Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của nguồn nhân lực khoa học có mối quan hệ gắn bó, là điều kiện cho việc thực hiện các nhiệm vụ và đột phá chiến lược khác. Khoa học lý luận chính trị có vị trí, vai trò quan trọng cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Phát triển khoa học lý luận chính trị đòi hỏi có nguồn nhân lực khoa học đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và hoạt động có hiệu quả cao. Điều này đòi hỏi nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị.
1. Mở đầu
Công tác lý luận chính trị được xem là “bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ… khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Khẳng định vai trò của khoa học lý luận chính trị, Đại hội XIII của Đảng xác định khoa học lý luận chính trị là một trong bốn bộ phận hợp thành của nền khoa học công nghệ Việt Nam. Đồng thời, đặt ra yêu cầu đổi mới có tính đột phá trong nghiên cứu, phát triển khoa học lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay. Phát triển khoa học lý luận chính trị đòi hỏi giải quyết nhiều vấn đề, trong đó nhân lực khoa học lý luận chính trị được xem là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị nhằm phát triển và phát huy sức mạnh của nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu đặt ra trong lĩnh vực lý luận chính trị và phát triển đất nước hiện nay.
2. Nhân lực lý luận chính trị là nguồn lực con người được huy động và sử dụng trong hoạt động lý luận chính trị
Nhân lực khoa học lý luận chính trị gồm những người làm công tác khoa học trong lĩnh vực lý luận chính trị. Nhân lực khoa học lý luận chính trị là đội ngũ cán bộ khoa học tham gia các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, phổ biến tri thức và các hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực lý luận chính trị. Đây là đội ngũ được đào tạo cơ bản các ngành khác nhau, làm việc trong lĩnh vực lý luận chính trị. Kết quả hoạt động của họ là sản phẩm khoa học (sản phẩm nghiên cứu hoặc triển khai) trong lĩnh vực lý luận chính trị.
Nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội.
Một là, nhân lực khoa học lý luận chính trị là chủ thể của quá trình nghiên cứu, phát triển lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước. Nguồn nhân lực khoa học lý luận cung cấp luận cứ khoa học cho việc làm rõ con đường và phương thức phát triển đất nước.
Hai là, trong giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến tri thức lý luận chính trị, nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị góp phần quan trọng hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng; xây dựng và củng cố niềm tin chính trị, tạo nên sức mạnh tinh thần và thống nhất xã hội trong xây dựng đất nước. Do đối tượng tác động chủ yếu và trực tiếp trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và phổ biến lý luận chính trị của cán bộ khoa học lý luận chính trị là toàn xã hội, nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực của xã hội nên hiệu quả hoạt động của đội ngũ này tác động mạnh mẽ đến chất lượng nguồn nhân lực xã hội và do đó chi phối mức độ khơi dậy và phát huy nguồn lực con người cho sự phát triển.
Ba là, nhân lực khoa học lý luận chính trị vừa là đội ngũ nhà khoa học vừa là nhà chính trị. Đây là lực lượng trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác cá quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Hiệu quả hoạt động của nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định sự sống còn của chế độ, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân.
Phát triển nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị là tạo ra sự thay đổi tích cực về số lượng, chất lượng nguồn lực con người trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị. Phát triển và phát huy nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị là mục đích, yêu cầu và là nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam.
3. Quản lý nhân lực khoa học là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch đến đội ngũ cán bộ khoa học
Quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị là toàn bộ các hoạt động phát triển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng nguồn lực con người trong hoạt động lý luận chính trị. Nói cách khác, quản lý nhân lực khoa học là quá trình sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học lĩnh vực lý luận chính trị. Mục đích của quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị là phát triển đội ngũ, phát huy cao nhất tiềm năng của đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị và nâng cao hiệu quả hoạt động lý luận chính trị ở nước ta hiện nay.
Hiệu quả quản lý nhân lực khoa học nói chung, quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị nói riêng được xem xét trên các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, chính sách quản lý nhân lực thể hiện định hướng, chiến lược quản lý và phát triển nguồn nhân lực khoa học. Trong đó, nội dung chính sách phản ánh trước hết ở mục tiêu, nội dung và phương thức phát triển. Trong mỗi giai đoạn, chính sách quản lý nhân lực khoa học còn thể hiện hướng ưu tiên và mức độ ưu tiên, mũi nhọn của sự phát triển…
Thứ hai, tổ chức sử dụng nguồn nhân lực khoa học. Hiệu quả quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị thể hiện ở khả năng phát hiện, bố trí và sử dụng cá nhân các nhà khoa học cũng như việc tạo nên sự liên kết, phối hợp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể hay giữa các tập thể để đạt được mục tiêu phát triển. Có thể thấy, chính sách quản lý nhân lực khoa học là tiền đề, điều kiện thì việc tổ chức, sử dụng nguồn nhân lực khoa học quyết định trực tiếp hiệu quả quản lý nguồn nhân lực khoa học.
Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học. Để tổ chức, sử dụng có hiệu quả đội ngũ đòi hỏi làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác quản lý nhân lực khoa học.
Trên ba phương diện quản lý nhân lực khoa học, có thể thấy hiệu quả quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị có một số kết quả nổi bật. Đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị ở nước ta hiện nay khá đông đảo. Đội ngũ có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị - xã hội thế giới có nhiều biến động, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, trước những yêu cầu đặt ra của tình hình phát triển đất nước hiện nay, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị cũng như hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị đang bộc lộ một số bất cập.
Một là, nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị đông về số lượng nhưng chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Có thể nói, số lượng cán bộ khoa học lý luận chính trị ở các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền lý luận chính trị hiện nay có nguồn vào dồi dào từ các cơ sở đào tạo đại học. Trong một số năm gần đây, các cơ quan, đơn vị khoa học lý luận chính trị cũng đã bổ sung lượng cán bộ lớn. Song, có thể nhận thấy điểm đầu vào đại học các chuyên ngành lý luận chính trị thấp. Chất lượng đào tạo các ngành lý luận chính trị của các trường đại học còn tồn tại khá nhiều bất cập trong chương trình và phương pháp giảng dạy.
Nguồn nhân lực khoa học lý luận chính trị được trang bị tốt về tri thức lý luận chính trị nhưng tư duy chính trị và độ nhạy cảm chính trị chưa cao. Biểu hiện của tình trạng này là cán bộ khoa học lý luận chính trị chưa nắm bắt, xác định kịp thời những vấn đề mang tính tư tưởng của quần chúng thông qua các sự kiện chính trị xã hội; việc đề xuất nghiên cứu và hướng giải quyết những vấn đề mới của hiện thực còn chậm; Khả năng sử dụng ngoại ngữ, công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ khoa học lý luận còn yếu. Công tác nghiên cứu và giảng dạy cũng như các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị của nước ta ít có khởi sắc. Khả năng xử lý thông tin chính trị xã hội còn chưa hiệu quả cả về mặt khoa học và về tính giai cấp trong điều kiện thông tin phức tạp, đa dạng hiện nay.
Sự thiếu gắn kết giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ dẫn đến tình trạng cán bộ khoa học lý luận chính trị hoặc tuyệt đối hóa lý luận (lý thuyết suông) hoặc tổng kết thực tiễn nhưng chưa khái quát lên tầm lý luận. Biểu hiện của tình trạng lý thuyết thiếu gắn kết với thực tiễn rõ nhất trong công tác giáo dục lý luận chính trị.
Hai là, chính sách quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị chậm thay đổi. Đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị còn phát triển theo chiều rộng mà ít có sự phát triển theo chiều sâu. Số lượng nhiệm vụ khoa học mà đội ngũ thực thi nhiều, dàn trải (số lượng đề tài, số lượng giờ giảng lý luận chính trị lớn) nhưng chất lượng còn chưa được chú ý, thiếu tập trung cho những nhiệm vụ khoa học trọng điểm, mũi nhọn. Cán bộ tham gia công việc mang tính dàn trải. Lĩnh vực lý luận chính trị ngày càng ít chuyên gia đầu ngành.
Ba là, những biểu hiện biệt phái trong tổ chức, thái độ cục bộ trong nhận thức và thực tiễn quản lý, môi trường công tác còn chưa thật dân chủ… đã hạn chế rất nhiều về năng lực sáng tạo của đội ngũ cũng như giảm tính liên kết, hiệu quả phối hợp trong đội ngũ cán bộ khoa học giữa các cơ quan, đơn vị nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị hiện nay.
Việc quản lý cán bộ khoa học lý luận chính trị chưa tính đến những đặc thù về yêu cầu và trách nhiệm của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ chưa bài bản, dẫn đến thừa về số lượng cán bộ khoa học nhưng lại thiếu đội ngũ chuyên gia. Xu hướng “quan chức hóa” các nhà khoa học lý luận chính trị còn hiện hữu khi thước đo giá trị của cá nhân nhà khoa học được xác định bởi địa vị xã hội của họ. Địa vị xã hội cũng đem lại cơ hội quyền lợi, lợi ích đã tác động nhất định đến định hướng phát triển chuyên môn của cán bộ khoa học lý luận chính trị. Hệ thống quản lý cán bộ khoa học lý luận chính trị vừa thiếu tính đồng bộ vừa thiếu tính đặc thù. Đầu tư của Nhà nước cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và giáo dục lý luận chính trị còn thấp, chưa hiệu quả. Cơ chế đánh giá công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị và thước đo hiệu quả hoạt động lý luận chính trị chưa thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực này so với các khoa học khác. Cơ chế đãi ngộ, sử dụng, thang bậc giá trị lao động chưa hợp lý, chủ nghĩa bình quân trong lĩnh vực lý luận chính trị dẫn đến cán bộ thiếu tâm huyết nghề nghiệp, thiếu động lực sáng tạo.
Trước yêu cầu phát triển lý luận chính trị trong tình hình mới, xuất hiện những vấn đề lớn phải giải quyết về quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị. Những vấn đề vừa cấp bách vừa căn bản đặt ra yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ khoa học này. Đó là chính sách quản lý khoa học lý luận chính trị nói chung và quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị nói riêng chậm đổi mới, thiếu tác động tích cực trong thúc đẩy chất lượng và hiệu quả hoạt động lý luận chính trị. Yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; yêu cầu nâng cao hàm lượng tính khoa học, tính đảng cho các chủ trương, chính sách phát triển đất nước trong bối cảnh kinh tế, chính trị, khoa học, văn hóa… có nhiều biến động đòi hỏi có những thay đổi toàn diện trong hoạt động quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị; yêu cầu từ thực hiện chủ trương “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt…”(2).
4. Các giải pháp
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu dự báo nhu cầu phát triển đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị, trên cơ sở đó quy hoạch tổng thể về đội ngũ cán bộ lý luận chính trị ở nước ta. Quá trình quy hoạch phát triển đội ngũ cần chú ý đến cơ cấu lĩnh vực chuyên môn, cơ cấu độ tuổi, giới tính… bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa đội ngũ chuyên gia từng ngành và đội ngũ cán bộ khoa học trẻ kế tục của từng ngành, từng lĩnh vực bảo đảm hợp lý. Quy hoạch cán bộ lý luận chính trị giúp tránh được sự bất cập trong tình trạng thừa/ thiếu cán bộ, hẫng hụt thế hệ trong công tác lý luận chính trị. Đồng thời, cần có kế hoạch tổng thể và chi tiết cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận chính trị phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Kế hoạch phát triển đội ngũ gồm kế hoạch phát triển chuyên gia đầu ngành, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt (quản lý các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực lý luận chính trị), kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tài năng…
Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học lý luận chính trị. Trong đó, chất lượng đào tạo đại học và sau đại học đối với các chuyên ngành lý luận chính trị cần được đổi mới cả nội dung chương trình và phương pháp, hình thức đào tạo. Nội dung chương trình cần tinh gọn, bám sát yêu cầu phát triển của thực tiễn. Phương pháp giảng dạy cần đổi mới theo hướng tích cực hóa người học. Phương thức đào tạo cần linh hoạt hơn. Quá trình đào tạo cán bộ lý luận chính trị vừa bảo đảm tính cơ bản, vừa bảo đảm tính hiện đại, giúp cho đội ngũ đủ kiến thức, kỹ năng và phương pháp làm việc trong môi trường chuyển đổi số hiện nay. Việc bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị cần tiến hành thường xuyên với hình thức đa dạng. Tùy theo yêu cầu công việc, có thể tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hoặc dài ngày, có thể bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và phương pháp, có thể trực tiếp hoặc trực tuyến... Việc bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị giúp cho đội ngũ cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ ba, đổi mới cơ chế tuyển dụng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị.
Việc tuyển chọn cán bộ khoa học lý luận chính trị cần chú ý đến năng lực và phẩm chất cán bộ. Trong đó, bên cạnh trình độ tri thức lý luận chính trị, phẩm chất chính trị, sự tin tưởng và trung thành với lý tưởng cộng sản cần được xem như điều kiện quan trọng bởi đặc thù trong nhiệm vụ chính trị mà đội ngũ đảm nhiệm. Năng lực ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ thông tin cũng cần nâng tiêu chuẩn cao hơn, thực chất hơn.
Sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị nhằm bảo đảm cho đội ngũ được phát huy hiệu quả hoạt động. Muốn khơi dậy được tiềm năng của cán bộ khoa học lý luận chính trị, cần xuất phát từ tính đặc thù trong lao động của đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị và thấu hiểu nhu cầu của đội ngũ. Trong đó, đặc điểm lao động của đội ngũ vừa yêu cầu tính độc lập, tự chủ và tự giác cao trong nghiên cứu lý luận, vừa yêu cầu tính phối hợp, hợp tác cao trong thực tiễn giảng dạy, nghiên cứu.
Người làm công tác lý luận chính trị vừa phải giỏi về lý luận vừa phải nắm bắt kịp thời sự vận động của thực tiễn. Sản phẩm của đội ngũ cán bộ lý luận chính trị vừa mang tính khoa học, vừa mang tính đảng, tính giai cấp… Những đặc thù trong lao động khoa học của đội ngũ đặt ra yêu cầu đặc thù trong công tác quản lý và sử dụng đội ngũ.
Bên cạnh đó, hiểu nhu cầu, tạo điều kiện cho việc đáp ứng nhu cầu của đội ngũ để phát huy tiềm năng, sức mạnh nội tại của đội ngũ cán bộ lý luận chính trị để công tác quản lý được hiệu quả. Đó là nhu cầu được sử dụng đúng vị trí, năng lực vốn có của họ; nhu cầu làm việc độc lập và được tôn trọng; nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng phát triển chuyên môn nghiệp vụ, giao lưu, học hỏi với đồng nghiệp trong nước và mở rộng kiến thức, trao đổi chuyên môn với giới khoa học các nước; nhu cầu đáp ứng những đòi hỏi về điều kiện sống, lao động…
Xây dựng cơ chế quản lý cán bộ khoa học lý luận chính trị cần xuất phát từ nguyên tắc thống nhất tính đảng, tính khoa học. Theo đó, việc định hướng hoạt động, quy trình quản lý hoạt động, cơ chế và phương thức đánh giá kết quả hoạt động không được xa rời nguyên tắc này. Nguyên tắc này trong quản lý đội ngũ cho phép vừa phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo của đội ngũ, vừa giữ gìn và phát huy được tính giai cấp trong mỗi hoạt động của cán bộ lý luận chính trị. Cơ chế quản lý cần bảo đảm tính thông thoáng và tạo hành lang cần thiết cho sự phát triển khoa học lý luận chính trị.
Hiệu suất và hiệu quả hoạt động của cán bộ khoa học lý luận chính trị cần được coi là “điểm tựa”, tiêu chuẩn trong sử dụng và đánh giá cán bộ. Tất nhiên, trong lĩnh vực lý luận chính trị, hiệu suất và hiệu quả hoạt động khá trừu tượng và khó xác định. Hơn nữa, hiệu quả và hiệu suất hoạt động khoa học lý luận chính trị cần xem xét trong thời gian dài, mang tính tổng thể và với những thang đo đặc thù.
Xây dựng cơ chế quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị cần chú ý đến sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Bên cạnh đổi mới chính sách thu hút nhân tài, cần có chính sách tập trung phát triển chuyên gia. Đội ngũ chuyên gia đầu ngành là lực lượng quan trọng trong việc bảo đảm những công trình nghiên cứu lý luận chính trị đáp ứng được nhiệm vụ chính trị đặt ra giai đoạn hiện nay. Đội ngũ này cũng là lực lượng chủ lực trong đào tạo thế hệ kế tiếp. Tất nhiên, chỉ có thể có được đội ngũ này nếu có cơ chế đãi ngộ thỏa đáng.
Thứ tư, xây dựng môi trường hoạt động lý luận chính trị dân chủ. Theo đó, tạo cơ chế thường xuyên lắng nghe ý kiến trao đổi của nhà khoa học và hoạt động thực tiễn lý luận chính trị. Đối thoại trên tinh thần bình đẳng, tin cậy. Thể chế hóa cơ chế dân chủ trong sinh hoạt khoa học, khuyến khích tranh luận, khuyến khích nêu quan điểm thẳng thắn trên tinh thấn xây dựng. Thể chế hóa quyền tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận chính trị, có quy chế bảo đảm quyền tự do tư tưởng như: quyền được nghiên cứu, quyền được phê phán, bảo lưu ý kiến, quyền được trình bày và bảo vệ quan điểm một cách có tổ chức, trong phạm vi hoạt động nghiên cứu lý luận và giới hạn trong lĩnh vực thuộc quản lý của cơ quan. Thực thi dân chủ trong mọi hoạt động trong quy trình quản lý, bảo đảm mọi cán bộ đều được tiếp cận và cống hiến trên phương diện công tác của mình. Phát huy dân chủ trong quản lý hoạt động lý luận chính trị là điều kiện cần để phát triển đội ngũ và phát triển công tác lý luận chính trị ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Thứ năm, cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, tuyên truyền giáo dục lý luận chính trị. Việc liên kết các hoạt động của các cơ quan này sẽ tạo điều kiện để đội ngũ có điều kiện trải nghiệm, cống hiến ở mức cao nhất. Xét về mặt quản lý nhân lực khoa học lý luận chính trị, đây là điều kiện để khai thác, sử dụng đội ngũ với hiệu suất cao nhất cho nhiệm vụ của mỗi đơn vị. Mối quan hệ của các đơn vị cũng tạo ra môi trường mở cho cán bộ giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm của mình và tiếp thu những tri thức, kinh nghiệm của đồng nghiệp. Sự gắn kết của đơn vị nghiên cứu giảng dạy với đơn vị hoạt động thực tiễn cũng tạo điều kiện cho lý thuyết với thực hành có mối quan hệ hữu cơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét