Lịch sử gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng kiến những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, giai đoạn 2006 - 2016 có ý nghĩa rất quan trọng với nhiều thành tựu nổi bật trong đối ngoại và hội nhập quốc tế, đặc biệt là bước chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) sang hội nhập quốc tế (HNQT) toàn diện, sâu rộng. Những thành tựu quan trọng trong giai đoạn này góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy đối ngoại và hội nhập quốc tế trong việc góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong giai đoạn này có giá trị tham khảo quan trọng cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại thời gian tới, góp phần vào sự nghiệp chung đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Bối cảnh chung tác động đến công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016
Trong gần 40 năm đổi mới, giai đoạn 2006 - 2016 chứng kiến nhiều kết quả nổi bật của công tác đối ngoại cả từ góc độ xây dựng chủ trương, đường lối và triển khai thực tế. Nếu như 20 năm đầu đổi mới có thể được coi là giai đoạn phá vây và mở rộng quan hệ đối ngoại thì 10 năm từ 2006 - 2016 là giai đoạn đối ngoại góp phần đưa đất nước bắt đầu chuyển mình từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc tế toàn diện; quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất; công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, hiệu quả.
Giai đoạn 2006 - 2016 được đánh dấu bởi những sự kiện đặc biệt, tác động sâu rộng, làm thay đổi bộ mặt của thế giới trong nhiều năm sau này. Giai đoạn này đánh dấu bước chuyển của cục diện thế giới từ đơn cực sang đa cực. Sự kiện mang tính chi phối toàn diện giai đoạn này là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009, tác động sâu sắc đến nền chính trị, kinh tế, xã hội toàn thế giới trên nhiều phương diện.
Thứ nhất, hệ thống tài chính khủng hoảng dẫn đến suy thoái kinh tế kéo dài; 10 năm sau khủng hoảng, kinh tế thế giới vẫn chưa đạt được quy mô, mức độ tăng trưởng đáng ra có được theo quỹ đạo phát triển trước khủng hoảng. Sự đổ vỡ lan rộng nhanh chóng của thị trường tài chính Mỹ ra toàn cầu làm suy giảm niềm tin vào khả năng tự điều phối của từng thị trường, qua đó càng thúc đẩy ý chí kết nối chặt chẽ của các nền kinh tế và tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế.
Nửa đầu giai đoạn 2006 - 2016 chứng kiến quá trình toàn cầu hoá đạt đến đỉnh cao (hay còn gọi là siêu toàn cầu hoá) khi tốc độ tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu thường cao khoảng gấp hai lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, do hệ quả của sự phân phối không bình đẳng lợi ích của toàn cầu hóa cả ở cấp độ quốc gia và cấp độ quốc tế, đây cũng là giai đoạn phong trào chống toàn cầu hóa, chống tự do thương mại tại Mỹ và các nền kinh tế phát triển dần hình thành[1]. Các vấn đề như bất bình đẳng xã hội, tình trạng thất nghiệp, tái nghèo tại các nước này đã đẩy xu thế dân tuý, dân tộc chủ nghĩa lên cao; các biện pháp bảo hộ thương mại, tranh chấp và mâu thuẫn thương mại có xu hướng gia tăng.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng ở các nền kinh tế lớn, đặc biệt là các nước phát triển, đã tạo điều kiện cho sự dịch chuyển cán cân quyền lực kinh tế, chính trị thế giới, với sự vươn lên về tiếng nói và vai trò của các nước đang phát triển. Xu hướng dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam diễn ra ngày càng mạnh. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương bắt đầu khẳng định vai trò trọng tâm của kinh tế thế giới, trong đó Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới từ năm 2010 và thường xuyên đóng góp tới 30% vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Sự phát triển năng động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc khiến các nước lớn ngày càng quan tâm, đẩy mạnh can dự vào khu vực. Chính quyền Obama ở Mỹ chính thức công bố và triển khai chính sách xoay trục sang châu Á (sau gọi là “Chiến lược tái cân bằng”). Nhiều nước lớn trong và ngoài khu vực cũng có những điều chỉnh chính sách quan trọng. Cạnh tranh chiến lược nước lớn, đặc biệt là cạnh tranh Trung - Mỹ ở khu vực ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, các điểm nóng tiềm tàng ở khu vực, nhất là 4 điểm nóng bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan và Biển Đông diễn biến phức tạp hơn, và đều chịu tác động trực tiếp của cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ.
Thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển đặc biệt nhanh chóng, tạo ra những thay đổi cơ bản tới hầu hết các ngành công nghiệp ở mọi quốc gia trên phạm vi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Sự ra đời và nở rộ của tiền kỹ thuật số (tiền ảo) trong giai đoạn 2006 - 2016 đã đặt nền tảng cho một loại hình thức tiền tệ mới định hình các phương thức thanh toán trong tương lai, thậm chí được đánh giá có khả năng thay thế các phương thức thanh toán bằng tiền pháp định truyền thống[2]. Cũng trong giai đoạn này, xu thế phát triển xanh, bền vững bắt đầu trở thành hướng đi mới của thế giới.
Trong nước, Việt Nam chính thức ra khỏi tình trạng chậm phát triển từ năm 2008, gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp trên thế giới. IMF đánh giá Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu thành công, với mức GDP đạt 6,75%. Thành công này có được là nhờ việc triển khai nhiều “những chính sách rất đúng đắn, giúp ổn định nền kinh tế thời kỳ 2010 - 2011, nghĩa là kiểm soát lạm phát, mức tăng tín dụng và nguồn cung tiền. Tiền đồng hiện đã có tính cạnh tranh cao hơn và lạm phát cơ bản được kiểm soát.”[3] Chính sách tài chính - ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2006 - 2016 đã góp phần tạo nguồn lực và phân bổ nguồn lực cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Đồng thời, các chính sách và tình hình an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo có nhiều sự phát triển tích cực, ngày càng hoàn thiện và thực chất hơn.
Như vậy, môi trường quốc tế và tình hình trong nước giai đoạn 2006 - 2016 đã có những chuyển dịch cơ bản, thế giới và Việt Nam thực sự đã bước vào một thời kỳ mới của quan hệ quốc tế với thách thức, nhưng cũng ẩn chứa nhiều cơ hội.
Đổi mới tư duy đối ngoại
Trước những thay đổi lớn nêu trên, Đảng đã tiếp tục đổi mới tư duy và điều chỉnh đường lối đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới và để phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, cách nhìn nhận về các xu thế lớn của thế giới ngày càng có sự đổi mới theo hướng mở, linh hoạt và thực tế hơn. Cách một quốc gia nhìn nhận thế giới ra sao tác động rất lớn đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của quốc gia đó. Về tầm quan trọng của nhận thức về thời đại, V.I. Lê-nin đã nói, chỉ có trên cơ sở đó, chỉ khi đã hiểu được những nét cơ bản của các thời kỳ đó, thì "chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta”[4]. Trong các nhiệm kỳ đại hội Đảng từ Đại hội IX đến Đại hội XII, Đảng ta nêu thêm nhận định “hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn”. Đây là nhận thức rất quan trọng về vấn đề hòa bình và chiến tranh để từ đó Đảng chỉ đạo hoạch định và triển khai đường lối, chính sách đối ngoại. Nếu như trước đó, Đại hội VI vẫn còn khẳng định chưa bao giờ nguy cơ chiến tranh hạt nhân lại lớn như hiện nay, thì đến Đại hội VIII, Đảng ta nhận định “nguy cơ chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi” và Đại hội IX còn khẳng định mạnh hơn: “Trong vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới”[5]. Đồng thời, cũng chỉ ra rằng, thời gian tới, xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang, can thiệp lật đổ, tranh chấp lãnh thổ tài nguyên, đối đầu về tôn giáo, sắc tộc, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… sẽ ngày càng gia tăng. Dự báo về tình hình thế giới, Đại hội XI của Đảng cho rằng, “chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức”. Thực tế, quan hệ quốc tế giai đoạn 2006 - 2016 và giai đoạn từ đó đến nay cho thấy những nhận định trên là hoàn toàn chính xác.
Sự đổi mới tư duy của Đảng trong việc nhìn nhận các xu thế lớn, nhất là xu thế toàn cầu hóa là yếu tố quyết định đến đổi mới tư duy về chủ trương hội nhập trong giai đoạn 2006 - 2016. Nếu như giai đoạn trước đổi mới và những năm đầu tiên sau đổi mới, Đảng nhấn mạnh các mâu thuẫn giữa hai phe xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), thì từ sau đổi mới, nhất là trong giai đoạn từ sau Đại hội IX, tư duy nhìn nhận thế giới như một thực thể dần thể hiện rõ. Đại hội IX của Đảng lần đầu tiên khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Đại hội X của Đảng đề cập lại khái niệm toàn cầu hóa và vẫn chỉ nhìn dưới góc độ kinh tế: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”[6].
Đến Đại hội XI của Đảng, toàn cầu hóa được Đảng nhìn nhận đầy đủ, khách quan: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”.[7] Theo đó, cũng như mô hình kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa được Đảng nhìn nhận không chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản mà là một thành tựu của văn minh nhân loại. Đây là cách nhìn phản ánh bước chuyển tư duy theo hướng đổi mới, cân bằng và biện chứng hơn giai đoạn trước đó.
Thứ hai, Đảng ta xác định lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Trong phần đường lối đối ngoại, Báo cáo chính trị của Đại hội XI nêu: “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Như vậy, Đảng ta khẳng định, lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại.
Đây là lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong phần đường lối, chính sách đối ngoại của Văn kiện Đại hội Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tổng kết: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân” và coi đây là một trong 5 bài học kinh nghiệm lớn. Đại hội XII của Đảng nêu rõ hơn sự hài hòa giữa lợi ích dân tộc với trách nhiệm quốc tế, khi khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.
Việc xác định đúng lợi ích quốc gia, dân tộc quyết định hướng đi và hiệu quả của chính sách đối nội, đối ngoại. Đồng thời, tư duy của Đảng về lợi ích quốc gia, dân tộc cũng cân bằng, không thể hiện lợi ích dân tộc khép kín mà có sự hài hòa giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với trách nhiệm quốc tế.
Thứ ba, HNQT trở thành định hướng đối ngoại lớn, không chỉ còn HNKTQT như giai đoạn trước. Đại hội XI của Đảng chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực HNKTQT, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực HNQT”, nghĩa là HNQT trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời, Đảng ta cũng thể hiện quan điểm rất cân bằng, biện chứng về hội nhập với tinh thần khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm thiểu tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên WTO. Đây là cơ sở để ngay trong lĩnh vực HNKTQT, tư duy của Đảng giai đoạn 2006 - 2016 cũng có bước đổi mới về chất so với 20 năm đầu tiên của công cuộc đổi mới. Điển hình như quyết định của Việt Nam tham gia đàm phán các FTA thế hệ mới từ cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, đặc biệt là đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thể hiện mục tiêu vừa nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, nhất là từ các nước lớn, cho phát triển đất nước, vừa tạo thêm động lực từ bên ngoài cho cải cách bên trong.
Thứ tư, phương châm mới “thành viên có trách nhiệm” bổ sung cho phương châm “là bạn, đối tác tin cậy” thể hiện Việt Nam định vị đất nước một cách tự tin hơn. Đây là sự phát triển thêm một bước trong tư duy đối ngoại Việt Nam trong việc định vị đất nước trong tương quan với các đối tác khác trong cộng đồng quốc tế. Từ “muốn là bạn” (Đại hội VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội IX), Đại hội XI của Đảng bổ sung thêm “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này cũng thể hiện bước trưởng thành mới của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương. Nội hàm mới này là cơ sở để xác định một trong những ưu tiên đối ngoại trong thời gian tiếp theo là việc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh.”
Thứ năm, xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành ưu tiên đối ngoại của Việt Nam, phản ánh bước chuyển từ cách tiếp cận thụ động trước đây sang chủ động, tích cực hơn. Nếu như tại các đại hội Đảng lần thứ VIII, IX và X sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, Đảng ta mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu yêu cầu tăng cường quan hệ, rồi nâng cao hiệu quả hợp tác với các nước ASEAN, thì từ Đại hội XI đến XII, Đảng ta có bước chuyển tư duy theo hướng thể hiện sự chủ động, tự tin lớn hơn. Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Chủ động tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”. Định hướng này là bước phát triển cao hơn từ định hướng “Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương” được thông qua tại Đại X. Việc tham gia ASEAN trở thành một trong những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Quan hệ hợp tác ASEAN đã có tầm quan trọng ngang với “quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng chung biên giới”.
Thứ sáu, phương châm triển khai hoạt động đối ngoại là đồng bộ, toàn diện. Xu hướng mới của ngoại giao thế giới trong thế kỷ XXI là ngoại giao ngày càng mang tính liên ngành, đa ngành, đòi hỏi cách tiếp cận toàn chính phủ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Sau 20 năm đổi mới, đến giai đoạn từ 2006 trở đi, cục diện quan hệ đối ngoại rộng mở và nội hàm ngày càng rộng của các hoạt động đối ngoại khiến việc triển khai một cách đồng bộ, toàn diện là yêu cầu bắt buộc. Đồng thời, Đảng ta xác định rõ, sự phối hợp giữa các mặt trận quốc phòng - an ninh - đối ngoại cũng thể hiện tính đồng bộ, toàn diện trong triển khai hoạt động đối ngoại. Vận dụng bài học về sức mạnh tổng hợp, Đại hội X đã nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng và an ninh. Sự phối hợp này cần được thể hiện không chỉ về nhận thức, quan điểm trên tầm vĩ mô, không chỉ thông qua việc bảo đảm môi trường quốc phòng, an ninh ổn định để phát triển mà còn được thể hiện trong từng hoạt động cụ thể, địa bàn cụ thể, dự án cụ thể.
Thứ bảy, việc xây dựng các khuôn khổ quan hệ mới theo hướng sâu, thực chất, bền vững hơn qua chủ trương thiết lập, nâng cấp quan hệ với các đối tác ưu tiên, chủ chốt lên quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã hoàn toàn thoát khỏi tình trạng bao vây, cô lập và mở rộng cục diện quan hệ đối ngoại chưa từng có. Vì vậy, đã đến lúc tư duy đối ngoại được nâng lên bước phát triển mới theo hướng coi trọng chất lượng hơn số lượng quan hệ. Do đó, Đảng ta xác định cần đưa các mối quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững[8]. Hoạt động đối ngoại phải hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh tế - xã hội thiết thực như mở rộng thị trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Hoạt động đối ngoại vừa phải tạo môi trường quốc tế thuận lợi, vừa phải đem lại những lợi ích thực chất về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc Đảng đổi mới tư duy về đưa quan hệ đi vào chiều sâu và xây dựng các khuôn khổ quan hệ mới là tiền đề quan trọng để Việt Nam thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện.
Những thành tựu đối ngoại quan trọng, có ý nghĩa lịch sử
Giai đoạn 2006 - 2016 chứng kiến những bước chuyển mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại và những thành tựu quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn này, ta đã hoàn thiện được hệ thống đường lối, chính sách HNQT toàn diện, tạo ra các khuôn khổ để phát triển, nâng cấp quan hệ với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng trên thế giới, đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, phục vụ công cuộc hội nhập và phát triển của đất nước.
Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam đã tạo dựng được các khuôn khổ quan hệ phù hợp, cần thiết với tất cả đối tác quan trọng. Chỉ trong giai đoạn 2006 - 2016, Việt Nam thiết lập thành công quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước bao gồm: Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Anh (2010), Đức (2011), Ý, Pháp, Indonesia, Singapore và Thái Lan (2013), Malaysia và Philippines (2015). Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Úc (2009) và Mỹ (2013), đồng thời nâng cấp quan hệ với Liên bang Nga (2012), Ấn Độ (2016) lên đối tác chiến lược toàn diện. Chỉ tính riêng năm 2013, Việt Nam đã xây dựng năm quan hệ đối tác chiến lược mới và thực hiện các chuyến thăm cấp cao thành công với tất cả các đối tác chiến lược của mình. Điều này khiến Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia trên thế giới và là quốc gia duy nhất trong ASEAN là đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn diện của cả năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Thứ hai, ngoại giao Việt Nam tiếp tục triển khai chủ động, tích cực nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kịp thời giải quyết thoả đáng các vấn đề nảy sinh trên biển. Giai đoạn này, ta tiếp tục giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kịp thời giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trên biển. Cụ thể, Việt Nam đã hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc (2009) và khoảng 75% với Campuchia; hoàn thành công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống biên giới trên bộ với Lào; tích cực đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm với Trung Quốc, thúc đẩy đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia[9]. Ta cũng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề tồn tại với các nước láng giềng trên cơ sở luật pháp quốc tế, các bên cùng chấp nhận, từng bước làm cho đường biên giới chung của nước ta với các nước thành biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Thứ ba, công tác ngoại giao đa phương đã có những bước đột phá, mang lại kết quả rực rỡ trên nhiều phương diện. Cũng trong giai đoạn này, ta đã ghi dấu ấn sâu sắc trên trường quốc tế nhờ những nỗ lực ngoại giao đa phương đầy chiến lược và trách nhiệm. Với vai trò chủ nhà APEC 2006, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và Chủ tịch ASEAN 2010, ta không chỉ khẳng định vị thế quốc gia mà còn thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo, cam kết vì lợi ích chung của khu vực và thế giới. Những thành tựu này đã khẳng định khả năng điều hành, phối hợp và thích ứng linh hoạt của Việt Nam trong môi trường đa phương phức tạp. Những bài học kinh nghiệm từ sự đồng thuận nội bộ, sự chuẩn bị chu đáo, đến cách thức xử lý khéo léo các vấn đề nhạy cảm đã đặt nền tảng vững chắc cho ngoại giao đa phương Việt Nam. Với tiền đề vững mạnh được gây dựng trong giai đoạn 2006 - 2016, Việt Nam đã có cơ hội tiếp tục phát huy vai trò trong các cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định và phát triển bền vững cho cả khu vực lẫn toàn cầu trong thập niên sau này.
Thứ tư, công tác ngoại giao kinh tế được nâng tầm, đóng vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy mạnh mẽ công tác hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, xác lập vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong kinh tế thế giới và cộng đồng quốc tế. Với Chỉ thị số 41-CT/TW, công tác ngoại giao kinh tế đã có những đóng góp quan trọng, với nhiều kết quả tích cực. Một là, mở rộng và đưa quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước đi vào chiều sâu; thị trường xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam được duy trì và mở rộng với trên 200 đối tác thương mại; đầu tư nước ngoài tăng liên tục qua các năm. Hai là, Việt Nam đã đàm phán và ký kết thành công hàng loạt các FTA mới với các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam, giúp đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu, đồng thời tạo ra những động lực đổi mới trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân. Ba là, sự phối hợp giữa trong nước và ngoài nước, giữa Trung ương và địa phương được cải thiện, thông suốt; bảo đảm sự nhất quán thống nhất trong triển khai công tác ngoại giao kinh tế, hỗ trợ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Bốn là, công tác dự báo, tham mưu chiến lược được cải thiện để đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao trong bối cảnh, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, khó lường.
Thứ năm, công tác ngoại giao văn hóa, thông tin, tuyên truyền đối ngoại, công tác đối với kiều bào có những bước tiến quan trọng cả về tư duy, xây dựng hành lang pháp lý và triển khai trên thực tế. Với những thay đổi đột phá về tư duy trong giai đoạn 2006 - 2016, những mặt công tác này đều xây dựng được các cơ sở pháp lý cần thiết, tạo điều kiện cho việc nâng tầm, phát triển và đạt những kết quả thực chất, thiết thực. Những thành quả của các mặt công tác này thực sự đã cộng hưởng với kết quả của ngoại giao song phương, ngoại giao đa phương, ngoại giao kinh tế trong tổng thể quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế giai đoạn 2006 - 2016, từ đó tạo ra một giai đoạn phát triển rất ấn tượng của đất nước.
Những thành tựu ngoại giao kể trên đã ta phát triển tiềm lực và vị thế đất nước mạnh mẽ. Điển hình và tổng quát nhất là: nếu như năm 2006, quy mô GDP của Việt Nam chưa đến 1 triệu tỷ đồng, thì đến năm 2015, quy mô của nền kinh tế đất nước đã lên tới gần 4,2 triệu tỷ đồng[10]. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khách quan, vẫn còn có những hạn chế nhất định xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Một là, một số quan hệ đối tác chưa được tận dụng hiệu quả, hoặc chậm trước các chuyển biến/thay đổi ở khu vực/chính sách của các đối tác. Quan hệ với một số nhóm nước bạn bè truyền thống, các đối tác Trung Đông, Mỹ La-tinh, châu Phi… có hiệu quả hợp tác chưa cao. Nhiều trở ngại còn tồn tại trong phát triển quan hệ giữa nước ta với một số đối tác quan trọng. Hai là, hiệu quả hoạt động đối ngoại có lúc, có nơi chưa thực sự được như mong muốn; việc triển khai thực hiện các kết quả, các thỏa thuận chưa kịp thời. Bên cạnh đó, khả năng theo đuổi, thúc đấy các sáng kiến, các văn kiện ký kết vào thực tiễn còn có hạn chế, chưa thực sự hiệu quả. Ba là, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn có lúc chưa nhịp nhàng, đồng bộ; cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong và ngoài nước còn bất cập. Bốn là, chúng ta còn có lúc chưa nhận thức rõ và chủ động tận dụng thời cơ mới mở ra hay chưa thấy rõ thách thức mới nảy sinh để kịp thời ứng phó.
Một số gợi mở cho công tác đối ngoại trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là một nội hàm mới về tên gọi, nhưng mang tính chất tất yếu về tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định đây “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.”[11]
Cơ sở để xác định nội hàm, mục tiêu và các nhiệm vụ của kỷ nguyên mới nằm ở những thành tựu, bài học của các giai đoạn trước, cũng như tình hình phát triển mới, liên tục, toàn diện của khu vực và quốc tế. Những biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới nhưng cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức mới, trong đó thách thức nổi trội hơn. Một số bài học quan trọng đúc kết từ thành quả đối ngoại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2016 là những gợi mở đối với công tác đối ngoại để kịp thời nắm bắt được các thời cơ, vận hội, hóa giải những khó khăn, thách thức trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước trong triển khai công tác đối ngoại. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng về đối ngoại, sự chỉ đạo, điều hành sâu sát của Chính phủ cùng với quyết tâm, nỗ lực và phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp là những yếu tố quyết định thành công trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách về đối ngoại, là nhân tố làm nên các thành tựu to lớn, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia tầm trung, có vị thế và ảnh hưởng nhất định ở khu vực và trên trường quốc tế.
Thứ hai, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, với phương châm “đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị”. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế cần có cách tiếp cận tổng thể, chiến lược cả về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội và môi trường; sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, thông suốt giữa các kênh đối ngoại, giữa các ban, bộ, ngành từ Trung ương tới địa phương; cần được triển khai trong một tổng thể thống nhất, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp và bảo đảm hiệu quả cao, tính đồng bộ, toàn diện và bổ trợ lẫn nhau, hướng tới các mục tiêu, kết quả thiết thực. Các chính sách phải khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân, nhất là các doanh nghiệp và địa phương, chủ động tham gia, đóng góp tích cực và được hưởng lợi từ quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, có tư duy đúng đắn, nhận thức sâu sắc về các xu thế phát triển của thế giới, tính toán, chiến lược của các đối tác để từ đó kịp thời điều chỉnh đường lối, chính sách để thích ứng với tình hình mới. Những điều chỉnh lớn về tư duy đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 2006 - 2016 giúp Việt Nam bắt kịp được xu thế mới của kinh tế thế giới, nắm bắt được thời cơ trong quan hệ với các nước, từ đó vượt qua được rào cản và thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược với các đối tác lớn, quan trọng, mở ra môi trường quốc tế mới thuận lợi hơn cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, kim chỉ nam của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Trong triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ, thúc đẩy các lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, có tính đến lợi ích chính đáng của các đối tác. Mọi hoạt động, mọi quyết sách đều phải được xây dựng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc; xác định rõ các mặt “đối tác”, “đối tượng” để phát huy tối đa mặt thuận và xử lý các thách thức, khác biệt.
Thứ năm, bài học về “dĩ bất biến ứng vạn biến” kiên trì các nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Việt Nam càng hội nhập thì càng phải xử lý, ứng phó với nhiều vấn đề, nhiều tình huống khác nhau. Phương châm là kiên trì các nguyên tắc, mục tiêu đề ra, đồng thời linh hoạt, khéo léo xử lý cân bằng, hài hoà quan hệ với các đối tác, cũng như giữa lợi ích của Việt Nam với quan tâm chính đáng của các nước trong quan hệ hợp tác song phương và tại các thể chế đa phương; gia tăng điểm đồng và giảm thiểu khác biệt khi có thể.
Thứ sáu, đối ngoại phải vừa là “cánh tay nối dài” của đối nội, vừa đóng vai trò tiên phong trong huy động, tranh thủ các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để đóng góp đắc lực vào hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, cùng với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên. Do vậy, các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong thu hút nguồn lực, tháo gỡ các nút thắt và mở rộng không gian phát triển của đất nước.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng công tác dự báo, tham mưu chiến lược và chất lượng nguồn nhân lực ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ công tác đối ngoại trong tình hình mới. Trong đó, cần liên tục cập nhật và phát triển tư duy trong đánh giá tình hình thế giới, khu vực, các chiều hướng hợp tác, liên kết, tập hợp lực lượng… để tránh bị động, bất ngờ, tối ưu hóa lợi ích của ta ngang tầm thế và lực của đất nước trong mỗi giai đoạn. Đồng thời, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ phải được tiến hành thường xuyên đồng bộ và phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và chiến lược của thời kỳ mới. Cùng với đó, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và rèn luyện, thử thách cán bộ qua thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị, cũng như thường xuyên chăm lo cho đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn.
Lịch sử gần 40 năm đổi mới đã khẳng định tầm quan trọng của quá trình không ngừng đổi mới tư duy, trong đó có tư duy đối ngoại. Những thành tựu quan trọng và bài học kinh nghiệm về đối ngoại rút ra trong giai đoạn đất nước chuyển mình, hội nhập toàn diện, sâu rộng vào khu vực và thế giới từ 2006 - 2016 có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, là một cơ sở quan trọng đối với công tác hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trong thời gian tới, góp phần thúc đẩy các lợi ích an ninh, phát triển và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét