tiên, Nhà nước ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia dành riêng cho đồng bào vùng dân tộc thiếu số và miền núi với mục đích cao nhất là thực hiện mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào”.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”(16).

5. Thực hiện đồng bộ hai nhiệm vụ bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc

Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc là những vấn đề lý luận - thực tiễn vừa cơ bản, vừa cấp bách ở nước ta hiện nay, cần được nhận thức thấu đáo và tổ chức thực hiện đồng bộ, toàn diện, kiên trì. Đây là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp phát triển toàn diện các dân tộc, bảo vệ và phát triển các quyền con người chân chính, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”(17), những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng chính sách dân tộc, quan tâm chăm lo, tạo điều kiện tốt nhất để đồng bào các dân tộc thiểu số gìn giữ bản sắc văn hóa, phát triển về mọi mặt và thụ hưởng các quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Đảng ta coi việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là vấn đề lớn, cần được nhận thức, xử lý đầy đủ, thấu đáo trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay. Các nội dung, mục tiêu của chính sách dân tộc được xác định rõ hơn và phải lấy tiêu chí phát triển “con người” cộng đồng dân tộc thiểu số làm mục tiêu phát triển; lấy sự biến đổi trong mức sống, đời sống vật chất và tinh thần, sự hưởng thụ các phúc lợi xã hội được tạo ra trên địa bàn để xây dựng và đánh giá chính sách.

Quan điểm của Đảng là, bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là công việc của nhiều chủ thể, từ Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và toàn cộng đồng xã hội. Đó còn là việc xử lý mối quan hệ giữa tôn trọng các giá trị phổ quát được ghi nhận trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết với tính toán đầy đủ những đặc thù trong bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Đến nay, quyền của các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được ghi nhận đầy đủ trong Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật khác. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được bảo đảm, không ngừng được nâng cao.

Để quyền của các dân tộc thiểu số được bảo đảm một cách khách quan, hiệu quả, việc đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, xác định rõ trong Nghị quyết 35 - NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam không có dân tộc nào là “dân tộc bản địa”; không có vấn đề phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số, mà đều chung sống bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng. Và cũng không có cơ sở thực tiễn, chính trị, pháp lý cho sự tồn tại của cái gọi là “nhà nước tự trị” hay “vương quốc tự trị”. Ở Việt Nam, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện bảo đảm mỗi dân tộc cũng như cộng đồng các dân tộc phát triển.

Từ thực tiễn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi hiện nay có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đã và đang được thực hiện có hiệu quả. Đây không chỉ là sự kế thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà còn khẳng định bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời đại Hồ Chí Minh. Thực tế này là không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc là những vấn đề lớn cần được tiếp tục nhận thức, xử lý đầy đủ, thấu đáo trong giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.

6. Thực hiện chính sách dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị

Vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, Đảng ta nhất quán khẳng định thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị, là sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc thiểu số. Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cấp, các ngành, các địa phương cần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đồng bào các tộc người đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp.

Do những nguyên nhân khách quan, chủ quan, vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc luôn có tính phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng lớn tới phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị của mỗi dân tộc sống trong cộng đồng quốc gia - dân tộc. Vì vậy, phải coi công tác dân tộc là nhiệm vụ của tất cả các thành viên trong hệ thống chính trị cũng như bản thân mỗi người dân trong các dân tộc. Theo đó, cần chú trọng các nội dung sau đây:

(1) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc trong Nghị quyết 24 và các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII, XIII; xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.

(2) Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số và khắc phục tình trạng không có tổ chức đảng và đảng viên ở các thôn, bản, nhất là đảng viên là người dân tộc thiểu số ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, tăng cường hoạt động của các mô hình tự quản tại cộng đồng; biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

(3) Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, lồng ghép, tích hợp các chính sách hiện hành để hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đổi mới phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Xây dựng tiêu chí phân định lại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng xác định rõ vùng dân tộc thiểu số (tỉnh, huyện, xã, thôn, bản), địa bàn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách dân tộc. Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, hiệu quả.

(4) Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giải quyết vấn đề dân tộc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần tích cực tham gia tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách dân tộc; phối hợp với các cấp chính quyền tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào xóa bỏ tập tục lạc hậu, xóa bỏ các tệ nạn xã hội; đi sâu nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào, nhất là đối với những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội như phụ nữ, người già, trẻ em, người nghèo.

Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, chủ động xây dựng kế hoạch tham gia vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc phản biện chính sách và giám sát quá trình thực hiện. Trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ và cần có biện pháp thực hiện nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, nhân tố tích cực trong đồng bào dân tộc thiểu số.

7. Kết luận

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò vấn đề dân tộc, giải quyết quan hệ dân tộc trong quốc gia đa tộc người ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả hết sức quan trọng, trong quá trình giải quyết quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta cũng có những hạn chế nhất định. Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, cần tiếp tục nghiên cứu vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên các quan điểm: “vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam”; “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển” là nguyên tắc và phương châm trong giải quyết vấn đề dân tộc; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi là trọng tâm; thực hiện đồng bộ hai nhiệm vụ bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc; giải quyết vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét