Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền tự nhiên của con người. Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán bảo đảm quyền đó của người dân, đồng thời làm hài hòa pháp luật trong nước với các điều ước quốc tế về nhân quyền có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Hơn 2 năm sau sự kiện trên ở Việt Nam, ngày
10/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới thông qua Tuyên ngôn Quốc tế nhân
quyền. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền “ghi nhận một số quyền là những vấn đề
mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm Tuyên ngôn ra
đời, như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới
tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, tự do hội họp, lập hội; quyền
được tham gia quản lý đất nước...”(1).
Cụ thể, Điều 18: “Ai cũng có quyền tự do
tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay
đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua
sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người
khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”.
Điều 18 cùng với Lời mở đầu và 29 điều khoản
khác liệt kê quyền con người và các tự do cơ bản trong Tuyên ngôn Quốc tế nhân
quyền đã tạo nền tảng quan trọng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế cơ bản
về quyền con người sau này như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc (CERD, năm 1965); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR, năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(ICESCR, năm 1966).
Dẫn từ Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa năm 1945 đến Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 để thấy
rằng, dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại luôn hiểu rất rõ dù nhân quyền là những quyền tự nhiên vốn
có của con người, “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(2) nhưng
chỉ khi có được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia thì mới có nền tảng, có
điều kiện quan trọng để thực hiện các quyền con người đó. Khi nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời, người dân từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của một
quốc gia độc lập thì các quyền công dân của người Việt Nam cũng mới lần đầu
tiên được quy định trong Hiến pháp năm 1946.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Xuân trong cuốn
sách “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” bình
luận: “Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân,
Hiến pháp năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với
tôn giáo trong phạm vi cả nước”.
Tư tưởng tôn trọng quyền con người nói chung,
quyền tự do tín ngưỡng nói riêng được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non
trẻ nhận thức rõ và hiến định trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, sớm hơn 2
năm khi các quốc gia thành viên Liên hợp quốc vượt qua được những khác biệt về
văn hóa, thể chế chính trị để đi tới thống nhất thông qua Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền vào tháng 12/1948 và sớm hơn 20 năm khi Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966. Đây là hai công
ước quốc tế mà trong đó quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tái khẳng định và
cụ thể hóa.
Từ sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam ghi
nhận tại các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng diễn
ra từ ngày 11 - 19/2/1951 đã thông qua Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam,
trong đó nhấn mạnh: “Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của mọi người
dân”.
Ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh số 234/SL, tại Điều 1 ghi nhận: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi
người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn
giáo nào”. Sắc lệnh 234/SL là văn bản quy phạm pháp luật riêng cho tôn giáo sớm
nhất ở Việt Nam.
Hiến pháp năm 1959, tại Điều 26 tiếp tục ghi
nhận: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Hiến pháp 1980, tại Điều 68 giữ nguyên nội
dung Điều 26 Hiến pháp 1959, đồng thời bổ sung thêm nội dung: “không ai được
lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn
giáo. Tại Nghị quyết này, bên cạnh những nhận thức mới và ứng xử mới đối với
tôn giáo, Đảng ta vẫn kiên định chủ trương: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính với các chức sắc và đại diện các
tổ chức tôn giáo (Ảnh: Dương Giang - TTXVN)
Việt Nam theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ nên sau khi Đảng ban hành chủ trương, đường lối, thì
Nhà nước xây dựng các chính sách, các quy định pháp luật cụ thể để thể chế hóa,
đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Theo đó, “Hiến pháp 2013 được ban hành với ba
điểm rất mới về tín ngưỡng, tôn giáo: (1) Tín ngưỡng, tôn giáo là một nội dung
quan trọng của chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; (2)
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người (không chỉ là quyền của
công dân như trước); (3) Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo (không chỉ là bảo đảm như trước). Đó chính là nền tảng - hiến định của
việc hoàn chỉnh quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo”(3).
Tiếp tục cụ thể hóa quan điểm, chủ trương công
tác tôn giáo của Đảng thời kỳ đổi mới, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và căn cứ
tình hình trong nước, quốc tế, ngày 18/11/2016, Quốc hội khóa XIV thông qua
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo - văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Theo quy định của Luật này, mọi người đều có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, và
“quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được mở rộng đến tất cả mọi
người, không chỉ là người Việt Nam mà cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại
Việt Nam, không chỉ đối với cá nhân mà đối với các tổ chức tôn giáo”(4).
Theo PGS.TS. Vũ Công Giao và ThS. Nguyễn Thị
Diệu Thúy trong bài viết “Tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt
Nam” đăng trên Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 4 - 2022: “quá trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
trong những thập kỷ gần đây cũng chính là quá trình làm hài hòa pháp luật trong
nước với các điều ước quốc tế về nhân quyền có liên quan mà Việt Nam là thành
viên”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét