Từ
một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người
khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt
gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi
thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo
an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người.
Đổi
mới tư duy về chính sách xã hội được thể hiện rõ qua các chủ trương của mỗi kỳ
đại hội. Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định “Chính sách xã hội
bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hoá, gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực
tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng
kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết
theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên
mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ
chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Các kỳ đại hội
tiếp theo, vấn đề chính sách xã hội luôn được khẳng định “Chính sách xã hội có
vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và
bền vững trong mọi giai đoạn phát triển”. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội
là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển,
hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân
dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều
kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn
chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị -
xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Hội nghị Trung ương 5 khoá XI ngày 1/6/2012
ban hành Nghị quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 xác
định “chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động
lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển của đất
nước. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực
hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả
năng nguồn lực trong từng thời kỳ”.
Bên
cạnh đó, nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng tiếp tục được ban hành
nhằm cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội, như:
Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020,
xác định bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng,
là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã
hội. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai
nạn lao động là nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát
triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ
phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự
tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an
sinh xã hội; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia bảo đảm an sinh xã hội.
Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban
hành yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ
bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm cân đối
Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong
mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều
chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ...
MỘT
SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Từ
một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người
khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt
gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi
thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo
an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người. Chính sách xã hội đã
góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển vượt bậc con người Việt Nam, chỉ số
phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,703 vào năm 2021, tăng
hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia. Việt Nam
được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ chỗ hơn 60% dân
số nghèo đói (1990) đến năm 2022 tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ
hộ nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%; Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên
3%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm. Chính sách bảo hiểm
xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Đến hết năm 2022
có 17,5 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 38,08% lao động trong độ tuổi tham
gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu
người năm 2012 lên gần 14,3 triệu người năm 2022, chiếm 31,18% lực lượng lao
động trong độ tuổi.
Công
tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước chuyển
từ quan điểm nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền được hưởng an sinh của
người dân. Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng
ở mọi lứa tuổi, chiếm 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện
được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm
sóc, được thực hiện đầy đủ quyền trẻ em và có môi trường sống an toàn; chăm sóc
và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục
hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm góp phần cải thiện đời sống. Bảo
hiểm y tế đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ.
MỘT
SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY
Thực
hiện chính sách xã hội trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Hệ thống các chính sách xã hội cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao
trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người
dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, chính sách xã hội hiện nay
vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, như: chính sách bảo hiểm xã hội tỷ lệ bao phủ
còn rất thấp; chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ
chức thực hiện; chênh lệnh mức sống giữa vùng miền, đối tượng còn cao; kết quả
giảm nghèo chưa đồng đều, tái nghèo vẫn cao; thiếu liên kết giữa các chính sách
trong tổ chức thực hiện. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất
lượng dịch vụ y tế chưa tương xứng với tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, chưa đáp
ứng yêu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt khu vực nông thôn,
miền núi và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu... Chất lượng dịch vụ xã hội còn
hạn chế, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội còn chưa đáp ứng
được yêu cầu. Hệ thống cơ sở dữ liệu, phân công, phân cấp quản lý nhà nước
trong quản lý phát triển các chính sách xã hội từ Trung ương đến địa phương còn
phân tán, thiếu đồng bộ. Nguồn lực thực hiện chính sách xã hội còn trông chờ
nhà nước, chưa có cơ chế kinh tế để huy đông, phân bổ hiệu quả nguồn lực cho
phát triển chính sách xã hội...
KIẾN
NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CẦN ƯU TIÊN
Một
là, quan điểm về chính sách xã hội
Phát
triển xã hội mang tính bền vững là hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục
tiêu vì con người. Cho nên, văn hóa chính là mục tiêu của các chính sách xã
hội. Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã hội
được giải quyết tốt, khi đó, vai trò văn hóa với tư cách là động lực sẽ bồi
dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một xã hội phát triển. Do vậy,
mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải mở đường cho văn hóa phát
triển, phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp
những giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân, vì nhân dân.
Thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu xây dựng đất nước. Nói đến công
bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người với người về phương diện xã
hội, như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này
khẳng định tầm quan trọng và vai trò của công bằng xã hội trong điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội. Để đạt được mục tiêu công bằng xã hội, chủ thể quản lý cần
kiên quyết đấu tranh phòng chống căn bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu. Thực hiện sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng
chính sách phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, để Việt Nam thật sự đạt đến mục
tiêu phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách
xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là
chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển.
Hai
là, cần tiếp tục đổi mới tư duy về chính sách xã hội
Ban
hành và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát
triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, bảo đảm tính bền
vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, đảm
bảo quyền con người. Đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu
tư cho sự ổn định và phát triển kinh tế, với vai trò nguồn lực nhà nước là chủ
đạo, cùng các nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, xã hội, đóng góp của người
dân thông qua các chính sách kinh tế. Từng bước cần nghiên cứu có sự điều tiết
vĩ mô chính sách kinh tế gắn với quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc
thực hiện các chính sách xã hội, cũng như trách nhiệm chính quyền các cấp trong
việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời, thực hiện các
chính sách xã hội góp phần đảm bảo cân đối dân cư giữa các vùng, miền trên phạm
vi cả nước.
Ba
là, kết hợp hài hòa giữa chính sách xã hội với thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững nền kinh tế- xã hội
Kế
hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc
vì sự phát triển bền vững, theo đó Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục
tiêu Phát triển Bền vững với 17 Mục tiêu nhằm giải quyết những thách thức phát
triển lớn mà người dân Việt Nam, trong đó có các chính sách gắn với chính sách
xã hội, như: (1) Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; (2) Xóa đói, bảo đảm
an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền
vững; (3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở
mọi lứa tuổi; (4) Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và
thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; (5) Đạt được bình
đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; (6) Đảm bảo đầy
đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi
người; (7) Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và
có khả năng chi trả cho tất cả mọi người; ( Đảm bảo tăng
trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và
việc làm tốt cho tất cả mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống
chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới;
(10) Giảm bất bình đẳng trong xã hội; (11) Phát triển đô thị, nông thôn bền
vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân
bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; (12) Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền
vững; (13) Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; (14)
Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền
vững; (15) Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát
triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi
tài nguyên đất; (16) Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng,
văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả
mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự
tham gia ở các cấp; (17) Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác
toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
Bốn
là, đảm bảo sự gắn kết thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã
hội, coi quản lý phát triển xã hội là một bộ phận cấu thành hệ thống các chính
sách xã hội
Thực
hiện mục tiêu đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tầm nhìn Việt nam đến 2045 là trở
thành quốc gia phát triển, thuộc nhóm các nước có thu nhập cao, Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nêu về phát triển các chính sách xã
hội: “quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có
công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”; “Phát triển hài
hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng miền, ưu tiên các
vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo và
các đối tượng chính sách”; “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội,
nhất là cho những người yếu thế, người nghèo”, theo đó cần tập trung vào quản
lý phát triển xã hội đòi hỏi cần nghiên cứu ban hành chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển chính sách xã hội gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; cần đổi mới cơ chế phân công, phân
cấp trong huy động, phân bổ, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thực hiện
các chính sách xã hội và nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý
nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quản lý phát triển xã hội cho phù
hợp giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra, cần có cơ chế chủ động nghiên cứu, nắm
bắt và dự báo được những vấn đề chính sách xã hội sẽ nảy sinh, dự báo xu hướng
biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội cũng chính sách huy động
nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội.
Năm
là, phát triển phúc lợi xã hội bao trùm cần ưu tiên hướng đến trong các chính
sách xã hội
Phúc
lợi xã hội bao trùm gắn kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là bảo đảm
các nhu cầu cơ bản, thiết yếu về giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở xã hội, giao
thông công cộng, phúc lợi cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới của Việt
Nam, việc tăng cường phúc lợi xã hội đã trở nên cần thiết để nhà nước có thể
đáp ứng những nhu cầu của người dân. Cần tập trung vào những vấn đề thiết yếu
nhất của người dân lao động, bảo đảm các thành phần kinh tế được công bằng và
khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển nước nhà.
Giáo dục là nội dung quan trọng hàng đầu của phúc lợi xã hội, bảo đảm nguồn
nhân lực có chất lượng và hạ tầng xã hội cho phát triển đất nước, thúc đẩy công
bằng về cơ hội phát triển đối với mọi thành viên xã hội.
Đại
hội XIII của Đảng nhấn mạnh tính hiệu quả khi tăng mức đầu tư cho giáo dục, tức
xác định chi ngân sách cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tăng chi là cần
thiết nhưng phải bảo đảm chi đúng đối tượng, đúng hạng mục chuyên môn, thay vì
chi dựa trên tổng biên chế của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị mà không phân khai
rõ hiệu quả của đối tượng thụ hưởng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu
rõ, cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đúng hướng, mà vấn đề lớn là phân loại rõ
đâu là hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cá nhân người học cùng khả năng chi
trả tài chính tương ứng, đâu là hoạt động giáo dục phi lợi nhuận gắn với cơ
chế, chính sách tương ứng của Nhà nước. Đối với hoạt động giáo dục phi lợi
nhuận, cần sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ chính sách, mà cả nguồn lực, như
mặt bằng đất đai mở trường, miễn thuế cho những trường hợp sử dụng thu nhập cá
nhân hoặc tài sản thừa kế để đầu tư cho phát triển giáo dục... Giáo dục mầm non
có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm phúc lợi xã hội, có lúc, có nơi đã
từng thả nổi cho thị trường, dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc, như giáo viên bạo
hành trẻ nhỏ, chế độ nuôi dưỡng không bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn
thực phẩm, thiếu phương pháp, phương tiện phù hợp với đặc điểm “giáo dục
sớm”... Trong cơ chế thị trường, cần khuyến khích khu vực ngoài công lập đầu tư
phát triển các trường đáp ứng yêu cầu những gia đình có khả năng chi trả tài
chính gắn với những điều kiện tốt về cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị giáo
dục, đưa đón học sinh, chế độ bữa ăn,... nhưng các tiêu chuẩn cơ bản (chất
lượng giáo viên, tài liệu học tập, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, điều
kiện nuôi dạy...) thì không thể có sự phân biệt giữa khu vực công và khu vực
tư.. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe bảo đảm phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả,
đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân mà không làm “nghèo hóa” người
có thu nhập thấp, nhờ bảo hiểm y tế toàn dân và giá dịch vụ y tế được kiểm soát
bởi vai trò Nhà nước thể hiện tính chất phúc lợi xã hội tiến bộ, hiệu quả và
nhân văn. Phúc lợi văn hóa được bảo đảm bằng phát triển các thiết chế văn hóa
mang tính chất dịch vụ công cộng mà người thụ hưởng được miễn phí hoặc phí sử
dụng thấp; được hưởng thụ các giá trị văn hóa cộng đồng, như công viên, lễ hội,
tham quan các di tích, tín ngưỡng, tôn giáo do cộng đồng tự quản; được tiếp cận
các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể thao miễn phí qua các kênh truyền thông
công cộng. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa
giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân... Đây là những vấn đề
rất lớn về phúc lợi xã hội cần chăm lo phát triển vì con người thông qua phát
triển hạ tầng xã hội. Phát triển phúc lợi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
sống và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước đi và từng chính sách phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.
St
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét