LUẬN ĐIỆU XẢO TRÁ, MƯU ĐỒ NHAM HIỂM KHI XUYÊN TẠC CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG
Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024
Phản bác luận điệu xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
Mới đây, trên nhiều trang mạng phản động, Nguyễn Huyền đã đăng bài viết
“Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và những lỗ hổng” với nội dung xuyên tạc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Tác giả đã suy diễn
rằng, có nhiều “lỗ hổng” trong thực hiện nguyên tắc này trên thực tế như: “cá nhân
người đứng đầu hoặc nhóm thiểu số quyền lực lấn át tập thể”, rằng việc thảo luận, biểu
quyết trong Đảng chỉ là “theo ý định có sẵn” và “những ý kiến thuộc về thiểu số sẽ bị
loại bỏ hoặc ngăn chặn” … Đây là những lập luận phi khoa học, phi thực tiễn, mang ý
đồ chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Cần thấy rằng:
Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rường cột để xây dựng
Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa
tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Nguyên tắc đó quy định cơ cấu, hình thức tổ
chức của Đảng, phương thức, chế độ thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, xác lập
các quy tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Nguyên tắc này chi phối các
nguyên tắc khác, làm cho Đảng được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ,
có sức chiến đấu cao. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức
đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.
Sức mạnh của Đảng là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Sự
thống nhất giữ nguyên, có thể vững chắc và biến thành hiện thực khi được bảo đảm
bằng sự thống nhất về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung dân chủ là cơ sở của kỷ luật đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là một chỉnh
thể có tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở.
Thứ hai, thực tiễn 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã khẳng định, Đảng
Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thống nhất ý chí và hành động, không gì chia rẽ
được. Đảng không dung thứ cho sự tồn tại của các phe nhóm, bè phái, “lợi ích nhóm”.
Đảng lấy tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng. Những vi phạm của một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền
vừa qua chỉ là hiện tượng, không phải bản chất, đó chỉ là những con sâu, mọt bị tha hóa,
đã được Đảng sử dụng quyền lực tập trung dân chủ xử lý nghiêm minh, thích đáng, có
tác dụng răn đe, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên, góp phần giữ vững niềm tin của nhân dân
đối với Đảng. Bên cạnh đó, trong nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số
là quy định bắt buộc, một trong những nội dung cốt lõi, đặc trưng của tập trung trong
Đảng, thể hiện ý chí, sức mạnh tập thể, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu
toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương”. Đồng thời, trong nội dung nguyên tắc tập
trung dân chủ đã quy định chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số. Do đó, không thể nói
nguyên tắc tập trung dân chủ làm triệt tiêu cái mới, cái sáng tạo. Trên thực tế, nhiều ý
kiến thuộc về thiểu số được bảo lưu, bảo đảm quyền của đảng viên.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam và thực hành nguyên
tắc tập trung dân chủ của Đảng ta là minh chứng hùng hồn bác bỏ mọi luận điệu xuyên
tạc vô căn cứ của Nguyễn Huyền./.
MẶC DÙ THẾ GIỚI CÓ NHIỀU BIẾN ĐỔI, NHƯNG THỜI ĐẠI MỚI TỪ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA KHÔNG THAY ĐỔI
Ngay từ khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đã có không ít kẻ bôi
nhọ, xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa thế giới của cuộc Cách mạng vĩ đại này.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu, những kẻ cơ hội và những lý luận tư sản lại lớn tiếng thoá mạ, bôi
nhọ, phủ nhận giá trị và ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Mười. Chúng mô tả
những gì diễn ra trong Tháng Mười năm 1917 ở nước Nga như là “một sự kiện ngẫu
nhiên”, “là sự chệch hướng lịch sử”, như là “một đứa trẻ bất hợp pháp”; Cách mạng
Tháng Mười chỉ là một thứ “đẻ non”! Và, nó “đã chết”… Cho dù các thế lực thù địch
luôn cố tình phủ nhận, xuyên tạc lịch sử, song chúng cũng không thể làm lu mờ được
giá trị và ý nghĩa trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Nhân loại tiến bộ luôn ghi nhận, biết ơn Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
– một sự kiện vĩ đại có ý nghĩa đột phá, mở đường để nhân loại tiến vào một chế độ xã
hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa tiến bộ, nhân văn, tất cả vì con người, sự phát triển
toàn diện của con người. Thực tiễn cho thấy, tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã vượt qua cơn chấn động chính trị, kiên cường đấu
tranh để trụ vững và phát triển. Các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tôn trọng thực tế khách
quan”, “kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn
mỗi nước” để đề ra đường lối cải cách, đổi mới đúng đắn, phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh của nước mình, phù hợp với xu thế thời đại. Sự kiên cường và phát triển mới
của các nước xã hội chủ nghĩa đã thực sự trở thành tấm gương sáng cho những người
cộng sản và nhân loại tiến bộ trên thế giới trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Bằng chứng là, trong những năm qua, tuy trong hoàn cảnh
còn nhiều khó khăn, nhưng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có những bước
phục hồi và có sự phát triển. Nhiều Đảng công sản đã thông qua cương lĩnh chính trị,
đánh dấu sự thoát ra khỏi khủng hoảng về đường lối. Trước những biến động của thời
đại, nhân loại càng khẳng định những giá trị tốt đẹp và bản chất nhân văn của chủ nghĩa
cộng sản, điều mà mọi người, mọi quốc gia, dân tộc đều hướng tới. Điều đó khẳng định:
Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn tiếp tục soi sáng con đường phát triển của cách mạng
thế giới, chứ không như một số người lầm tưởng.
Hơn 100 năm đã trôi, qua kể từ khi tiếng súng của cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga rền vang, nhân loại đã chứng kiến biết bao biến cố thăng trầm, phức tạp. Nhưng
một sự thật lịch sử không thể phủ nhận được là với việc thủ tiêu chế độ phản động câu
kết giữa giai cấp tư sản và phong kiến Sa hoàng, khai sinh nhà nước công nông đầu tiên
trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga – Cuộc cách mạng làm “rung chuyển thế
giới” vẫn là một trong những sự kiện bước ngoặt trọng đại nhất của sự phát triển xã hội
loài người, mở ra một con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động
khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một thế giới mới công bằng và tiến bộ. Cách mạng
Tháng Mười Nga vẫn vẹn nguyên giá trị trường tồn với nhân loại và thời đại ngày nay./.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA ĐÃ CHỈ RA CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Trong quá trình tìm đường cứu dân tộc khỏi ách thống trị của bọn thực dân,
phong kiến, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến
với Cách mạng Tháng Mười. Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ
nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[6]. Bởi vì, “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã
làm rung chuyển cả thế giới, trong đó có Việt Nam”[7]. Từ đó, Người đi đến nhận thức
về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam: muốn cách mạng thành công thì phải đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, cuộc cách mạng lấy quần chúng nhân dân
làm gốc và giải phóng triệt để quần chúng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là con
đường gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt
Nam với xu thế thời đại.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường
lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo Cách mạng Tháng
Mười Nga, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh
sáng soi đường của Cách mạng tháng Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng ta đã
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự
do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước; thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới
phía Bắc của Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử./.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA KHẲNG ĐỊNH CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TỪ LÝ LUẬN TRỞ THÀNH HIỆN THỰC
Chế độ Xô viết và chủ nghĩa xã hội hiện thực – thành quả của Cách mạng Tháng
Mười đã có những cống hiến to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người. Ngày
nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội hiện thực trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười
và ở Đông Âu đã đổ vỡ, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là những thành quả,
ảnh hưởng, giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười không còn nữa. Những gì
đã và đang diễn ra trong không gian hậu Xô viết đã chứng minh trên thực tế sự nghiệp
của Cách mạng Tháng Mười vẫn đang sống trong lòng nhân dân ngay tại các nước mà
chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó bị đổ vỡ. Chỉ đến bây giờ, sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã
hội, những người lao động ở Nga và các xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đang ngày
càng ý thức ra việc họ đã có được những gì và đã bị mất đi những gì. Đồng thời, sự
phục hồi các đảng cộng sản ở những nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng như sự
thắng thế của các tư tưởng tiến bộ, dân chủ ở nhiều nước trên thế giới hiện nay càng
khẳng định bản chất cách mạng, nhân văn của Cách mạng Tháng Mười.
Những biến đổi sâu sắc chưa từng có trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
nước Nga Xô viết sau Cách mạng Tháng Mười đặt nền móng hiện thực cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải quyết thành công những vấn đề hết sức cấp bách của
xã hội loài người như: vấn đề chiến tranh và hòa bình, dân tộc, tôn giáo; đã đoàn kết
được mọi dân tộc, mọi tầng lớp, mọi giáo phái thực hiện lý tưởng chung là xây dựng
một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại độc lập, tự do của các dân tộc và
hạnh phúc cho tất cả quần chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản từ chỗ chỉ là một ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách
mạng Tháng Mười vĩ đại trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to
lớn, lôi cuốn hàng nghìn triệu người vào hành động cách mạng, vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”./.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ GIỮA CÁC DÂN TỘC
Cách mạng Tháng Mười Nga bắt đầu chuyển sang một hệ thống xã hội tiến bộ
hơn, hệ thống chủ nghĩa xã hội mà loài người luôn mơ ước; tạo ra trong đời sống một
hình thái mới của hệ thống chính trị. Từ “chiếc nôi nước Nga”, chế độ xã hội chủ nghĩa
được xây dựng ở nhiều không gian địa – chính trị trọng yếu, thu được những thành tựu
to lớn. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một thực thể quan trọng, cấu thành nền chính trị
thế giới và tác động sâu rộng đến quan hệ quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã
nhân lên sức mạnh của phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh và nguy
cơ chiến tranh, góp phần củng cố, phát triển tình hữu nghị và sự hợp tác giữa các dân
tộc. Với bản chất yêu chuộng hòa bình và để thoát ra khỏi tình thế nguy ngập trong
cuộc chiến tranh, ngay khi cách mạng vừa thành công, Chính quyền Xô viết đã ra “Sắc
luật hòa bình” lên án cuộc chiến tranh đế quốc đang diễn ra và kêu gọi các nước tham
chiến ở cả hai bên hãy nhanh chóng đàm phán, ký kết một hòa ước chấm dứt chiến
tranh. Đồng thời, không thể tiếp tục cuộc chiến tranh phi nghĩa và hao tổn tiềm lực quốc
gia, Chính phủ Xô viết quyết định đàm phán với đế quốc Đức để rút khỏi chiến tranh.
Bên đạnh đó, ngay sau Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Chính quyền Xô viết đã công
bố bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc Nga” khẳng định những nguyên tắc cơ
bản của Chính quyền Xô viết đối với vấn đề dân tộc là: Bình đẳng và chủ quyền của các
dân tộc; các dân tộc nước Nga được quyền tự quyết một cách tự do, kể cả việc tách ra
và thành lập các quốc gia độc lập; xóa bỏ tất cả các đặc quyền và hạn chế về dân tộc và
tôn giáo – dân tộc; các dân tộc thiểu số và các nhóm nhân chủng sống trên lãnh thổ
nước Nga được phát triển tự do. Đó là những nguyên tắc pháp lý quan trọng về vấn đề
dân tộc. Đồng thời khẳng định những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chủ
nghĩa xã hội được xây dựng là tiền đề xóa bỏ ách áp bức giai cấp, nô dịch dân tộc, tạo
sự bình đẳng, đoàn kết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
Có thể nói: kiên định và giữ vững những nguyên tắc về hòa bình, bình đẳng, hữu
nghị giữa các dân tộc từ Cách mạng Tháng Mười, trong hơn 70 năm tồn tại, mặc dù
phải đối diện với những khó khăn, thách thức nhưng Nhà nước và nhân dân Xô viết
luôn lựa chọn mục đích hướng tới hòa bình, dân chủ. Chính ngọn cờ hòa bình được nêu
cao từ Cách mạng Tháng Mười, được Liên Xô kế tục là một nhân tố có vai trò quyết
định ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới mới và hạn chế bớt những cuộc chiến tranh
xâm lược cục bộ do chủ nghĩa đế quốc gây ra./.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA LÀ MỘT MẪU MỰC KIỆT XUẤT VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ SÁCH LƯỢC TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG
V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô đã giải quyết thành công những vấn đề cơ
bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cách mạng vô sản. Đó là xác lập và không
ngừng củng cố quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến nhất
gắn liền với nền sản xuất hiện đại, tiêu biểu cho con đường đi lên của lịch sử, người
đại biểu chân chính nhất quyền lợi của nhân dân lao động thông qua chính Đảng kiểu
mới của mình. Xây dựng một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân tuyệt đối trung
thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Xây
dựng khối liên minh công nông vững chắc, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng phong trào
cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc
bị áp bức. Sử dụng mọi biện pháp và hình thức đấu tranh cách mạng, tạo thành một sức
mạnh tổng hợp, tạo thời cơ và chớp thời cơ đánh đổ kẻ thù, giành lấy chính quyền về
tay công nông.
Có thể khẳng định: Cách mạng Tháng Mười Nga là bài học sinh động về sự vận
dụng linh hoạt, tài tình và sáng tạo lý luận bạo lực cách mạng và khởi nghĩa giành chính
quyền. Đây là một cuộc cách mạng có tính chất nhân dân sâu sắc, là sự nổi dậy của
quảng đại quần chúng cần lao dưới khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp”, kết hợp chặt
chẽ và linh hoạt lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, tạo thành bạo lực cách
mạng to lớn đủ sức đập tan bạo lực phản cách mạng, giành và bảo vệ chính quyền nhân
dân. Đó là những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa phổ biến đối với tất cả các nước trong
quá trình tiến hành cách mạng vô sản. Đó cũng là những vấn đề có ý nghĩa thời sự nóng
hổi trong sách lược, chiến lược cách mạng của thời đại ngày nay./.
GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA
Cách mạng Tháng Mười Nga là mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử,
mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Với Việt
Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt dân tộc ta đứng lên
đấu tranh giành độc lập, xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Đúng như lời
khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng
Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc
lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to
lớn và sâu xa như thế”. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, loài người đã chứng kiến biết bao
thăng trầm, biến cố phức tạp của lịch sử, nhưng tầm vóc vĩ đại, giá trị, ý nghĩa của Cách
Mạng tháng Mười Nga vẫn đã, đang và sẽ vẹn nguyên giá trị, tiếp tục vang mãi.
Cách mạng Tháng Mười Nga khác hẳn về chất so với các cuộc cách mạng trước
đó vì nó xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, người lao động trở thành người chủ của xã hội và
của chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười là thắng
lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng
một phần sáu thế giới. Đó là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức do giai cấp công nhân và đội quân tiên phong của họ
là Đảng Bônsêvích lãnh đạo. Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh
đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của những người
lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có người bóc lột
người”. Nhờ Cách mạng Tháng Mười, lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp công nhân
Nga thoát khỏi ách áp bức bóc lột của tư bản bằng việc tước đoạt và biến các tư liệu sản
xuất của bọn chủ tư bản thành tài sản xã hội; giai cấp nông dân Nga thoát khỏi ách áp
bức bóc lột của giai cấp địa chủ, phong kiến bằng việc ban bố và thi hành sắc lệnh về
ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ giao cho nông dân. Cách mạng Tháng Mười
cũng đã giải thoát cho các dân tộc bị áp bức khỏi nhà tù của chế độ Nga Hoàng bằng
việc thi hành chính sách dân tộc theo tinh thần quốc tế vô sản, tôn trọng quyền tự quyết
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Nói về Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin cho
rằng: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được
bắt đầu xây dựng nhà nước Xô viết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế
giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư
bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản,
tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản,
khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”. Cách mạng Tháng Mười Nga là “ngọn
đuốc” soi đường, chỉ lối cho giai cấp công nhân vững niềm tin bước lên vũ đài chính trị
với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại – “hạt nhân” của phong trào cách mạng thế
giới; cổ vũ, động viên nhân dân cần lao ở các nước thuộc địa, phụ thuộc đứng lên đấu
tranh giành độc lập dân tộc; làm cho “bão táp cách mạng” từ châu Âu lan tỏa nhanh
chóng và mạnh mẽ sang châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, khiến cho giai cấp tư
sản vô cùng hoảng sợ, buộc phải lùi bước, xuống thang và điều chỉnh để tồn tại.
Có thể khẳng định: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công có một ý nghĩa vô
cùng trọng đại đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trên thế
giới; là động lực to lớn, thúc đẩy, lôi cuốn, cổ vũ, động viên hàng loạt nước trên khắp
các châu lục đã tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, giành được độc lập.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, phong trào giải phóng dân tộc ở các châu
lục bắt đầu chuyển sang một bước ngoặt mới với nội dung, tính chất và xu hướng phát
triển mới. Bởi, “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc
và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”. Giai cấp vô sản lên nắm quyền lãnh đạo;
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động; thực hiện mục tiêu là làm cách mạng dân chủ triệt để rồi tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
RFA LẠI LỢI DỤNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 94 năm qua, văn hóa Việt Nam đã trở thành động lực
to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hòng
phủ nhận thực tế đó, mới đây RFA đã đăng bài viết “Văn hóa do Đảng lãnh đạo có là
nhu cầu văn hóa của dân?”. Nội dung bài viết truyền bá, kích động phần tử cực đoan,
phản động lưu vong tiếp tục đấu tranh hòng xóa bỏ đi những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Trong bài viết, RFA đã trích dẫn một số nhận định của Nguyễn Ngọc Già, đối
tượng bị Tòa Án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên án 4 năm tù giam và 3 năm
quản chế với cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước”. Y cho rằng, “dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nền văn hóa Việt Nam không có nguồn cội bởi vì dựa trên chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản”. Đây là nhận
định xuyên tạc, bôi nhọ về nguồn gốc nền văn hóa Việt Nam. Thực tế cho thấy, văn hóa
Việt Nam đã được hun đúc từ nhiều nguồn: văn hóa truyền thuyết thời kỳ các Vua Hùng
dựng nước, văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, văn hóa các tôn giáo, văn
hóa phương Đông, phương Tây. Đặc biệt, từ khi Đảng ta xác định giải phóng dân tộc
Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, đã mở đầu cho hai nguồn văn hóa mới: văn
hóa Mác-xít và văn hóa Hồ Chí Minh.
Nhìn về lịch sử, từ khi Ðảng Cộng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động thì văn hóa Mác-xít đã trở thành nguồn văn hóa
chủ đạo trong nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa Mác-xít đã góp phần xây dựng phương
pháp tư duy khoa học về thế giới, lịch sử, lẽ sống con người, làm cho văn hóa Việt Nam
mang tính hiện đại; văn hóa Mác-xít đã thổi bùng lên ý thức về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam, ý thức về sức mạnh to lớn của nhân dân lao động chân tay và
trí óc Việt Nam trong cuộc đấu tranh để giành, giữ vững và xây dựng chính quyền, ý
thức về con đường đi đến một thế giới đại đồng Cộng sản, nơi con người được sống thật
sự là Người trong xã hội.
Nguồn văn hóa Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa văn hóa
cổ truyền của dân tộc với những nhân tố tích cực trong văn hóa các tôn giáo, những tinh
hoa văn hóa phương Tây và phương Ðông, cùng với văn hóa Mác-xít, trở thành nguồn
văn hóa đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là nguồn văn hóa về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, vì độc lập
cho đất nước vì tự do hạnh phúc cho nhân dân, chăm bồi môi trường thiên nhiên và môi
trường xã hội lành mạnh cho cuộc sống con người, bảo vệ hòa bình hữu nghị giữa các
dân tộc và tình đoàn kết quốc tế, “bốn phương vô sản đều là anh em…”.
Mô hình xây dựng nền văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam là nền văn hóa
“tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Việc RFA lợi dụng những nhận định “ngớ ngẩn”
của kẻ bán nước cầu vinh Nguyễn Ngọc Già để xuyên tạc, bôi nhọ nền văn hóa Việt
Nam, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam là hành động không thể
chấp nhận được./.
CỘNG ĐỒNG CHIA SẺ TƯƠNG LAI” CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC VỚI CẢ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc đã tiếp tục làm sâu sắc và nâng
tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ
tương lai Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược. Việt Nam và Trung Quốc nhất
trí rằng, chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung
Quốc Tập Cận Bình từ ngày 12-13/12/2023 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan
hệ hai Đảng, hai nước, góp phần quan trọng vào phát huy tình hữu nghị truyền thống
Việt Nam – Trung Quốc, nâng tầm quan hệ của hai quốc gia trong thời kỳ mới, thúc đẩy
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Hai bên đề ra phương hướng thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai
đoạn mới với sự tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác quốc phòng, an ninh thực chất hơn,
hợp tác nền tảng xã hội vững chắc hơn. Phối hợp đa phương được thực hiện chặt chẽ
hơn, bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn. Hai bên cùng nhất trí trao đổi ý kiến
chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực
giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực; chung
tay thúc đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới phát triển, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Thực hiện Tuyên bố chung này, vừa góp phần
củng cố, tăng cường, nâng tầm mối quan hệ truyền thống, hữu nghị giữa hai nước; vừa
khẳng định hai bên ủng hộ lẫn nhau trên các vấn đề liên quan đến lợi ích cốt lõi và mối
quan tâm trọng đại của nhau góp phần tạo điều kiện thuận lợi để hai nước cùng phát
triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn.
Việc Việt Nam và Trung quốc ra Tuyên bố chung, sau chuyến thăm của Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tới Việt Nam là dấu mốc lịch sử trọng
đại, định hướng quan trọng để đưa quan hệ hai nước bước vào giai đoạn lịch sử mới,
phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn, hoàn toàn phù hợp với lợi ích của hai
nước. Không chỉ hướng vào sự ổn định, phát triển của Việt Nam và Trung Quốc, mà còn
hướng vào ổn định, phát triển của khu vực và thế giới. Điều này khẳng định, đường lối
đối ngoại của Việt Nam nói chung, ngoại giao với Trung Quốc nói riêng là đúng đắn,
sáng tạo, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phù hợp với xu thế của thời
đại, chứ không phải “chệch hướng” như những gì các thế lực thù địch, phản động xuyên
tạc./.
SỰ THẬT LỊCH SỬ CỦA CHIẾN THẮNG 30/4/1975 LÀ ĐIỀU KHÔNG PHẢI BÀN CÃI
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh chính
nghĩa, nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và khu vực, đế quốc Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, nhảy vào xâm
chiếm nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, phục vụ cho mưu đồ
sen đầm khu vực. Mỹ đã đưa vào đây hơn nửa triệu quân và sử dụng tất cả các loại vũ
khí, kỹ thuật hiện đại nhất, kể cả vũ khí hóa học với mưu toan đè bẹp ý chí chiến đấu
của dân tộc ta, buộc chúng ta phải khuất phục. Điển hình của sự thảm khốc, tàn bạo đó
là quân đội Mỹ đã dùng pháo đài bay B.52, ném bom hủy diệt Hà Nội và một số thành
phố khác, hòng “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. “Cây muốn lặng, mà gió
chẳng muốn ngừng”, như thế, thử hỏi cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống
quân xâm lược Mỹ là chính nghĩa hay phi nghĩa?
Cũng như các dân tộc khác, dân tộc Việt Nam không muốn chiến tranh, luôn thiết
tha hòa bình, khát vọng hạnh phúc, nhưng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai buộc chúng ta
phải cầm súng chiến đấu chống lại chúng để giành độc lập cho dân tộc. Những hành
động chà đạp lên độc lập, chủ quyền lãnh thổ, can thiệp, áp đặt,… là điều trái với luân
thường, đạo lý và luật pháp quốc tế. Ở đâu có tình trạng đó, tất yếu nhân dân sẽ đứng
lên chống lại. Điều đó, càng không thể được đối với dân tộc Việt Nam, một dân tộc có
lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có truyền thống quật cường đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Với chân lý “không có gì quí hơn độc lập, tự do”, “Nam Bắc một
nhà”, “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”… dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã đồng tâm, hiệp lực, không ngại hy sinh,
gian khổ, đoàn kết chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai giành thắng lợi với mốc son chói lọi là Đại thắng Mùa xuân
30/4/1975.
Chiến thắng 30/4/1975 sẽ mãi mãi tiếp thêm năng lượng, tinh thần, phát huy các
giá trị sáng tạo, cổ vũ nhân dân và dân tộc ta đi tới, hướng tới phát triển bền vững và
hiện đại hóa trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
XUYÊN TẠC NGÀY CHIẾN THẮNG 30/4/1975 LÀ CÓ TỘI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC
Trong những ngày tháng 4 lịch sử nhân dân cả nước lại được sống trong những
ngày tháng hết sức sôi động, hào hùng, rạo rực của mùa Xuân năm 1975, mốc son chói
lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ngày giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước, thì trên trang mạng xã hội danlambao xuất hiện bài viết “lại
một năm nữa tháng 4 đen”. Tác giả bài viết đã cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ
nhận lịch sử hào hùng của dân tộc, phủ nhận sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ
người con ưu tú đã không tiếc tuổi xuân của mình để cống hiến cho nền độc lập tự do
của Tổ quốc. Xin nêu ra để bạn đọc hiểu rõ hơn về bản chất và tính chính nghĩa của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.
Những luận điệu trong bài viết trên là hoàn toàn sai trái, đã xuyên tạc, phủ nhận
lịch sử một cách trắng trợn và lố bịch. Chiến thắng 30/4/1975 là sự tôn vinh sức mạnh
và niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam, của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nhưng tác giả bài viết lại cho rằng: Chỉ còn vẻn vẹn một tháng nữa là tới ngày Quốc
Hận 30/4/1975. Nếu coi ngày 30/4/1975, là ngày “quốc hận”, thì quả là một cái nhìn sai
lệch và xuyên tạc sự thật lịch sử, đi ngược lại với tinh thần khoan dung, đồng thuận,
đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam; tự reo rắc hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, đi ngược lại với trào lưu tiến bộ của lịch sử nhân loại là hoà bình, hợp tác và phát
triển. Song, sự thật những gì diễn ra ở miền Nam suốt hai thập kỷ qua đã tự nó nói lên
tất cả về cái tồn tại trong quá khứ của chính thể Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là
bù nhìn, phản động, tàn ác, dã man. Đã không đem lại độc lập, tự chủ cho dân tộc
nhưng lại hứa hẹn đem lại cho dân tộc, đó chỉ là một chính thể lệ thuộc, sai khiến về
mọi mặt. Do đó, giải phóng miền Nam, xóa bỏ một trật tự lỗi thời, lạc hậu, phản động,
một chế độ tay sai, bù nhìn, một sản phẩm trái mùa của lịch sử là một tất yếu khách
quan. Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam để giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước là một thắng lợi của chính nghĩa, đem lại độc lập, tự do thật sự cho nhân dân, mở
ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nuối tiếc cái đã lùi vào quá khứ, dĩ vãng để gieo rắc ý thức “quốc hận” là có tội với
chính đồng bào, dân tộc mình, với chính quá khứ hào hùng của lịch sử dân tộc. Tư
tưởng, quan điểm đó là sự nuôi dưỡng, kích động sự thù địch, chia rẽ dân tộc một cách
có chủ đích cố xuyên tạc sai sự thật lịch sử, tiếp tay cho kẻ thù, có hại cho tinh thần hòa
hợp, đoàn kết dân tộc, cần phải phê phán, bác bỏ.
NHỮNG LÝ TƯỞNG VÀ GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga đã đưa ra lời giải chính xác trên
thực tế về phương hướng, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc, đó chính là chủ
nghĩa xã hội và vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng giải phóng này.
Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng
giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Cách mạng Tháng Mười Nga đã “mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc và cho cả loài người, mở ra thời đại mới trong lịch sử,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư sản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.
Từ thành quả Cách mạng Tháng Mười của những người Bônsêvích Nga, giai cấp
công nhân, nhân dân lao động Việt Nam không chỉ tìm thấy đồng minh, có được sự ủng
hộ quốc tế to lớn, mà còn giúp họ vận dụng thành công những phương pháp, cách thức,
kinh nghiệm trong cách mạng giải phóng dân tộc, như đúc rút mang tính chân lý của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Thực tiễn cũng đã minh chứng, Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới do
nó tạo nên một nhân tố thời đại quan trọng, đó là: Từ việc nghiên cứu Cách mạng Tháng
Mười Nga, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin và đi theo con đường thời đại mà Cách
mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi dựng và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp (tháng 12-1920); Người dầy công truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước và chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa
xuân năm 1930; Người đã thức tỉnh các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp công nhân
nhất tề đứng lên gánh vác sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Tinh thần cách mạng không ngừng của Cách mạng Tháng Mười Nga tiếp tục
được giai cấp công nhân Việt Nam tiếp bước, thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Những kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội thời chiến ở Liên
Xô được vận dụng sáng tạo trong “kháng chiến kiến quốc”, đặc biệt là trong thời kỳ vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng ở miền Nam, thống
nhất đất nước ở Việt Nam.
Trải qua 105 năm, dù chủ nghĩa xã hội hiện thực đã từng chịu những tổn thất
nặng nề, nhưng “Những thành tựu có quy mô và tầm vóc lịch sử thế giới của chủ nghĩa
xã hội là không thể phủ nhận, nó đã từng là giá trị thể hiện bản chất ưu việt của chủ
nghĩa xã hội, mãi mãi còn in dấu trong lương tâm, ký ức nhân loại” của Cách mạng
Tháng Mười Nga vẫn có tầm ảnh hưởng sâu rộng và sức sống bất diệt.
Những lý tưởng và giá trị tốt đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga đã, đang và sẽ tiếp
tục cổ vũ, dẫn đường cho giai cấp công nhân Việt Nam xây dựng một xã hội – xã hội
chủ nghĩa: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng
khẳng định, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đó là một vấn đề mang
tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư tưởng vững chắc
của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Đây cũng chính là phương
hướng, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của giai cấp công nhân và mọi
giai tầng khác trong xã hội trong thực hiện sứ mệnh phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc theo những giá trị thời đại khởi nguồn từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại./.
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG THEO HƯỚNG LƯỠNG DỤNG, NGÀY CÀNG HIỆN ĐẠI
Trong các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công
nghiệp quốc phòng ở các giai đoạn trước đây đã xác định chủ trương và nhiệm vụ phát
triển tiềm lực khoa học – công nghệ của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, phấn đấu
thực hiện một số nhiệm vụ trọng điểm mang tính đột phá, mũi nhọn để tiếp cận và làm
chủ được các ngành công nghệ mới liên quan tới chế tạo vũ khí. Tập trung đầu tư sản
xuất thành công các chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại và chiến lược, trong đó
có những chủng loại “Made in Việt Nam” đạt trình độ tiên tiến, hiện đại tương đương so
với thế giới và khu vực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội. Chúng ta cần ưu tiên
ứng dụng hiệu quả các công nghệ nền tảng, các thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ Tư, thực hiện “đi tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực công nghệ quân sự
đặc thù để tạo chuyển biến bước ngoặt về năng lực thiết kế – chế tạo các sản phẩm có
tính đột phá về tính năng chiến thuật – kỹ thuật. Ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến,
lưỡng dụng, tiến tới làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi trong nghiên cứu, thử
nghiệm, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có hàm lượng công nghệ cao.
Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, vừa sản xuất
phục vụ nhu cầu tiêu dùng quân sự, vừa tham gia sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng
dân dụng. Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới vào nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản
phẩm quốc phòng, đồng thời sản xuất các sản phẩm dân sinh cũng như đẩy mạnh phát
triển, chuyển giao một số công nghệ cho công nghiệp dân sinh. Phát triển công nghiệp
quốc phòng theo hướng lưỡng dụng sẽ khai thác tốt tiềm năng, phát huy tốt nội lực
trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng để đáp ứng đồng thời các yêu cầu
của quốc phòng – an ninh và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua
đó, giảm bớt sự phụ thuộc, đa dạng hóa việc tiếp cận công nghệ, nguồn lực trong quá
trình thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Tăng cường chuyển giao công nghệ,
liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu phát triển mẫu vũ khí mới, hợp tác về đào
tạo nhân lực, phát triển thị trường quốc tế và xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm
quân sự, lưỡng dụng và sản phẩm kinh tế. Tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong
phân công chuyên môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng.
Như thế, vừa đáp ứng yêu cầu tăng cường khả năng quốc phòng để làm tròn nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ đời sống nhân dân.
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUỐC PHÒNG ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC, BẢO VỆ HÒA BÌNH
Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh vững mạnh về mọi mặt
được Đảng ta xác định là “nhiệm vụ cơ bản, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, vừa là
nhiệm vụ chiến lược lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân”.
Tăng cường khả năng quốc phòng, đương nhiên không thể thiếu hiện đại hóa vũ
khí, trang thiết bị quân sự. Tuy nhiên, Việt Nam luôn chủ trương chỉ tập trung hiện đại
hóa vũ khí, trang bị quân sự để phục vụ mục đích bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng của
Việt Nam là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ. Tăng cường tiềm lực
quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc, cho nên, Việt Nam chủ trương tăng cường khả năng
quốc phòng bằng nội lực trong điều kiện, khả năng của mình, không tham gia liên minh
quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước kia, không cho nước ngoài đặt
căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Theo đánh giá của các tổ chức
quốc tế, thì trong hơn 10 năm gần đây, sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã
có sự thay đổi căn bản, đã hình thành khả năng triển khai quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Đến nay, công nghiệp quốc phòng Việt Nam cơ bản bảo đảm tốt nhu cầu của lực lượng
vũ trang, nhất là về vũ khí thông thường và một số loại vũ khí công nghệ cao.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện như hiện nay,
đặc biệt hội nhập quốc tế về công nghiệp quốc phòng được xác định là một kênh không
tách rời của quá trình hội nhập quốc tế, thì xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng
hiện đại là tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển công nghiệp quốc
phòng thế giới. Để sẵn sàng đối phó thắng lợi với vũ khí công nghệ cao của địch nếu
xảy ra chiến tranh trong tương lai, bên cạnh yếu tố chính trị, tinh thần, con người và các
yếu tố khác cấu thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, việc làm chủ các loại vũ khí,
trang bị kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại là yêu cầu cấp thiết, khách quan.
CẦN TỈNH TÁO NHẬN DIỆN VÀ KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá
toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Tuy nhiên, các thế lực thù địch không ngừng tuyên
truyền những luận điệu sai trái, xuyên tạc bác bỏ KTTT định hướng XHCN của Việt
Nam. Vấn đề này, đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phản bác
những quan điểm sai trái, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế thị trường XHCN là sự tìm tòi, thể hiện cả về lý luận và thực tiễn của
CNXH trong thời đại ngày nay. Đây cũng là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng
ta trong thời kỳ đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp với xu thế vận động chung
của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận
điểm cho rằng KTTT và định hướng XHCN như “nước và lửa”, không thể kết hợp với
nhau. Họ khẳng định: KTTT là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), rằng KTTT không dung
hợp với CNXH, việc chuyển sang KTTT là chuyển sang CNTB, rằng đó chỉ là “tấm áo
khoác CNXH” cho nội dung TBCN, rằng đó là “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, là “đầu
Ngô mình Sở”. Có người còn ví von bằng hình ảnh rằng nền KTTT như con “hổ đói”,
còn định hướng XHCN là “con thỏ non”, nếu thả chung với nhau, KTTT sẽ ăn thịt định
hướng XHCN.
Thực tiễn cho thấy những quan niệm nêu trên, nếu không phải là những luận điệu
ác ý của các thế lực thù địch thì cũng là những quan niệm phiến diện của những người ít
tiếp nhận thông tin. Phải chăng, các quan điểm này có cội nguồn lý luận từ thuyết xã hội
hậu công nghiệp nêu ra từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là sự xuyên tạc thiếu căn
cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã hội phân chia thành giai cấp cùng với sự
xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định
hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay
quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền đề ra những chủ trương,
chính sách để bảo vệ lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Thật vậy, nếu kinh tế
thị trường TBCN được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư sản,
nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tối đa phục vụ tốt nhất cho lợi ích của giai cấp tư sản thì
KTTT, định hướng XHCN được định hướng bởi nền chính trị của giai cấp công nhân –
giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của Nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc. Bởi thế, một trong những nét đặc sắc mang bản chất của KTTT định hướng XHCN
là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát triển, không hy sinh tiến bộ, công bằng
xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Thực tế, những quan điểm của các thế lực thù địch, phản động, xuyên tạc tình
hình kinh tế tại Việt Nam luôn nhằm hướng tới mục tiêu xóa bỏ hệ tư tưởng, sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Do đó, chúng ta cần luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận
diện rõ bản chất xấu xa và mục đích đen tối của các thế lực thù địch và kiên quyết đấu
tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, bảo vệ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới./.
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NỀN BÁO CHÍ VIỆT NAM
Đằng sau những bình phẩm, xuyên tạc tình hình tự do báo chí ở Việt Nam với
giọng điệu “nhân quyền sau Đảng quyền”, Lê Quốc Quân – cái tên không còn xa lạ trên
diễn đàn “Voatiengviet” đang cổ súy cho thứ “tự do báo chí” vô nguyên tắc”, báo chí
“phi chính trị hóa”, “phi đảng tính”… Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, vô căn cứ với
dã tâm muốn tách rời hoạt động của báo chí khỏi sự lãnh đạo của Ðảng. Bởi, trong sự
phát triển chung của báo chí gắn với sự phát triển của đất nước, của xã hội, không thể
tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày
3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí
toàn quốc đến năm 2025 nêu rõ quan điểm: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ
tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của Nhân
dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Rõ ràng, ở Việt Nam hiện nay báo chí không thể có cái gọi là “phi chính trị”, “phi
giai cấp”, báo chí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn
cho thấy nhờ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Ðảng, hoạt động của báo chí đã thật sự
phát huy được tính cách mạng, dân chủ, khoa học và nhân văn; là công cụ sắc bén, thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân, đóng góp rất quan trọng vào phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc. Cùng với những thành tựu của cách mạng Việt Nam, báo
chí cách mạng Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Là một trong những kênh
thông tin quan trọng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Do đó, mọi mưu toan
“phi chính trị hóa” đối với hoạt động báo chí, cố tình tách báo chí ra khỏi sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều là ảo tưởng mà thôi.
Tóm lại, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của Lê Quốc Quân về tự do báo chí ở
Việt Nam chỉ là những tiếng nói tiêu cực, lạc lõng của những kẻ cố tình đi ngược lại với
ý chí nguyện vọng của Nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước, nhân dân ta và
của nền báo chí cách mạng đáng tự hào của chúng ta.
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
Mới đây, Lê Quốc Quân – cái tên không còn xa lạ trên diễn đàn “Voatiengviet” đã
đăng tải và phát tán nội dung “Tin đồn, tự do báo chí và cải tổ chính trị”. Vẫn chiêu bài
cũ rích “tự do báo chí” với tiếng nói lạc điệu, mơ hồ, y cho rằng “nhà báo Việt Nam
đang bị (hoặc tự) “bịt miệng”, từ đó quy chụp ở Việt Nam “nhân quyền, sau Đảng
quyền”. Thực chất đây chỉ là sự phụ họa bình phẩm, xuyên tạc tình hình tự do báo chí ở
Việt Nam hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước đối với
nền báo chí cách mạng Việt Nam. Song, cả phương diện lý luận và thực tiễn đã cho
chúng ta thấy:
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho
báo chí Việt Nam phát triển. Cùng với đó, sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là
hiện thực sinh động cho báo chí Việt Nam phát triển lớn mạnh cả về quy mô, tổ chức,
lực lượng, phương tiện, công nghệ làm báo và sức ảnh hưởng, lan tỏa trong xã hội.
Về phương diện chính trị, pháp lý: Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như một giá trị quan trọng của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Điều 25 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)
quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo Luật
Báo chí 2016, công dân được tham gia vào các quy trình sáng tạo, sản xuất sản phẩm
báo chí, tiếp nhận báo chí, ngôn luận trên báo chí theo quy định (Điều 11). Về phần
mình, cơ quan báo chí và nhà báo được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được
Nhà nước bảo hộ, không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng (Điều 13);
được tạo mọi điều kiện tốt nhất để hoạt động nghề nghiệp. Không ai có quyền cản trở
nhà báo khai thác và thể hiện thông tin theo đúng quy định của pháp luật (Điều 25). Tất
nhiên, cũng như ở mọi lĩnh vực, mọi quốc gia, tự do báo chí phải trong khuôn khổ chứ
không phải là thứ tự do vô giới hạn, vô chính phủ, đứng ngoài pháp luật. Luật Báo chí
2016 quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận
trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân” (Điều 13).
Thực tiễn đã chứng minh, báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh,
quyền tự do báo chí được bảo đảm. Tính đến hết năm 2023, Việt Nam có khoảng 41.000
người đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 20.507 người được cấp thẻ nhà báo.
Nhiều tờ báo đã chuyển đổi thành cơ quan báo chí đa phương tiện, đa loại hình, hiện
diện trên môi trường internet. Các loại hình báo chí di động, báo chí mạng xã hội, báo
chí trí tuệ nhân tạo… xuất hiện, thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận đa giác quan (nghe-nhìn-
đọc) ở mọi lúc, mọi nơi của công chúng. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
báo chí phát triển. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt
Nam. Các cơ quan truyền thông quốc tế như: CNN, TV5, NHK, DW, Australia
Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với
công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay
pháp lý nào. Như vậy, cả cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định và thực tiễn đã chứng
minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Điều này có ý
nghĩa bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của Lê Quốc Quân về bảo
đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam./.
TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, công tác tôn giáo ở Việt Nam ngày
càng tốt hơn. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về
“Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công
tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là vấn đề
còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân;
đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” và “tôn
giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là
những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao
hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với
quan điểm đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng vừa quan
tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh việc
chống lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hòa trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh
được hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc,
tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể thương
thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức độ khác
nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn giáo còn là một bộ
phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn
giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan
toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo
nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu
người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây
dựng đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết dân tộc, đồng lòng đồng sức của toàn thể
nhân dân Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài, chúng ta tin tưởng rằng, sự tương đồng
trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn vinh của đất nước, tín đồ các tôn giáo,
trước hết là con dân Việt, công dân Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên
con đường “đồng hành với dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và đập tan mọi âm mưu
đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt
Nam. Đưa đất nước vững bước đi lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI, VIỆT NAM CÓ NỀN KINH TẾ NĂNG ĐỘNG, ĐANG TRÊN ĐÀ PHÁT TRIỂN VỚI THÀNH QUẢ ĐÁNG TỰ HÀO
Với những ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, Nguyễn Văn Tuấn
trong bài viết “Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam” đã đưa ra những luận điệu
thiếu thiện chí, thiếu khách quan, phủ nhận sạch trơn nền kinh tế của đất nước, rằng,
Việt Nam “thất bại về kinh tế”, “không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành
công”. Tuy nhiên thực tế cho thấy, qua gần 40 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có
thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, GDP năm 2023 của cả nước ước tính tăng 5,05% so với năm trước, đưa quy
mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ
USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284
USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy đến cuối năm 2023, thu nhập bình quân
đầu người của Việt Nam đã đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm. Việt Nam có nhiều tập
đoàn kinh tế phát triển vươn tầm khu vực và thế giới như tập đoàn Viettel, FPT,
Vingroup…góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Điều đó cho thấy, những
luận điệu của Nguyễn Văn Tuấn trở nên lạc lõng, thiếu khách quan.
Có thể thấy, thực tiễn về nền văn hóa tiên tiến, giàu truyền thống, đậm đà bản sắc
dân tộc về những thành quả kinh tế đáng tự hào ở Việt Nam là minh chứng hùng hồn để
bác bỏ những luận điệu sai trái, thiếu khách quan, với những ý đồ chính trị đen tối của
Nguyễn Văn Tuấn. Là người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này, chúng ta
cảm thấy tự hào về truyền thống văn hóa giàu bản sắc của dân tộc, với sự phát triển của
đất nước. Chúng ta cần phải được lên án mạnh mẽ và bác bỏ những quan điểm sai trái,
thù địch của những kẻ mang trong mình dòng máu Việt nhưng lại ẫu trĩ về mặt nhận
thức, nhận những đồng tiền dơ bẩn để rồi quay lại giày xéo lên truyền thống, thành quả
quả tổ tiên, quê hương đất nước mình./.
VIỆT NAM CÓ NỀN VĂN HÓA LÂU ĐỜI TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Với âm mưu thâm độc nhằm phủ nhận những giá trị truyền thống văn hóa của
dân tộc, Nguyễn Văn Tuấn đã đăng tải bài viết với tựa đề “Tại sao khó có thể tự hào là
người Việt Nam” với những lời lẽ, luận điệu cảm tích, thiếu khách quan về nền văn hóa
Việt Nam là có “Truyền thống và văn hóa nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực”. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, Việt Nam có nền văn hiến lâu đời, lịch sử hào hùng và một
nền văn hóa giàu bản sắc, thống nhất trong đa dạng. Đây là niềm tự hào, là tài sản quý
giá của quốc gia, cội nguồn của sức mạnh nội sinh, hun đúc khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Việt Nam có 54 dân tộc với những giá trị văn hóa truyền thống giàu bản sắc và lịch
sử lâu đời hàng ngàn năm nay vẫn đang được bảo tồn, phát huy. Trải qua lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc anh em đã sáng tạo nên kho tàng văn hóa
độc đáo, phong phú với các giá trị tốt đẹp, thể hiện sinh động quá trình sinh sống, lao
động, dựng xây và bảo vệ đất nước, khắc họa cốt cách và vẻ đẹp con người Việt Nam
cần cù, nhân ái, khoan dung, hiếu khách, giàu lòng yêu nước. Chúng ta cũng tự hào khi
có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được thế giới công nhân. Tính đến thời
điểm tháng 5/2023, Việt Nam đã được UNESCO công nhận: 8 Di sản Thế giới, 15 Di
sản Văn hóa Phi vật thể, 9 Di sản Văn hóa Tư liệu. Đây là bức tranh phong phú, sinh
động, giàu bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, là minh chứng đanh thép phản bác lại
những luyện điệu phiến diện của Nguyễn Văn Tuấn về nền văn hóa và truyền thống của
dân tộc./.
KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH TỰU CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
Với đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước, phát huy thế và lực mới
của đất nước, công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những kết quả toàn diện,
quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực
bên ngoài cho phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao vị thế, uy tín đất nước. Thế nhưng
với mưu đồ xấu, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc, các thế lực thù địch, phản động
vẫn ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại.
Bài viết: “Khi rõ ràng, sòng phẳng… sợ gì là chủ trương đối ngoại của chế độ” của
Đăng Đình Mạnh đang được phát tán trên nhiều diễn đàn phản động là một ví dụ. Y cho
rằng: “Thành tựu đối ngoại của chính quyền cộng sản là tự tán dương; Đảng Cộng sản
không có công trạng gì (!)”. Đây là luận điệu phi lý, phiến diện, không phản ánh đúng
kết quả công tác đối ngoại của Việt Nam, cần đấu tranh, bác bỏ kịp thời.
Thực tế cho thấy, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo quan trọng về đối ngoại, nổi bật là Nghị quyết số 34-NQ/TW ngày 09/01/2023 của
Bộ Chính trị về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại
hội XIII của Đảng. Cùng với đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành nhiều chỉ thị,
đề án quan trọng khác về đối ngoại và các lĩnh vực khác liên quan đến đối ngoại như
quốc phòng, an ninh, kinh tế… nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và triển khai
đồng bộ, hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng. Theo đó, Việt Nam đã từng bước tạo
dựng và gia tăng mức độ đan xen lợi ích với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối tác
quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát triển của mình. Thực hiện minh bạch hóa
chính sách, quy trình hoạch định và triển khai chính sách, trong đó có việc định kỳ công
bố Sách Trắng quốc phòng, Sách Xanh ngoại giao; đồng thời tham gia hầu hết các tổ
chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, sau gần 40 năm đổi mới đất nước, chiến lược sáng suốt, đúng
đắn trong công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, tạo thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được củng cố.
Tính đến tháng 9/2023, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 193
quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc). Mạng lưới các mối quan
hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện tiếp tục được củng cố, mở rộng Việt Nam hiện
có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 7 cường quốc là: Trung Quốc (2008), Liên
bang Nga (năm 2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản
(11/2023) và Australia (2024). Quan hệ với các nước từng bước đi vào chiều sâu, đan
xen lợi ích được tăng cường. Nước ta đã thúc đẩy ký kết và thực hiện nhiều hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA),
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia.
Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức
hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.
Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn
quốc tế quan trọng. Chúng ta được bạn bè quốc tế tin tưởng, tín nhiệm đề cử đăng cai,
tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn và đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế quan trọng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp
quốc như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 – 2016, 2023 – 2025; Ủy ban Di sản
Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 – 2017; Hội đồng Kinh tế – Xã hội của Liên hợp
quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 – 2018…
Những thành tựu đã đạt được cũng như thực tiễn sinh động về hoạt động đối
ngoại của Việt Nam là minh chứng rõ ràng nhất để bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại. Từ đó, củng cố sự tin cậy
của các nước đối với Việt Nam; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước./.
Tái diễn những luận điệu sai trái, xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng cứ mỗi dịp 30/4,
khi nhân dân cả nước kỷ niệm, ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc thì
trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị
tái diễn điệp khúc xuyên tạc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa xuân
năm 1975 cũng như bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
ta.
Đó là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực
dân, đế quốc hùng mạnh. Vẫn luận điệu cũ, một bộ phận người Việt vốn từng ở bên
kia chiến tuyến trở lại điệp khúc ta thán về cái gọi là “ngày quốc hận”, “tháng
tư đen”, “ngày tắm máu”… Vì cho đến hôm nay, họ vẫn không nhìn thẳng để công nhận
một sự thật lịch sử, đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam, là cuộc chiến tranh vệ quốc, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, thống nhất non
sông. Gần nửa thế kỷ hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng thịnh vượng, phát
triển, dân tộc ta với tinh thần hòa hiếu gác lại quá khứ chứ không bao giờ phủ
nhận, lãng quên quá khứ.
Di
chứng, hậu quả chiến tranh, sự hy sinh, mất mát sau chừng ấy năm chiến tranh kết
thúc thì ở nhiều làng mạc, thôn xóm vẫn còn hiện hữu. Thế nhưng, các thế lực
thù địch vẫn không nhìn thẳng vào sự thật, luôn cố tình đánh tráo, xuyên tạc bản
chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuyên tạc Chiến thắng
30/4/1975. Những ngày gần đây, chúng đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh
sai lệch, xuyên tạc trên Internet, các trang mạng xã hội, tìm cách phủ nhận
thành quả của cuộc kháng chiến trường kỳ của quân và dân cả nước. Hàng trăm bài
viết kèm các hình ảnh phản cảm dưới tiêu đề “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” được
chia sẻ, lan truyền trên mạng xã hội để hướng lái dư luận, đánh tráo bản chất
chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cùng với đó, chúng ca ngợi chế độ dân chủ, tự
do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn; đòi vinh danh chế độ Việt
Nam Cộng hòa, thậm chí có ý kiến còn đòi chia đôi lại đất nước giống như trước
năm 1975. Từ đó, các đối tượng phủ định ý nghĩa Chiến thắng 30/4/1975, đòi từ bỏ
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn
và kiên trì xây dựng; bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia
rẽ Đảng với nhân dân, kích động hận thù, ly khai; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn
dân; làm giảm ý chí quyết tâm, đóng góp xây dựng đất nước của nhân dân, trong
đó có đồng bào ta sống xa Tổ quốc; cố tình đả kích, phủ nhận chính sách và nỗ lực
hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta… Nhiều bài viết với nội dung sai trái,
tiêu cực được đăng tải trên Internet như: “Tháng tư vẫn là một kỷ niệm đau buồn
cho những người ly hương vì mất nước”; “tháng tư là tháng vo gạo bằng nước
mắt”; “tháng tư là tháng tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa bị những
người lính cộng sản giết một cách man rợ”; “mỗi năm đến ngày 30/4 thì vết
thương lại nhức nhối trong lòng”; “tháng tư quốc hận, xin nghiêng mình tưởng niệm
những nạn nhân đã ra đi không đến bến bờ và xin ngưỡng mộ những người đã hết những
gì có được, ra đi để lập lại cuộc đời trên đất nước tự do”…
Một
số bài viết cố tình xuyên tạc rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đại
thắng mùa xuân 1975 của chúng ta là “hoàn toàn vô nghĩa, lẽ ra dân tộc Việt Nam
đã có thể tránh được cuộc chiến tranh”; vu cáo đây là cuộc “nội chiến”, “huynh
đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc, “không có kẻ thua, người thắng, chỉ nhân
dân là chịu thiệt thòi”; cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “không cần thiết”
và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”… Gần đây, trên một số trang mạng, website,
blog cá nhân của các phần tử cơ hội chính trị phát tán nhiều tin, bài xuyên tạc,
đòi “định danh lại ngày 30/4 cho phù hợp” vì không chấp nhận 30/4 là ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cho rằng “không nên gọi ngày 30/4 là ngày
giải phóng”! Thậm chí, dưới danh nghĩa hòa hợp, hòa giải dân tộc, các đối tượng
phản động, cơ hội chính trị còn đưa ra luận điệu cho rằng chỉ khi nào Đảng Cộng
sản Việt Nam từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, chỉ khi nào Việt Nam lựa chọn đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có thể thực hiện việc hòa hợp, hòa giải
dân tộc. Các đối tượng tìm cách chia sẻ, lan truyền trên các fanpage, facebook
của các tổ chức, cá nhân chống đối với rất nhiều comment cổ súy, “té nước theo
mưa”…
Không
dừng ở việc xuyên tạc trên mạng xã hội mà số đối tượng chống đối mới đây còn
xây dựng một bộ phim được gọi là “Cảm tình viên” (The Sympathizer) được quay tại
Thái Lan, tái hiện lại Việt Nam thời kỳ trước năm 1975. Nội dung kể về hành
trình của một người tình báo cộng sản nằm vùng trong bộ máy nguỵ quân, sau ngày
giải phóng tiếp tục hoạt động tình báo, sau đó theo đám phản động lưu vong về
nước. Nhân vật này có sự thay đổi nhận thức khi vào trong trại cải tạo, lung lạc
tinh thần và cuối cùng trốn chạy sang Mỹ vì cho rằng chỉ có tư tưởng của Mỹ mới
tiến bộ, nhân văn. Với nội dung xuyên tạc như vậy, bộ phim được công chiếu ngay
sát thời điểm kỷ niệm chiến thắng 30/4, với ý đồ tiêu cực, xuyên tạc chiến thắng
của nhân dân Việt Nam. Chúng còn tổ chức những buổi hòa nhạc kệch cỡm, kêu gọi ủng
hộ “ngày quốc hận”, tổ chức tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa, phủ
nhận toàn bộ công lao của quân và dân ta…
Để
làm nên chiến thắng đó, quân và dân Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp khối
đại đoàn kết, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng, làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đi đến thắng lợi cuối
cùng, non sông Việt Nam thu về một mối. Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và
triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của
dân tộc ta.
Sưu tầm
Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù
hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục khẳng định “Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng kết thực
tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước
ta.
Trong
thời gian tới việc đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
1 -
Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, là điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có một Nhà nước
đủ mạnh, trong sạch để quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế thực hiện
theo định hướng XHCN. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống
lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ. Cần xây dựng Đảng thực sự là
đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Để xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, kiên
quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất. Chú trọng xây dựng
và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. không ngừng
đào tạo, rèn luyện và kết nạp được những quần chúng ưu tú vào hàng ngũ của Đảng.
2-
Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế,
trong đó xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh đủ sức nắm giữ vai trò chủ đạo,
cùng với nó là kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Đồng thời phát huy cao nhất sức mạnh của tất cả các thành phần kinh
tế khác hoạt động lâu dài trong khuôn khổ của pháp luật tạo nên sức mạnh tổng
hợp của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3-
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đây là yếu tố
quan trọng bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần tập
trung làm tốt chức năng định hướng sự
phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên
cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường; tạo môi trường pháp lý và cơ chế,
chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển; hỗ trợ
phát triển, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh
xã hội; bảo đảm tính tích cực và bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế
các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
4-
Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ
nghĩa cá nhân.
Đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trở thành một nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Do vậy, vấn đề này cần phải được nhìn
nhận thẳng thắn, trực diện và thực hiện một chiến lược triệt để phòng, chống
tham nhũng một cách thật sự hiệu quả với sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân và
các thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách,
giảm bớt và loại bỏ những kẽ hở; đồng thời luôn luôn giáo dục con người ý thức
tôn trọng pháp luật, thực hiện kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh, công khai đối với những cán bộ, công chức tham nhũng.
5- Thực
hiện sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển ở tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường. Điều đó
đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt vấn đề phân phối, đặc biệt chú trọng quản
lý thật tốt thu nhập cá nhân từ đó xây dựng cơ chế điều tiết phân phối thu
nhập, hình thành nên chính sách phân phối hợp lý, bảo đảm tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ, công bằng xã hội.
6 -
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để giữ vững an ninh quốc gia, ổn
định chính trị - xã hội. Để phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN thì lực lượng quốc phòng phải đủ mạnh, phải là công cụ sắc bén để đủ
sức mạnh chủ động đập tan mọi âm mưu phá hoại, xâm lược, chống phá sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta trong bất cứ tình huống nào, tạo ra môi trường kinh
tế - chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi,...cũng là giữ vững định hướng XHCN.
GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KỲ MỚI
Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta ngay từ ngày đầu thành lập đa xác định bản chất giai cấp công nhân
là nguyên lý cơ bản nhất trong học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, là vấn đề
cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta ra đời từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, do đó vấn đề xây dựng Đảng mang bản
chất giai cấp công nhân càng trở nên quan trọng. Thực tiễn từ khi ra đời đến
nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng xây dựng bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm
với nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động thực
hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đồng
thời góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân thực sự là một bài học lớn trong công tác xây dựng Đảng
của Đảng ta vẫn được Đại hội XIII tiếp tục khẳng định.
Ngày nay, trong điều
kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa), kết hợp mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng
viên của Đảng lại được phép làm kinh tế tư nhân, do đó họ hằng ngày, hằng giờ
phải chịu sự tác động của những nhân tố tiêu cực, kể cả những hoạt động chống
phá Đảng thì vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
càng trở nên quan trọng và bức thiết. Đại hội XIII của Đảng xác định “Kiên định
đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong thời kỳ mới cần thực hiện
tốt các giải pháp cơ bản sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề sống còn của dân tộc Việt
Hai là, kiên định và vận dụng sáng tạo
lý luận vào thực tiễn, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Việt
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và
phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Đây là những nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng, đồng thời là tiêu chí xác định bản
chất giai cấp công nhân của Đảng. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận bản chất
giai cấp công nhân, là xóa bỏ tận gốc nguồn sức mạnh của Đảng. Kinh nghiệm các
Đảng Cộng sản cho thấy, hễ xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng sẽ trở
thành một thứ câu lạc bộ, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính
phủ hoạt động, cuối cùng làm tan rã Đảng về mặt tổ chức, đi đến thủ tiêu bản
thân Đảng. Trong tình hình hiện nay, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ
cần chú ý trên cả hai phương diện là nhận thức đúng và thực hiện tốt. Thực sự coi
tập trung là tập trung trí tuệ, tập trung lực lượng, tập trung sức mạnh, tập
trung ý chí, tập trung hành động. Nhưng để có được tập trung thì phải đi đôi
với dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Thiếu dân chủ, không dân chủ, vi
phạm dân chủ, dân chủ hình thức… thì tập trung chỉ còn lại là tập trung quan
liêu. Ngược lại, dân chủ không gắn với tập trung sẽ trở thành dân chủ vô tổ
chức, vô kỷ luật, mất kỷ cương. Đại hội XIII của Đảng chỉ ra : “Trong những năm
tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh
hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ”[1].
Đây là vấn đề trở nên thực sự cần thiết để giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của Đảng hiện nay.
Bốn là, thường xuyên chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Bản chất giai cấp
công nhân của Đảng được biểu hiện sinh động, cụ thể, rõ ràng và dễ thấy, nhất
là thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng hiện nay bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ vẫn đang được giữ vững và
phát huy thì một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ
chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh
thần bảo vệ quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, giảm sút lòng tin, nói và
làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy
chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hóa biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối
sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản,
quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống
còn của Đảng, của chế độ. Vì vậy, quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức,
lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng là vấn đề trở nên cấp thiết
để giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng hiện nay.
Năm là, củng cố mối liên hệ mật thiết
với nhân dân, chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Sức mạnh của Đảng được
bắt nguồn từ nhân dân. Nhờ có cơ sở xã hội sâu rộng trong nhân dân mà Đảng ta
được nuôi dưỡng, được bảo vệ và trưởng thành như ngày nay. Liên hệ mật thiết
với nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng Cộng sản, nếu cắt đứt mối liên hệ này,
Đảng không còn cơ sở để tồn tại. V.I.Lênin từng cảnh báo hai nguy cơ lớn nhất
đối với một Đảng cầm quyền là sai lầm về đường lối và xa rời quần chúng nhân
dân. Đảng Cộng sản muốn thực hiện được mục tiêu lý tưởng của mình thì phải củng
cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng phải thể hiện được
vấn đề đó trong toàn bộ hoạt động của mình.
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại.
Đây là một trong
những nhân tố bảo đảm thắng lợi và là một bài học chiến lược của Đảng ta trong
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo kháng chiến, mãi mãi giữ nguyên giá trị.
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đoi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ nội lực,
đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định
đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông
qua hội nhập và hợp tác quốc tế; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy
nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó cũng chính là nhân tố cơ bản giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng
hiện nay.