Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã luôn kiên trì, kiên định và nêu cao chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay cần thiết phải bổ sung, phát triển và đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề trên.
Giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Tháng 7-1920, đồng
chí Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội
Pháp. Những luận điểm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những vấn đề cơ
bản về con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào và chỉ dẫn hướng
phát triển sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư
duy – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải
tạo thế giới [3, tr. 49]. Ba bộ phận
quan trọng nhất trong Chủ nghĩa Mác – Lênin đó là triết học, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Thế giới quan, phương pháp luận khoa học và
cách mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn. Đồng thời cũng là cơ sở để
phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc
và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người [2, tr.12]. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ
dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội
và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc;
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Tư tưởng về Đảng Cộng
sản Việt Nam; Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; Tư tưởng đạo
đức, nhân văn, văn hoá Hồ Chí Minh.
Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận cương chính trị (10/1930) cho đến
văn kiện Đại hội VI (năm 1986) luôn nhất quán khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta có sự phát triển, bổ sung trên cơ sở sự vận động của thực tiễn. Theo đó, Đảng
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đây là biểu hiện về nhận thức
đúng, sâu sắc mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đảng. Sự kế thừa và phát triển những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng trong công cuộc bảo vệ và
phát triển đất nước. Đây cũng là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận và là
nguồn gốc tư tưởng ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam. Quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn căn cứ tình hình thực tiễn để tổng
kết nâng cao trình độ lí luận và năng lực hoạt động thực tiễn. Nhìn lại
những trang sử hào hùng của dân tộc, có thể thấy rằng, việc vận dụng sáng tạo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp
phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, việc tiếp tục áp dụng những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục đạt
những thành tựu to lớn về mọi mặt như kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, …
Về kinh
tế, giai đoạn 2016 - 2019 GDP bình quân đạt
6,8%, tăng 2,4% so với giai đoạn 1986 - 1990, đặc biệt giai đoạn 1991 - 1995,
GDP bình quân đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng biến động
nhưng khá cao. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19
nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất
khu vực, thế giới [5].
Về xã hội, đời sống nhân dân được cải
thiện cả về vật chất và tinh thần, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người là 236
USD/năm thì đến năm 2022 đạt khoảng 4.164
USD/năm [4]. Năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa là 12.4 tỷ USD, mặc dù ảnh hưởng nặng nề
của dịch Covid - 19 thành tích xuất siêu tiếp tục được giữ vững, là năm thứ 7
liên tiếp cán cân thương mại hàng hóa ở mức thặng dư [6]. Quy
mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng
đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Hệ thống các cơ sở y tế
được hoàn thiện và phát triển. Người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế,
cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại.
Thành tựu lớn nhất trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh, đó là hơn
79 năm qua, chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh
cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị
thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Đảng đã ban hành nhiều
văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách về quốc phòng, nhằm kịp thời thể chế hóa quan điểm, đường lối quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, như “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”; “Chiến lược Quân sự Việt
Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; “Chiến lược Bảo vệ biên
giới quốc gia”. Nhà nước đã xây dựng, ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh: Luật An ninh quốc gia, Luật Sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Biên phòng Việt Nam…
Đối ngoại quốc phòng, an ninh tiếp tục khẳng định là
kênh quan trọng, cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân
dân. Việt Nam đã có quan hệ, hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ
chốt, phù hợp với các quan hệ song phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến
lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện tập trung vào
những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Hoạt động đối ngoại quốc
phòng, an ninh không ngừng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực quốc phòng, quân
sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Đến năm
2022, chúng ta đã
thiết lập quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế, bao gồm cả các
cường quốc trên thế giới;
thiết lập tùy viên quốc phòng tại 32 nước và có 45 nước đặt tùy viên quân sự tại Việt Nam. Quân đội đã cử 512 lượt sĩ quan quân đội và 4
lượt sĩ quan công an tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ tại châu Phi và
tại trụ sở LHQ.
Trong tình hình mới
với những vấn đề mới đòi hỏi Triết học Mác - Lênin bổ sung và phát triển mới.
Giá trị chủ nghĩa xã hội hiện thực không bị cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại chi phối. Mặt khác, nhờ đó làm bước đệm để tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở
Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Nội dung cốt
lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam,
đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Đại hội
Đảng lần thứ XIII, yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải: “Kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển
phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [1, tr.94]. Trên
phương diện lý luận, công cuộc đổi mới ở nước ta là sự kế thừa và phát triển
sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đặc biệt là hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tư duy trong xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn
dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Nhờ có đổi mới mà nền
kinh tế đất nước phát triển năng động với mức tăng trưởng khá; môi trường chính
trị, văn hóa, xã hội ổn định và phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững
và tăng cường; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng… Đó là những minh chứng sinh
động, khẳng định sự kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đấu
tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về giá trị những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của
Đảng, hoạt động của Nhà nước. Đặc biệt,
trong thời đại công nghệ số, chúng triệt để sử dụng Internet, mạng xã hội phát tán nhiều tin, bài với các nội dung quan điểm
sai trái, thù địch, nhằm tác động đến tâm lí người dân và đặc biệt đối với đồng
bào dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa. Mục đích giảm thiểu lòng tin của nhân
dân với Đảng, Nhà nước, tác động tiêu cực đến tư tưởng nhân dân hòng xoá bỏ tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thực
tiễn của Việt Nam. Một số luận điệu phản động, thù địch phổ biến như:
Thứ nhất, bác bỏ lý luận hình thái kinh tế - xã hội mác xít nhằm phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với mục đích phủ nhận lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác
- Lênin, các thế lực này đã coi yếu tố khoa học, kỹ thuật là yếu tố quyết định
sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Nếu Việt Nam không thực hiện quá
độ lên chủ nghĩa xã hội mà đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ không xảy
ra chiến tranh và nghèo đói. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, chính chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân với mưu đồ thôn tính nước ta đã mang đạn dược vũ khí
tàn sát hàng triệu đồng bào ta. Và thực sự, chế độ tư bản của chúng có thực sự
bình đẳng, tự do hay không? Vì vậy, khi xã hội loài người đã trải qua bốn hình
thái kinh tế - xã hội và đang quá độ tiến vào hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa là theo đúng quy luật vốn có.
Thứ hai, phủ
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc và lập luận rằng: Ở các nước tư bản phát triển ngày nay, giai
cấp công nhân không còn vô sản và cũng không còn nghèo đói như ở thế kỷ XIX. Do
đó, giai cấp công nhân ở các nước này không còn sứ mệnh lịch sử như C. Mác và Ăng-
ghen luận giải nữa. Cho rằng trí thức thay thế công
nhân để làm cách mạng. Luận điểm đánh giá sứ mệnh của giai
cấp công nhân không thấy được sự hiện diện và vai trò toàn diện về chính
trị, kinh tế, văn hóa trong bối cảnh mới mà đã bị thay thế bằng máy móc, công
nghệ hiện đại của cuộc cách mạng 4.0. Cuối cùng, công nhân ở các
nước không còn bị bóc lột hoặc bóc lột không đáng kể. Thực chất của những quan
điểm này là sự biện hộ cho địa vị thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản nhằm
khẳng định sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
Thứ
ba, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi đưa chủ
nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nhân dân Việt Nam với các giá trị
văn hoá, tư tưởng. Các thế lực phản động đã hạ thấp các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm xoá bỏ tiền đề về
chủ nghĩa xã hội về giai cấp vô sản. Có thể thấy, trong lịch sử đấu tranh giành
độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng và Nhà nước vận dụng sáng tạo trong sự
thay đổi liên tục của tình hình trong và ngoài nước. Vậy mà, chúng cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Với mục tiêu phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua mạng xã hội và các
hình thức khác, khiến cho quan điểm lệch lạc này thấm dần vào nhân dân, dẫn đến
tự diễn biến, tự chuyển hoá. Ngoài ra, tạo nên sự chia rẽ giữa các nước xã hội
chủ nghĩa cũng như đối với các quốc gia khác trên thế giới về mặt tư tưởng.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc tôn lãnh đạo cách
mạng, làm mất dân chủ, nên cần thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa
đảng đối lập”.
Các
thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối
lập”, mong
muốn một nước đa đảng, nhằm hạn chế và thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Theo chúng, dân chủ tự do là người dân có quyền
được theo bất cứ Đảng nào mà họ muốn. Nhưng có thể thấy, các nước đa đảng sẽ có
những vấn đề nhất định, điển hình là sự canh tranh không công bằng, bầu cử hỗn
loạn và chia phe đảng phái dẫn đến các vấn đề về an ninh trật tự và an ninh
chính trị quốc gia. Chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối
với đất nước, xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; chuyển nền dân chủ tư sản.
Thứ năm là, xuyên tạc mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; chủ trương
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy dân
chủ trong công tác xây dựng Đảng.
Chúng cho chủ nghĩa xã hội
của Mác - Ănghen là một hình thức chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ trương phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, làm cho dân tộc bị cô lập trên trường quốc tế…Con đường phát triển
đất nước của ta thực sự gặp nhiều khó khăn gian khổ, từ chiến tranh đến bị cô lập.
Tuy hiện, hiện nay Việt Nam đang là nước phát triển nhanh chóng trên các lĩnh
vực. Nếu không có sự “giúp đỡ” của các cuộc xâm lược của các nước đế quốc thì
chúng ta còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đồng thời, các thế lực thù địch luôn
lựa chọn những thời điểm và đất nước ta tiếp xúc cử tri, trưng cầu ý dân, bầu
cử hoặc các sự kiện quan trọng của quốc gia để xuyên tạc, chống phá.
Thứ sáu là thúc
đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, các thế lực thù địch,
những phần tử cơ hội chính trị sử dụng nhiều phương thức. Mục đích phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội, phủ nhận lập
trường chính trị của lực lượng vũ trang cách mạng, chia rẽ quân đội với Đảng,
tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ từng bước phai nhạt,
dẫn đến xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thiếu niềm tin, phủ nhận sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.
Thực tế, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị
không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục
tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số
ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng” [1, tr. 168]. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
chỉ rõ tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII,: “ Từ suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước
ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường”, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc
cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc”. Tuy đây chỉ là một bộ phận nhỏ, “con sâu làm giàu
nồi canh” nhưng sẽ gây chia rẽ nội bộ, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch thực
hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
ta. Ngay
từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Trung ương 5
(khóa XII) của Đảng, cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí
đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được phát
hiện, đưa ra xét xử công khai. Đó là bằng chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc,
chống phá của các thế lực thù địch, phản động về vai trò lãnh đạo của Đảng.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức và rèn luyện, hơn 79 năm qua, luôn là lực lượng chính trị
tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ được giao, thực sự là đội quân chiến đấu, đội quân công tác,
đội quân lao động sản xuất. Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
triển khai đồng bộ các giải pháp, cả về tổ chức, lực lượng, nội dung, hình
thức, phương tiện để nâng cao hiệu quả đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng trong Quân đội. Trong đó, công tác giáo dục chính trị được
đặt lên hàng đầu, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự, quốc phòng
của Đảng; những kiến thức cơ bản về văn hóa - xã hội, nhiệm vụ của Quân đội,
đơn vị. Đồng thời, nhận diện rõ
các quan điểm sai trái, âm mưu, thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng
của các thế lực thù địch; luận giải, làm rõ những giá trị bền vững, tính đúng
đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mục tiêu lý tưởng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Các cơ quan, đơn vị tổ chức được nhiều hoạt động,
thu hút được đông đảo lực lượng tham gia đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính
trị hóa” Quân đội của các thế lực phản động, thù địch. Báo chí Quân đội đã tích
cực mở các chuyên trang, chuyên mục, với nhiều bài viết sắc sảo, tính chiến đấu
cao, có cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục, được dư luận đồng tình, ủng hộ.
Hiện nay, trước những
thay đổi nhanh chóng và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, cũng như sự
chống phá của thế lực thù địch, đòi hỏi Đảng phải luôn kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng
chủ đạo, nhận thức và vận dụng sáng tạo trong xu thế phát triển. Thông qua công
tác dân vận, công tác quần chúng làm cho nhân dân hiểu và vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó củng cố vững chắc vị trí cầm quyền,
vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Trước bối cảnh trong nước và quốc tế có những
diễn biến chính trị phức tạp, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức tấn
công nền tảng tư tưởng của Đảng, đã đặt ra cho Đảng, Nhà nước những yêu cầu,
nhiệm vụ bức thiết cần phải tiếp tục khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Vì vậy, cần quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị
số 23-CT/TW, ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị và báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
trình Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tiếp
tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Kiên
định và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở trung
thành với nguyên tắc cách mạng, khoa học và nhân văn, đồng thời vận dụng sáng
tạo, phát triển phù hợp lý luận mác xít với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu
thế của thời đại. Đây là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu có tính nguyên tắc, giữ
vai trò nền tảng, then chốt đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Tăng cường nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn để vận dụng phù hợp vào tình hình thực tiễn đất
nước. Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin là để xây
dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo những nguyên
lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời hiểu rõ cơ sở lý luận quan
trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Học tập, nghiên cứu Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải theo nguyên tắc thường xuyên
gắn kết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn của đất
nước và thời đại. Hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh nghiệm, giáo điều trong quá trình học tập,
nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ bản đó trong thực tiễn. Học tập, nghiên cứu mỗi nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối quan
hệ với các nguyên lý khác, mỗi bộ phận cấu thành trong mối quan hệ với các bộ
phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất phong phú và nhất quán của chủ nghĩa
Mác- Lênin, đồng thời cũng cần nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát
triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Ngoài ra, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển
khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền
lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống suy thoái, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc
trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Việt Nam nhờ có chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đã giành được thắng lợi vĩ đại trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay chủ nghĩa Mác
- Lênin cùng vơi tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ giá trị của mình trong công cuộc
lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam và công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, toàn cầu hoá của Việt Nam. Tiếp tục là kim chỉ
nam để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa nước ta tiến lên vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét