Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

NÂNG CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC NHỮNG THỦ ĐOẠN MỚI CHỐNG PHÁ ĐẢNG

 

Nêu cao tinh thần cảnh giác, có quan điểm và phương pháp đúng trong giải quyết các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động, chia rẽ nội bộ nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo. Đấu tranh kiên quyết với những âm mưu và hành động chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa ly khai của các thế lực thù địch.

Chăm lo xây dựng lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân là khối liên minh công nhân-nông dân- trí thức, nâng cao vai trò, vị thế của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để xây dựng, nâng cao vai trò, vị thế của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước phải tăng cường giáo dục nâng cao giác ngộ về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức; giải quyết việc làm, thu nhập lao động cho từng giai cấp phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cùng với việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền QPTD trong tình hình mới. Thực hiện biện pháp này, một mặt phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò chủ động, tích cực của các tổ chức quần chúng; mặt khác, phải tăng cường vai trò của chính quyền các cấp trong quản lý nhà nước về các hoạt động và các tổ chức chính trị-xã hội. Có nhiều chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế, xã hội để đoàn kết liên minh công-nông- trí thức, phát huy tối đa tiềm năng của họ trong thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc; đồng thời xác định các chính sách đúng hợp lòng dân tạo nên động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc./.

                                                                                                 VHT.

 

NHỮNG KIỂU XUYÊN TẠC, VU CÁO TRONG THỜI ĐẠI SỐ

    Thời đại công nghệ số 4.0 sẽ ít nhiều làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội.

    Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sẽ xuất hiện nhiều hơn một số xu thế mang tính phổ quát, bên cạnh những giá trị chung, truyền thống trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác nhau, như xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế lớn trong đổi mới quản lý, quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin; tăng cường nguồn lực tinh hoa cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, khủng bố, biểu tình, bạo loạn đối với Việt Nam có thể được thực hiện tinh vi hơn.

    Những năm qua, một trong các yếu tố tạo nên uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế là việc Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định quan điểm tiến bộ, tích cực về nhân quyền, đồng thời cố gắng tạo điều kiện để mọi người dân được hưởng các quyền của mình và trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhân quyền không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, không phải khi nào hoạt động này cũng nhận được sự hợp tác thiện chí từ một số quốc gia. Nhân quyền là giá trị thiêng liêng mà toàn thế giới hướng tới.

Thế nhưng đây cũng là chủ đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch và một số tổ chức phi chính phủ được sự giúp đỡ của phương Tây luôn tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện những động cơ xấu để can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, nhất là các quốc gia có thể chế chính trị XHCN nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản.

Trong mọi giai đoạn cách mạng, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt với nhiều phương tiện, cách thức khác nhau hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ trong thời đại số nhằm tận dụng đa dạng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước. Tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam (như VOA tiếng Việt, RFA, RFI, BBC Việt ngữ, HRW...) để tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, hạ bệ thần tượng, gây nghi kỵ, chia rẽ nội bộ, triệt để khai thác các sự kiện chính trị, những vấn đề nhạy cảm để mở các chiến dịch tuyên truyền chống Việt Nam.

    Đồng thời các hội, nhóm, tổ chức phi chính phủ nước ngoài không có thiện chí với Việt Nam tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo, ra tuyên bố, ban hành một số nghị quyết, báo cáo… vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam; gắn viện trợ nhân đạo với những đòi hỏi về cải thiện dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí ngôn luận…. Hậu thuẫn tổ chức phi chính phủ thông qua việc triển khai các dự án với những mỹ từ như “thúc đẩy”, “cải thiện nhân quyền”, khích lệ các đối tượng phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối trong nước gia tăng hoạt động. Nhiều tổ chức như Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá quốc tế (AL), Freedom House (FH)… trong báo cáo hàng năm, một mặt thừa nhận Việt Nam có chuyển biến tích cực nhưng vẫn cố ý đánh giá tiêu cực về tình hình nhân quyền Việt Nam.

Thông qua các nền tảng số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung “thật giả lẫn lộn” và thông tin sai lệch để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin (mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin); ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm…  Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn ít nhiều đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân. Những cái “bẫy thông tin”mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thông tin chính thống và thông tin giả mạo, dẫn đến có nhận thức không đúng, không tốt về Việt Nam.

Sử dụng công nghệ số để ngăn chặn luận điệu xuyên tạc, vu cáo

    Định hướng thứ tư trong phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội XIII là “...xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đã bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội dung, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta xác định:“...Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”.Theo đó, tuyên truyền văn hóa Việt Nam ra thế giới cần đưa ra các thông điệp vừa làm nổi bật được những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, trong đó có tính khác biệt với các quốc gia khác, vừa đảm bài sự hài hòa với xu thế chung của nhân loại, đồng thời phải tác động đến tình cảm,đáp ứng được nhu cầu và thuyết phục đối tượng tiếp nhận.

    Do đó, hoạt động tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới không thể tách rời với việc đấu tranh phản bác, chống các luận điểm xuyên tạc, bôi nho hình ảnh Việt Nam. Đây cũng chính là một trong những lĩnh vực quan trọng của công tác tư tưởng nói chung và công tác đối ngoại nói riêng.

    “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị” là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ hình ảnh Việt Nam trước những thông tin không đúng sự thật.

    Trong thế giới toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, danh tiếng và hình ảnh tích cực của một quốc gia ngày càng được coi trọng, thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế bởi hình ảnh quốc gia không chỉ ảnh hưởng đến các mối quan hệ quốc tế mà còn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như năng lực cạnh tranh của đất nước. Do vậy, việc tạo dựng, quảng bá, nâng cao hình ảnh quốc gia ngày càng được các nước chú trọng như một chiến lược sức mạnh mềm trong môi trường quốc tế nhiều biến đổi.

Thông qua nền tảng số, bè bạn quốc tế đã biết đến Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, lại bị bao vây cấm vận, nay trở thành một Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ kinh tế thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ; có vai trò, vị thế ngày càng nổi bật trong khu vực và trên thế giới; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO…

    Như vậy, trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, việc sử dụng các nền tảng công nghệ số để phục vụ tuyên truyền một mặt góp phần thúc đẩy quảng bá về một Việt Nam thân thiện, mến khách, một đất nước được coi là “điểm hẹn của hòa bình”, điểm đến an toàn cho bè bạn quốc tế, mặt khác góp phần phản bác lại các thông tin tuyên truyền sai trái, thù địch đối với Việt Nam cũng như nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam với thế giới.

 


LÁ BÀI NHÂN QUYỀN TRONG THỜI ĐẠI SỐ

 

    Thời đại công nghệ số 4.0 sẽ ít nhiều làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội.

    Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sẽ xuất hiện nhiều hơn một số xu thế mang tính phổ quát, bên cạnh những giá trị chung, truyền thống trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác nhau, như xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế lớn trong đổi mới quản lý, quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin; tăng cường nguồn lực tinh hoa cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, khủng bố, biểu tình, bạo loạn đối với Việt Nam có thể được thực hiện tinh vi hơn. Những kiểu xuyên tạc, vu cáo trong thời đại số

    Thông qua các nền tảng số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung “thật giả lẫn lộn” và thông tin sai lệch để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin (mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin); ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm…  Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn ít nhiều đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân. Những cái “bẫy thông tin”mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thông tin chính thống và thông tin giả mạo, dẫn đến có nhận thức không đúng, không tốt về Việt Nam.

    Sử dụng công nghệ số để ngăn chặn luận điệu xuyên tạc, vu cáo

    Định hướng thứ tư trong phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội XIII là “...xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đã bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội dung, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta xác định:“...Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”.Theo đó, tuyên truyền văn hóa Việt Nam ra thế giới cần đưa ra các thông điệp vừa làm nổi bật được những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, trong đó có tính khác biệt với các quốc gia khác, vừa đảm bài sự hài hòa với xu thế chung của nhân loại, đồng thời phải tác động đến tình cảm,đáp ứng được nhu cầu và thuyết phục đối tượng tiếp nhận.

    Do đó, hoạt động tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới không thể tách rời với việc đấu tranh phản bác, chống các luận điểm xuyên tạc, bôi nho hình ảnh Việt Nam. Đây cũng chính là một trong những lĩnh vực quan trọng của công tác tư tưởng nói chung và công tác đối ngoại nói riêng.

    “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị” là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ hình ảnh Việt Nam trước những thông tin không đúng sự thật.

    Thông qua nền tảng số, bè bạn quốc tế đã biết đến Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, lại bị bao vây cấm vận, nay trở thành một Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ kinh tế thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ; có vai trò, vị thế ngày càng nổi bật trong khu vực và trên thế giới; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO…

    Như vậy, trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, việc sử dụng các nền tảng công nghệ số để phục vụ tuyên truyền một mặt góp phần thúc đẩy quảng bá về một Việt Nam thân thiện, mến khách, một đất nước được coi là “điểm hẹn của hòa bình”, điểm đến an toàn cho bè bạn quốc tế, mặt khác góp phần phản bác lại các thông tin tuyên truyền sai trái, thù địch đối với Việt Nam cũng như nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam với thế giới.

 

TIẾP TỤC CẢI CÁCH

Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Sáng 6-8, tại Nhà Quốc hội, Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức phiên họp mở rộng để thẩm tra Báo cáo của Chính phủ tổng hợp việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV (Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24-11-2017 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lĩnh vực nội vụ quy định tại Nghị quyết số 33/2016/QH14 ngày 23-11-2016 về chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV). 

Các đại biểu đánh giá cao Chính phủ đã nghiêm túc trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội. Nội dung các báo cáo đã phản ánh được khái quát tình hình các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV; đánh giá những mặt làm được, chỉ ra được những hạn chế, bất cập, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị trong thời gian tới.

Theo Báo cáo của Chính phủ, sau khi có Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định, 6 Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của một số bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Tổng cục thuộc Bộ.

Qua rà soát 5 Nghị định trên, Thường trực Ủy ban Pháp luật nhận thấy, cơ bản các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ không chuyển các vụ thành cục, tổng cục; các cơ quan thuộc Chính phủ giảm số đơn vị được thành lập phòng, giảm số phòng.

Các văn bản nêu trên vẫn còn một số quy định chưa đáp ứng yêu cầu là: tăng tổng số phòng trong các đơn vị trực thuộc Bộ, số đầu mối không tăng nhưng cũng chưa được sắp xếp để bảo đảm tinh gọn theo yêu cầu của Nghị quyết. Các nghị định về cơ quan thuộc Chính phủ cũng không quy định số lượng tối đa cấp phó của đơn vị trực thuộc nên có thể dẫn đến tùy tiện khi áp dụng.

Một số đại biểu nêu quan điểm: Dư luận vẫn nóng lên với nhiều vấn đề bức xúc về tuyển dụng, đề bạt không đúng, bổ nhiệm “siêu tốc” xảy ra gần đây như việc Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hóa bổ nhiệm hàng loạt cán bộ lãnh đạo cấp phòng sai quy định trước khi nghỉ hưu; hay Tổng giám đốc Tổng Công ty Cảng hàng không bổ nhiệm 70 cán bộ trước khi nghỉ hưu…

Các đại biểu đề nghị cần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời phát hiện sai phạm trong tuyển dụng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, công chức bởi đây là một trong những yêu cầu quan trọng được đặt ra trong Nghị quyết số 56/2017/QH14.

Nhiều ý kiến đề nghị thời gian tới Bộ Nội vụ kiên quyết hơn trong việc giao biên chế cho từng địa phương, bộ, ngành. Chính phủ tiếp tục sắp xếp cơ cấu tổ chức các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn với các tiêu chí cụ thể.

Để việc thực hiện các Nghị quyết đi vào thực chất, hiệu quả, các đại biểu đề nghị Chính phủ tiếp tục tăng cường việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước theo yêu cầu của Nghị quyết số 56/2017/QH14.

Việc rà soát, thu gọn đầu mối các cơ quan, tổ chức là cần thiết nhưng cần phải nghiên cứu một cách thận trọng, kỹ lưỡng và có cơ sở thực tiễn để đảm bảo tính khoa học, hiệu quả, khả thi, tránh việc thu gọn một cách cơ học mà số lượng biên chế, tổ chức bên trong vẫn cồng kềnh, chồng chéo.

 


ĐỔI MỚI TINH GỌN BỘ MÁY HÀNH CHÍNH

 

        Chiều 11/7, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045" chủ trì Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo làm việc với Ban Cán sự Đảng Chính phủ về dự thảo Đề án.

Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng ban Chỉ đạo; Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo; Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ; đại diện một số bộ, ngành Trung ương, các chuyên gia, nhà khoa học pháp lý.

Các ý kiến đóng góp, thảo luận tại hội nghị đánh giá cao dự thảo Đề án được xây dựng công phu, bài bản, là sản phẩm của trí tuệ tập thể và đóng góp nhiều ý kiến về nội dung của dự thảo Đề án liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ; trong đó nhấn mạnh kết quả đạt được và hạn chế, nhiệm vụ, giải pháp. Cùng với đó, một số ý kiến đề cập đến một số vấn đề quan trọng còn có ý kiến khác nhau về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án, hoàn thiện cơ chế thi hành án hình sự; phân tích về vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền con người - nội dung quan trọng trong tiến trình xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế, là đặc trưng, giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền.

Nhiều ý kiến làm rõ thêm về đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền trong bộ máy nhà nước, trong đó tập trung làm nổi bật vấn đề còn có ý kiến khác nhau là sắp xếp lại các đơn vị hành chính.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự nghiêm túc, trách nhiệm của Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã hoàn thành ba chuyên đề theo sự phân công của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án. Trong quá trình triển khai xây dựng Đề án, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ban Nội chính Trung ương, Thủ tướng Chính phủ với vai trò Phó Trưởng ban Chỉ đạo đã đồng chủ trì các hội thảo quốc gia lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học, các cấp, các ngành, các địa phương.

Chủ tịch nước nêu rõ, các cơ quan hành pháp đã có nhiều đóng góp tích cực trong phát triển đất nước, hệ thống pháp luật của Việt Nam được đổi mới, bộ máy tinh gọn hơn. Chính phủ và các bộ, ngành đã tập trung điều hành vĩ mô và đạt được nhiều kết quả tích cực, dù đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách thời gian qua nhưng kinh tế vĩ mô ổn định, gây dựng được niềm tin của nhân dân đối với chế độ, đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới.

Chủ tịch nước đánh giá cao tại hội nghị, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, các chuyên gia, nhà khoa học đã đóng góp ý kiến tâm huyết, thẳng thắn, có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc về các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ; trong đó nhiều ý kiến nêu rõ quan điểm, thể hiện lập luận sắc sảo, thuyết phục, có cơ sở khoa học về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; gợi mở hướng bổ sung, chỉnh sửa. Những vấn đề góp ý, thảo luận rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước, trong đó có các vấn đề về thành lập các thiết chế mới, những điểm mấu chốt để tạo sự đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhiều ý kiến thể hiện rõ tâm huyết, tinh thần trách nhiệm cao với các vấn đề hệ trọng của đất nước, vì sự trường tồn của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nhiều vấn đề đã được làm rõ, được đồng thuận cao ngay tại hội nghị.

Đề cập theo kế hoạch, thời gian hoàn thiện dự thảo Đề án trình Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương 6 không còn nhiều, Chủ tịch nước nhấn mạnh yêu cầu đòi hỏi các cấp, các ngành phải nỗ lực hơn nữa tích cực tham gia đóng góp, xây dựng để có dự thảo Đề án bảo đảm tiến độ, có chất lượng tốt nhất. Chủ tịch nước đề nghị Thường trực Ban Chỉ đạo tiếp thu các ý kiến đóng góp, hoàn thiện dự thảo đề án trên tinh thần cầu thị lắng nghe, với quan điểm những nội dung đạt thống nhất cao thì đưa vào văn kiện, những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau cần tiếp tục xem xét, nghiên cứu và đưa ra bàn thảo tại phiên họp thứ tư của Ban Chỉ đạo.

Tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Phó Trưởng ban Chỉ đạo đánh giá cao đề án được xây dựng kỹ lưỡng, phương pháp làm việc khoa học, tinh thần trách nhiệm cao, hiệu quả, sự cầu thị, kiên trì lắng nghe, tiếp thu các ý kiến đóng góp của Thường trực Ban Chỉ đạo, Tổ biên tập. Dự thảo đề án là công trình nghiên cứu đồ sộ không chỉ phục vụ cho Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà còn phục vụ nhiều công việc quan trọng khác.

Thủ tướng ghi nhận một số vấn đề mới, khó đã đạt được sự thống nhất trên tinh thần phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, lắng nghe nhiều chiều, tôn trọng ý kiến phản biện. Thủ tướng Chính phủ tán thành việc phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cấp được phân cấp, phân quyền; việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính theo đề xuất của Tổ Biên tập dự án.

 

LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

 

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên  thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

 

ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

 

Thống nhất cao về nhận thức, tầm quan trọng của Đề án xây dựng Nhà nước pháp quyền

Chiều 18/4, tại trụ sở Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban chỉ đạo xây dựng Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045"

Kể từ phiên họp thứ nhất của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045" vào tháng 7/2021, Ban Chỉ đạo đã làm việc trên tinh thần khẩn trương, quyết liệt, trách nhiệm cao trước Đảng và Nhà nước, các cơ quan liên quan đã khẩn trương xây dựng 27 chuyên đề nhánh làm cơ sở xây dựng Đề án.

Các cơ quan như Quốc hội, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công an, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm xin ý kiến lãnh đạo các cơ quan, các chuyên gia về dự thảo các chuyên đề.

Nhiều thành viên Ban Chỉ đạo quyết liệt, sát sao, chủ động, dành thời gian cho ý kiến nhiều lần các chuyên đề nhánh để có được sản phẩm chất lượng tốt. Cũng trong 10 tháng qua, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc đã có 4 cuộc làm việc với các chuyên gia, nhà khoa học.

Ban Nội chính Trung ương đã làm tốt vai trò đầu mối, tham mưu trực tiếp và tổ chức rất thành công 3 hội thảo quốc gia ở Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của hàng trăm lượt chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ làm công tác quản lý, cán bộ làm công tác thực tiễn, trong đó có các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư để Ban Chỉ đạo lắng nghe ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học. Đây là đầu vào rất quan trọng cho xây dựng Đề án.

Thay mặt Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao tinh thần trách nhiệm trước Trung ương, trước Bộ Chính trị, của các thành viên Ban Chỉ đạo trong chỉ đạo xây dựng và hoàn thành 27 chuyên đề.

Chủ tịch nước cũng biểu dương, đánh giá cao các cơ quan và cảm ơn các chuyên gia, nhà khoa học, cùng Tổ Biên tập. Đặc biệt, trong hơn 1 tháng qua, các thành viên Tổ Biên tập, nhất là các chuyên gia, nhà khoa học đã dành hết tâm trí, sức lực, với phương pháp làm việc rất khoa học, trao đổi, thảo luận dân chủ, cởi mở, huy động tối đa kiến thức, kinh nghiệm tích lũy được trong nhiều năm vào việc tổng hợp để xây dựng dự thảo Đề án lần thứ nhất trình Ban Chỉ đạo cho ý kiến.

Theo đề nghị của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, các thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đánh giá cao Thường trực Ban Chỉ đạo đã chuẩn bị công phu, bài bản dự thảo Đề án lần nhất với sự tham gia ý kiến sâu của các nhà khoa học, dù đây là lần đầu tiên Đảng ta xây dựng Đề án rất quan trọng này.

Các thành viên Ban Chỉ đạo cũng cho ý kiến vào nội dung của Đề án như những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, cũng như các nguyên tắc, các đặc trưng cơ bản và những kiến nghị, đề xuất về mục tiêu, quan điểm, lộ trình theo 2 giai đoạn từ 2021- 2030 và từ 2030 - 2045, cũng như những phương hướng đột phá nhằm hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo.

Trong phát biểu kết luận phiên họp, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, Ban Chỉ đạo thống nhất cao về nhận thức, tầm quan trọng, tính chiến lược của Đề án, trong đó thống nhất về các quan điểm đổi mới, phát triển đất nước, đưa đất nước phát triển bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng; các vấn đề nêu ra đều có cơ sở pháp lý.

Dự thảo lần thứ nhất được xây dựng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp và Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Từ ý kiến của các thành viên Ban Chỉ đạo, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Ban Nội chính Trung ương, Tổ Biên tập tiếp tục hoàn thiện dự thảo Đề án một cách chặt chẽ, có hệ thống, đồng thời làm rõ thêm các nội dung quan trọng là đánh giá thực trạng, các quan điểm, mục tiêu đột phá, các nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Do thời gian hoàn thiện Dự thảo Đề án đến khi trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng sắp tới không còn nhiều, Chủ tịch nước đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo, nhất là Ban Nội chính Trung ương rà soát việc triển khai Kế hoạch để đôn đốc, thực hiện kịp thời và đảm bảo chất lượng các nhiệm vụ, trong đó cần phối hợp với Văn phòng Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức 3 hội nghị ở 3 vùng cả nước để lấy ý kiến của các địa phương và cơ sở.

Chủ tịch nước đề nghị Ban Nội chính Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương thực hiện tốt công tác truyền thông để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu và có thể tham gia góp ý vào các vấn đề của Đề án.

 

MỤC ĐÍCH CHỐNG PHÁ CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH KÊU GỌI XÓA BỎ CÁC ĐIỀU LUẬT

 

Thời đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và các quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện cụ thể. Điều đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.

Thế nhưng, hiện một số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ chức thù địch, đối tượng phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài đang tìm cách đi ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. Các đối tượng tìm kiếm sự can thiệp từ bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích chính trị xấu.

Chẳng hạn, các đối tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia như: Điều 109 "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"; Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam". Hay như Điều 331 "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" thuộc Chương XXII về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính...

Thực chất, việc kêu gọi xóa bỏ các điều luật này xuất phát từ các đối tượng có âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Vậy, mục đích của các đối tượng kêu gọi xóa bỏ các điều luật này là gì?

Thứ nhất, các đối tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi "vùng cấm" của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị chế tài pháp luật xử lý. Các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai an toàn, nằm trong "nhóm lợi ích" vượt ra ngoài sự quản lý của pháp luật để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà nước; thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị pháp luật cấm đoán.

Thứ hai, các đối tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các hoạt động tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự chú ý cho dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có các bài viết chống phá Việt Nam như đài RFA, RFI... Các hoạt động kêu gọi nhằm đánh lạc hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam đang "rối ren"; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Thứ ba, tất cả các hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm ngoài âm mưu tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần chúng toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam nhằm xuyên tạc, vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân chủ, nhân quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để "bóp nghẹt" quyền tự do dân chủ, các quyền căn bản của công dân được Hiến định.

Các đối tượng chống phá muốn xóa bỏ các điều luật nói trên đều nằm trong âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và đây không phải là thủ đoạn mới. Các Bộ luật Hình sự trước đây khi ban hành và thực thi thì các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động cũng tìm cách đả phá, đòi huỷ bỏ những điều luật mà họ cho rằng "lạc hậu", "trói cột", "bịt miệng"…

Thực tế, không phải vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các đối tượng đều hiểu rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp luật, là phạm tội, nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần cảnh cáo, nhắc nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với các điều khoản tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên của cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật và việc xử lý đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các phần tử tham gia các tổ chức phản động, chống phá Nhà nước).

Một nguyên tắc trong xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể đứng ngoài pháp luật. Dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì khi vi phạm đều xử lý bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm đầu, cố tình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm… thì sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì nhận thức thấp kém, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành khẩn khai báo… thì được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử, luận tội, toà án xem xét công và tội rõ ràng, công minh.

Việc điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo tuân thủ theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình xét xử đảm bảo việc tranh tụng dân chủ trước toà. Các vụ án xét xử bị cáo theo các tội danh mà các đối tượng thường xuyên có hoạt động kêu gọi xóa bỏ như Điều 109, Điều 117, Điều 331 Bộ luật Hình sự cũng đảm bảo theo quy định, nguyên tắc đó. Các hoạt động tố tụng đều thực hiện theo các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, thể hiện sự công khai, minh bạch, trách nhiệm trong các hoạt động công tố và các bản án được xem xét khách quan, người dân ủng hộ, điều này cũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

NÓI VỀ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN MỸ KHÔNG ĐỦ TƯ CÁCH NÓI CHUYỆN VỚI VIỆT NAM!

     Nguyên chủ tịch nước Nguyện Minh Triết “Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
     Nhân Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi thăm chính thức Đài Loan, mình đăng lại câu chuyện "Bà Chủ tịch Hạ viện Mỹ Pelosi và Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết".
     Sau khi Mỹ và Việt Nam chính thức nối lại bang giao, nhiều người phía Mỹ vẫn mạnh mẽ chống đối Việt Nam. Khi nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết qua Mỹ vẫn còn gặp khó khăn, họ thiết kế một chương trình tiếp xúc, cuộc gặp gỡ đầu tiên với - Chủ tịch Hạ viện Mỹ, bà Nancy Pelosi.
     Vào cuộc gặp, chưa kịp ngồi, bà Nancy Pelosi đã tuôn một tràng rằng, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ để cùng nhau phát triển. Nhưng Việt Nam cứ vi phạm dân chủ, vi phạm nhân quyền, làm những việc sai trái, Mỹ không thể chấp nhận.
     Chờ bà Nancy Pelosi nói xong, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Văn Triết mới nhỏ nhẹ đáp lại thẳng thắn: “Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
     Nghe như vậy, bà Pelosi sửng sốt: “Thế là thế nào ?”.
     Nguyên Chủ tịch nước đanh thép trả lời: “Ngày trước, Mỹ mang bom đạn xâm lược Việt Nam, gây bao nhiêu mất mát, đau khổ cho Việt Nam, Việt Nam đã bỏ qua. Hôm nay, Việt Nam đã gác lại quá khứ, hướng đến tương lai. Còn hiện tại, Mỹ vẫn còn có quân ở Iraq, Afghanistan, ở nhiều nơi khác trên thế giới. Bom đạn vẫn còn nổ, máu vẫn còn đổ, người vẫn còn chết,… Mỹ cũng vi phạm dân chủ nhân quyền”.
     Bà Pelosi im lặng, nhưng ông trợ lý ngồi bên cạnh liền cầm tấm ảnh chụp Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng đưa lên, rồi hỏi: “Ông có thấy tấm ảnh này không?”.
     Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bình tĩnh trả lời rằng: “Đây là việc làm sai trái của một cán bộ của chúng tôi và chúng tôi đã xử lý nghiêm khắc rồi. Nhưng các ông có biết, hôm đó, tại phiên tòa, ông Lý cũng buông những lời lẽ khó nghe như thế nào không? Vì những lời lẽ ấy nên cán bộ chúng tôi mới có vi phạm như thế. Nhưng dù gì đi nữa, cán bộ của chúng tôi sai, chúng tôi đã phải xử lý. Ngay tại Mỹ, cảnh sát Mỹ cũng sai phạm như đánh người, đánh dân, có những hành động sai trái trên đường phố. Tôi nghĩ rằng, sai trái này chỉ là cá biệt. Không phải là chủ trương của lãnh đạo, chúng ta phải xử lý, làm cho tốt hơn”.
     Sau cuộc gặp đó, mọi chuyện êm xuôi. Họ tiếp đoàn lãnh đạo cấp cao của Việt Nam rất nồng hậu. Đặc biệt, hôm gặp Tổng thống Mỹ G.Bush (con), ông ấy không đả động gì đến chuyện dân chủ, nhân quyền nữa. Cuộc trò chuyện diễn ra vui vẻ./.
Yêu nước ST.

Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

 

 
Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế đã đạt được nhất trí cao trong nhận thức và trong triển khai đường lối đổi mới ở nước ta. Về cơ bản, mối quan hệ đó là quan hệ nguyên nhân và kết quả và có tính bổ sung cho nhau, không triệt tiêu lẫn nhau, thể hiện qua một số khía cạnh chính sau: 
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết cho hội nhập quốc tế hiệu quả. Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ đóng góp cho các mục tiêu độc lập tự chủ về an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Độc lập, tự chủ là cơ sở cơ bản để được cộng đồng quốc tế thừa nhận và bảo đảm cho hội nhập hiệu quả. 
Thứ hai, độc lập, tự chủ quyết định bước đi hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa quyết định chủ quan trước xu thế khách quan: trong khi toàn cầu hoá là khách quan, việc các nước quyết định mức độ, phạm vi và lộ trình hội nhập là thuộc yếu tố chủ quan nằm trong chủ quyền của từng nước. 
Thứ ba, hội nhập quốc tế có tác động trở lại đối với độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế không làm suy giảm độc lập, tự chủ nhưng làm thay đổi nội hàm và phương cách bảo đảm độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế là quá trình “đánh đổi,” chuyển giao và tiếp nhận. Trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế, các quốc gia chủ động và tự nguyện chuyển nhượng một phần quyền lực của mình cho thể chế hội nhập, cho thị trường. Đổi lại, quốc gia có quyền tham gia vào các quyết định ở tầm cao hơn, rộng hơn, trên quy mô khu vực và toàn cầu. Hội nhập quốc tế mang lại cho quốc gia vị thế mới, công cụ mới để giữ vững độc lập, tự chủ. 
Thứ tư, hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ và làm tăng sự lệ thuộc của quốc gia vào các nước khác, đồng thời tác động tới sự phân hoá xã hội của từng nước.
Từ mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế kể trên, có thể cho rằng càng hội nhập sâu rộng thì các phát triển mới trong khu vực và trên thế giới càng trực tiếp ảnh hưởng đến nước ta, từ đó tác động đến khả năng chúng ta độc lập và tự chủ xử lý công tác hội nhập. Các phát triển mới mang đến cả cơ hội và thách thức. Và đây là điều cần thống nhất trong nhận thức và trong hành động. 

Chủ động xây dựng cốt cán và người có uy tín trong các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt ở vùng giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng trọng điểm quốc phòng, an ninh

Công tác nắm tình hình Nhân dân, nắm tâm tư, nguyện vọng để tham mưu hoặc trực tiếp giải quyết là nhiệm vụ rất quan trọng. Để nắm chắc tình hình nhất là tình hình vùng đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thì yêu cầu chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức phải sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân và quan tâm xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt. Để xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt và người có uy tín thì từng cơ quan chức năng như công an, quân đội, cơ quan nội vụ, trực tiếp là Ban Tôn giáo, Ban Dân tộc phải có phương pháp phù hợp, hiệu quả đối với đặc điểm từng vùng, miền khác nhau trong cả nước. Địa phương nào mà chính quyền xây dựng được lực lượng chính trị nòng cốt và có cơ chế để các lực lượng này phối hợp chặt chẽ với nhau thì việc nắm thông tin, chất lượng công tác tham mưu cho chính quyền sẽ hiệu quả hơn. Đó cũng là biện pháp phòng ngừa phát sinh khiếu kiện đông người, phát sinh điểm nóng một cách chủ động nhất, kịp thời nhất.

Định hình khung lý thuyết và phương pháp khoa học phục vụ cho hoạt động tổng kết thực tiễn.

  Khung lý thuyết cho tổng kết thực tiễn phải làm rõ khách thể, đối tượng, chủ thể, nội dung, lực lượng tham gia tổng kết thực tiễn; mối quan hệ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, với nghiên cứu khoa học, với chỉ đạo điều hành; các phương pháp sử dụng tổng kết thực tiễn,.... Phải định hình được các phương pháp và kỹ năng tổng kết thực tiễn, giúp cán bộ nắm bắt được thuộc tính, bản chất các sự vật, hiện tượng; cách thức sử dụng kinh nghiệm phục vụ trực tiếp cho chỉ đạo, điều hành; con đường và cách thức tri thức hóa các kinh nghiệm. Khi đã định hình được khung lý thuyết và phương pháp luận, cần chuyển hóa vào quá trình đào tạo được lồng ghép trong chương trình trung cấp, cao cấp lý luận chính trị hoặc tổ chức tập huấn chuyển giao cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Trang bị khung lý thuyết và phương pháp tổng kết thực tiễn phải đi đôi với trang bị phương pháp đánh giá chính sách, xem xét quá trình vận động từ lý luận thông qua chính sách để thâm nhập vào thực tiễn. Chính sách là hình thức trung gian giữa lý luận và thực tiễn, không ít quan điểm, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng khó đi vào cuộc sống hay bị lệch lạc trong “vận dụng” không hẳn do chỉ đạo thực hiện, mà do khâu thể chế hóa thành chính sách.

Tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn cho cấp ủy các cấp và xây dựng đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận.

Tổng kết thực tiễn trước hết là trách nhiệm của cấp ủy các cấp, cho nên, mỗi cấp ủy viên phải được tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn, định hình ý thức thường trực về nhiệm vụ tổng kết thực tiễn gắn với nâng cao trình độ lý luận. Cấp ủy viên muốn lãnh đạo tốt thì phải có năng lực tư duy lý luận và năng lực tổng kết thực tiễn. Hai mặt này có quan hệ biện chứng với nhau. Có tư duy lý luận thì mới sử dụng tri thức kinh nghiệm đúng đắn, phù hợp, sửa chữa bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Sử dụng tri thức kinh nghiệm phù hợp là cách thức để rút ngắn khoảng cách giữa lý luận với thực tế, để vận dụng lý luận không tùy tiện, thậm chí loại trừ những giải pháp không phù hợp mà tư duy lý luận xơ cứng đề xuất. Tuy nhiên, để công tác tổng kết thực tiễn được tiến hành một cách chuyên nghiệp, cần phải xây dựng được đội ngũ chuyên gia nòng cốt. Đội ngũ đó thuộc các cơ cấu của hội đồng lý luận, các ban đảng từ Trung ương đến địa phương, phải có trình độ lý luận sâu sắc, am tường thực tiễn, thành thục về phương pháp và kỹ năng tổng kết thực tiễn. Cần tạo điều kiện để đội ngũ chuyên gia nòng cốt thường xuyên thâm nhập thực tiễn, tổng kết các mô hình, phong trào, tham gia đào tạo lý luận chính trị và định hình ý thức chủ động, tích cực về tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ chuyên gia nòng cốt để họ yên tâm công tác, trau dồi nghề nghiệp, dành tâm huyết cho nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Xây dựng hệ thống dữ liệu và trang bị các công cụ, phương tiện cần thiết để đội ngũ cán bộ chuyên trách nòng cốt thuận lợi trong tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học

Đa dạng hóa phương thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học.

  Tổng kết thực tiễn khi trở thành chế độ bắt buộc như học tập, nghiên cứu lý luận, thì phương thức tổng kết thực tiễn cần phải đa dạng hóa. Tức là giúp cán bộ rèn luyện óc quan sát, điều tra, phân tích tình hình và tổng kết kinh nghiệm,... ở bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào nhằm tối ưu hóa khi vận dụng lý luận cũng như phát hiện tri thức mới để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng. Tổng kết thực tiễn lâu nay mới chủ yếu coi trọng phương thức gián tiếp thông qua thành lập ban chỉ đạo và tổ chức theo hệ thống dọc. Phương thức này rất cần thiết nhằm triển khai một đề án, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn - lý luận cụ thể khi lý luận còn có độ trễ trước thực tiễn, đòi hỏi phải được bổ sung bằng chính dữ liệu của đời sống hay chu trình của một nghị quyết đủ niên độ thời gian (5 năm, 10 năm) phải tổng kết, đánh giá. Ngoài tổng kết theo phương thức gián tiếp thì còn có tổng kết theo phương thức trực tiếp, tức người lãnh đạo dành thời gian đi cơ sở để quan sát, điều tra, tổng kết các mô hình; nghiên cứu các nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến (đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng, gương điển hình tiên tiến); tổng kết thực tiễn thông qua tham dự đào tạo lý luận chính trị. Nhờ tham dự trực tiếp mà cán bộ tổng kết được thực tiễn một cách chân thật, sâu sắc, như Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Muốn hiểu biết toàn bộ một sự vật, hiểu biết bản chất và quy luật nội bộ của nó, thì phải suy xét kỹ lưỡng, gom góp những cảm giác phong phú lại, rồi chọn lọc cái nào thật, cái nào giả, cái nào đúng, cái nào sai, từ ngoài đến trong, để tạo thành một hệ thống khái niệm lý luận. Đó là hiểu biết do thực hành mà có và được cải tạo trong thực hành. Hiểu biết ấy sâu sắc hơn, đúng hơn, phản ánh sự vật một cách hoàn toàn hơn”([4]). Để phương thức tổng kết trực tiếp có hiệu quả đòi hỏi phải định hình chế độ đi cơ sở của cán bộ lãnh đạo các cấp; hình thành  thói quen quan sát, điều tra, xem xét các tình huống trong thực tiễn, đặc biệt là phát hiện các mâu thuẫn và hướng giải quyết mâu thuẫn; xây dựng chế độ tham dự đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo các cấp. Chế độ đi cơ sở giúp cán bộ có điều kiện nắm bắt thực tiễn, bổ sung dữ liệu thực tiễn cho những nhận thức còn chưa sáng rõ, đồng thời kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. Các nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến rất phong phú trong đời sống, gồm cả gương tập thể và cá nhân, cần phải được phân tích và đánh giá thấu đáo để phổ biến nhân rộng, bổ sung cho tri thức lý luận. Gương tiên tiến là bao hàm cả tư tưởng  tiên tiến, phong cách tiên tiến, cách làm tiên tiến. Đào tạo lý luận chính trị là một không gian tốt cho tổng kết thực tiễn trong môi trường học đường([5]), đặc biệt đối với các lớp có sự tham gia giảng dạy của cán bộ lãnh đạo cao cấp. Cần đổi mới phương pháp giảng dạy từ truyền thụ kiến thức một chiều sang khuyến khích tranh luận, phản hồi của người học, tăng độ tương tác giữa người học, nhờ đó sẽ thu được khối lượng tri thức thực tiễn nhất định ngay trên môi trường học đường. Người giảng viên với vốn tri thức lý luận của mình sẽ giúp người học có định hướng đúng trong sử dụng tri thức kinh nghiệm, sửa chữa căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa khi vận dụng lý luận vào thực tế.

Hoàn thiện các thể chế, cơ chế và điều kiện hóa cho tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận ở Việt Nam

 Đó là ban hành các thể chế xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cấp ủy, cấp ủy viên, của cơ quan chuyên trách làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn ở mỗi cấp, mỗi ngành. Tổng kết thực tiễn phải được xây dựng thành chế độ bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên; gắn liền với chế độ học tập, nâng cao trình độ lý luận; gắn với yêu cầu đưa cán bộ gần dân, bám sát thực tiễn. Rà soát, đánh giá lại các cơ chế tổng kết thực tiễn hiện có ở các cơ quan chuyên trách nòng cốt với sự phân tách hoạt động hành chính đảng với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tổng kết thực tiễn ở các ban đảng. Các ban đảng là những cơ quan tham mưu của Đảng, có vai trò nòng cốt chuyên trách trong tổng kết thực tiễn, nhưng đến nay còn chưa tách biệt giữa hoạt động hành chính đảng với hoạt động nghiên cứu, tham mưu (bao gồm cả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham mưu đường lối, chủ trương) đòi hỏi phải có trình độ chuyên ngành, liên ngành và phương pháp tương ứng. Cơ chế hiện có  chưa giúp cán bộ tham mưu nâng cao trình độ lý luận, thiếu được trang bị các phương pháp, kỹ năng tổng kết thực tiễn, nên lúng túng khi triển khai một đề án tổng kết thực tiễn cụ thể. Cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan, đặc biệt là bảo đảm nguồn lực, điều kiện, môi trường công tác cho các cơ quan, cán bộ  ra sức trau dồi đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nhờ đó mà làm tròn vai trò chuyên trách nòng cốt trong tổng kết thực tiễn.


NÂNG CAO CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

hững năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên không gian mạng đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Lợi dụng sự phát triển nhanh chóng này mà các thế lực thù địch đã tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phát tán nhiều thông tin sai trái, xấu, độc trên mạng xã hội nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì thế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân hiện nay là cần phải tỉnh táo, nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận thông tin nhất là trên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo,… để không rơi vào âm mưu tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng xã.

Hiện nay, mạng xã hội bùng nổ với số lượng người tham gia ngày càng lớn. Đặc biệt là các trang mạng như: Facebook, Zalo. Vì vậy, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các công cụ này để đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong. Các phần tử phản động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Đồng thời móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Trong đó, số hoạt động ở nước ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động, các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài vu cáo, xuyên tạc tình hình đất nước. Lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương,... nhằm gây hoang mang, hoài nghi, suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Trên địa bàn huyện Nam Trà My, trong thời gian qua lợi dụng tình hình chiến sự Nga - Ucraina diễn biến phức tạp, làm giá cả thị trường leo than, nhất là giá xăng dầu tăng cao; một số cán bộ, đảng viên cấp cao của Đảng bị bắt, khai trừ Đảng do liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Các thế lực thù địch, phản động lưu vong nước ngoài thường xuyên cập nhật thông tin, viết bài chia sẽ những hình ảnh về chiến sự Nga – Ucraina, sự ưu việc về chính sách của các nước phương tây, thiệt hại của người dân Ucraina, sự tàn phá của Nga liên quan đến dân thường,… hay làm nhiều phóng sự, video về những quan chức cấp cao của Đảng suy thoái, biến chất vì tham nhũng, một số nội dung liên quan đến tôn giáo, dân chủ, đăng lên Youtube, Facebook, Zalo,… với mục đích lôi kéo cán bộ, đảng viên, nhân dân xem, thích, bình luận, chia sẻ, gây rối loạn thông tin, tạo tâm lý hoang mang, ngờ vực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hầu hết thông tin được đăng tải sai sự thật, pha lẫn với một số sai phạm của một số cán bộ, đảng viên nên cán bộ, đảng viên, người dân khi cập nhật thông tin, không sáng suốt, không có lập trường, quan điểm vững vàng sẽ rơi vào âm mưu chống phá của bọn chúng.

 Để làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên mạng xã hội, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia…. Phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp, người nhà của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

Đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; phải luôn xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng vững mạnh, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch trên không gian mạng.

GIÁ TRỊ KHOA HỌC TRONG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA!

         Đối với cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. 
     Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo giữa nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn sinh động, lịch sử cụ thể của Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


Môi trường ST.

Đập tan âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an của các thế lực thù địch

 

Hiện nay, Trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị tung ra đủ mọi “lý lẽ”, “cơ sở” của việc đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Chúng kết hợp bên trong với bên ngoài, tập trung tiến công trực diện vào những quan điểm cơ bản của chúng ta về chính trị của lực lượng vũ trang, của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Chúng giương lên ngọn cờ: bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", yêu cầu cần phải "bỏ hẳn cách hiểu lực lượng vũ trang chỉ cần trung thành với Đảng Cộng sản và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa"!

Với những luận điệu ru ngủ, Các thế lực thù địch, phản động cho rằng: Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân trong nhiều thập kỷ qua của lịch sử Việt Nam hiện đại; có quan hệ mật thiết với nhân dân, là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ đó, chúng đặt vấn đề lực lượng vũ trang “chỉ là của dân tộc”, “của đất nước”, “của nhân dân” là “phù hợp”, chứ không cần phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào! Trơ tráo hơn, chúng còn phủ nhận tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, hòng tạo cơ sở cho việc đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an nhân dân. Chúng tập trung công kích nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với LLVT; cho rằng nguyên tắc đó thể hiện Đảng tự cho mình quyền đứng trên xã hội, trên luật pháp, bởi LLVT là để “bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, Đảng chỉ là một bộ phận của xã hội, sao lại giành “độc quyền lãnh đạo” cho riêng mình!

Luận điệu trên tưởng như là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu “phi chính trị hóa” QĐND và CAND của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của lực lượng vũ trang sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, chúng đã khéo léo đi đến nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với QĐND và CAND, xóa nhòa bản chất chính trị giai cấp, tiến tới làm biến chất Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam.

Thực chất của luận điệu xuyên tạc đó là nhằm tách QĐND và CAND ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, kích động tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, chúng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới đất nước,… hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ mất lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo khoảng trống về tư tưởng – lý luận, để luồn lách quan điểm, lập trường giai cấp tư sản.

Đây là luận điệu đặc biệt nguy hiểm; thực sự phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta lầm tưởng rằng, các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết và những lý lẽ, lời “khuyên nhủ” của chúng là hợp lý, khách quan đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Không thể nói rằng, lực lượng vũ trang là "của nhân dân, của dân tộc” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng phái, lực lượng chính trị nào. Lịch sử phát triển của nhân loại từ khi có giai cấp, nhà nước đến nay cho thấy, không bao giờ có cái gọi là lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, "đứng ngoài chính trị", "phi giai cấp", "không can dự vào chính trị"… Quân đội, công an luôn gắn chặt với giai cấp, nhà nước sinh ra nó và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Vì thế, không thể có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”, “phi chính trị”, “đứng ngoài chính trị”. V.I.Lê-nin đã vạch rõ bản chất phản động của luận điệu lực lượng vũ trang “đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”; và Người đã khẳng định một cách dứt khoát: Không thể có quân đội, công an “trung lập về chính trị”. Vì thế, mọi luận điệu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất chỉ là chiêu trò lừa bịp những ai nhẹ dạ, cả tin, ấu trĩ về chính trị mà thôi.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập, giáo dục, rèn luyện các Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, lấy QĐND và CAND làm nòng cốt. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND và CAND. Vì vậy, lực lượng vũ trang mang bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng QĐND và CAND theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,” lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng QĐND, CAND, đủ sức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trong mọi điều kiện, tình huống.

Tuy nhiên, đến nay vẫn có không ít người thiếu tỉnh táo đã cổ súy một cách mê muội cho những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang mà các thế lực thù địch rao giảng và được một số hãng truyền thông phương Tây như: VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ cơ hội chính trị, phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng tung hô, cổ vũ nhiệt thành đã ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng QĐND và CAND, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, cần phải bác bỏ.

Mọi luận điệu cổ súy cho quan điểm “lực lượng vũ trang phải trung lập về chính trị”, đòi bỏ quy định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng Cộng sản Việt Nam… Đó chính là những cái bẫy “phi chính trị hóa” hết sức tinh vi và thâm hiểm của các thế lực thù địch. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; và gần đây là những sự kiện ở bất ổn chính trị - xã hội liên miên, kéo dài làm suy yếu đất nước đang diễn ra ở một số nước châu Á, châu Âu và hàng loạt nước theo thể chế đa nguyên, đa đảng ở Trung Đông, Bắc Phi, khiến chúng ta phải hết sức cảnh giác, không mắc mưu trước những chiêu trò “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch, tập trung chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 05CT/TW của Bộ chính trị khóa XII về: “Học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống./.