Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

 

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn

Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc (tháng 5-1965), cách mạng Việt Nam đang đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ dùng không quân mở chiến dịch “Mũi lao lửa” và từ ngày 2-3-1965, Mỹ ném bom liên tục, ác liệt hơn gọi là “sấm rền” đánh phá liên tục miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Ở miền Nam, ngày 8-3-1965, Mỹ đưa đơn vị chiến đấu đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ gồm 3.500 lính thủy đánh bộ đổ bộ lên Đà Nẵng và Chu Lai, bắt đầu tiến hành cuộc Chiến tranh cục bộ. 

Trên bình diện quốc tế, sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản quốc tế đã làm nảy sinh sự bất đồng giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc. Những bất đồng này đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thực tế này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong Di chúc, Người đã tiên liệu được sự khó khăn, gian khổ, lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng Người khẳng định giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước là một tất yếu, dù phải kéo dài, dù có thể ta phải hy sinh thêm nhiều của, nhiều người nữa.

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn

Khát vọng và niềm tin tất thắng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam còn được thể hiện việc Người hoạch định cụ thể về một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội, về xây dựng văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà nước ta hướng tới... Trong đó, những đề nghị của Người về miễn thuế nông nghiệp 1 năm, để “đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”; về xây dựng lại thành phố, làng mạc; về xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”... thực sự thiết thực, cụ thể, đầy tính nhân văn.

Vẫn là Hồ Chí Minh – một con Người đầy bao dung nhân ái, đã dành tình thương yêu cho hết thảy mọi người: Từ những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ…; Người lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai... 

Trong ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước hết phải biết tự ứng xử. Khiêm nhường, chu đáo, cẩn thận, với mình thì nghiêm, với người thì rộng lòng khoan thứ. Mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn, được toàn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc" nhưng không bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người tự cho mình là "người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận", là "người đày tớ trung thành của đồng bào". Lúc sinh thời, nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân. Cho nên, cũng dễ hiểu tại sao khi phần mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố chọn một cách “vào đề” phù hợp nhất để nói điều mà toàn dân và cả chính bản thân Người không ai muốn: “...tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Một đoạn mở đầu đơn giản, độc đáo, đậm chất nhân văn và có sức thuyết phục cao, làm lay động lòng người.

Người “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó chính là phép xử thế của một nhà văn hóa lớn, thể hiện tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền, thấu hiểu được vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại; thấu hiểu được vai trò của nhân dân, là gốc, là chủ thể của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và đổi mới đất nước.

Khiêm nhường trong vị thế một nguyên thủ quốc gia, một Hồ Chí Minh cũng rất giản dị trên cương vị một lãnh tụ của nhân dân Việt Nam. Phút cuối của đời mình, sau khi dành tâm tư, tình cảm cho Đảng, cho dân, cho phong trào cách mạng thế giới, ung dung và thư thái, Hồ Chí Minh để lại mấy dòng cuối cùng trong Di chúc để viết về việc riêng của mình. Người dùng đến 8 từ “phục vụ”, không hề dùng một từ nào biểu đạt rằng mình là người lãnh đạo, hay đứng cao hơn mọi người. Và niềm nuối tiếc duy nhất của Người không phải vì không được sống lâu hơn như lẽ thường tình, như mục đích thụ hưởng mà “chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tìm hiểu, nghiên cứu văn kiện đặc biệt này, càng khẳng định rằng, bao giờ và ở đâu, vẫn luôn ngời sáng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương của đạo đức cách mạng, chí công vô tư; tấm gương của một con người vĩ đại mà khiêm nhường hết mực.

Học và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” như ý nguyện của Người.

Đón, nhận con nuôi “Đồn Biên phòng” và tặng quà cho học sinh nghèo vượt khó

 

chiều ngày 3-9, Đồn Biên phòng Tr’Hy (Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Nam) phối hợp với cấp ủy, chính quyền 2 xã Axan, Tr’Hy (huyện Tây Giang) tổ chức Lễ đón, nhận con nuôi Đồn Biên phòng và gặp mặt, tặng quà cho 28 học sinh thuộc chương trình Nâng bước em đến trường-Con nuôi Đồn Biên phòng và Dự án cán bộ, chiến sĩ quân đội nâng bước em tới trường.

Đón, nhận con nuôi “Đồn Biên phòng” và tặng quà cho học sinh nghèo vượt khó

Thượng tá Bùi Văn Đức Đồn Biên phòng Tr’Hy tặng quà cho con nuôi của đơn vị là Pơ Loong Khang và Hốih Đức Hữu.  

Theo đó, Đồn Biên phòng Tr’Hy nhận em Pơ Loong Khang (sinh năm 2013, nhà tại thôn Abaanh II, xã Tr’Hy) làm con nuôi từ ngày 1-9-2024. Em Pơ Loong Khang có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khi cha mất sớm, mẹ bị khuyết tật, hiện em đang học lớp 6 Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Lý Tự Trọng (xã A xan). Đơn vị cũng bổ sung nhận đỡ đầu cháu Ríah Vứt (sinh năm 2011, trú tại bản Tà Vàng, huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) theo Chương trình nâng bước em tới trường. Cha của cháu Ríah Vứt đã mất, mẹ bị bệnh phải điều trị dài ngày, cháu phải ở với chú ruột nên hoàn cảnh rất khó khăn. Đồn Biên phòng Tr’Hy nhận đỡ đầu cháu Ríah Vứt cho đến hết lớp 12 với mức hỗ trợ 500.000 đồng/tháng.

Đón, nhận con nuôi “Đồn Biên phòng” và tặng quà cho học sinh nghèo vượt khó
Học sinh thuộc Chương trình Nâng bước em đến trường-Con nuôi Đồn Biên phòng và Dự án cán bộ, chiến sĩ quân đội nâng bước em đến trường chụp ảnh lưu niệm tại Đồn Biên phòng Tr’Hy. 

Dịp này, Đồn Biên phòng Tr’Hy gặp mặt, trao tặng quà (mỗi suất gồm sách vở, đồ dùng học tập, chăn, màn và tiền mặt 1.000.000 đồng) cho 28 cháu con nuôi, nâng bước em đến trường và Dự án cán bộ, chiến sĩ quân đội nâng bước em đến trường. Việc làm này nhằm động viên, hỗ trợ các cháu trước thềm năm học mới 2024-2025, tăng cường tình đoàn kết gắn bó quân dân và thể hiện vai trò của Bộ đội Biên phòng trong tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn biên giới huyện Tây Giang.

Tin, ảnh: THANH TRÚC

 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam

 

Chia sẻ với đồng bào lũ lụt Điện Biên

Cùng đoàn thiện nguyện đến thăm, tặng quà các gia đình bị ảnh hưởng bởi mưa lũ vừa qua tại xã Mường Pồn (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) do Hội Phụ nữ hai phòng (Phòng Chính trị và Phòng Hậu cần-Kỹ thuật) của Sư đoàn 363, Quân chủng Phòng không-Không quân phối hợp với Câu lạc bộ Thiện nguyện trái tim xanh TP Hải Phòng tổ chức, chúng tôi càng hiểu thêm việc làm ý nghĩa nhân văn này.

Ông Quàng Văn Tiến, Chủ tịch UBND xã Mường Pồn chia sẻ: Mường Pồn là xã vùng cao, thuần nông, có 11 bản với 1.107 hộ dân; trong đó, một số bản giáp biên giới, trình độ dân trí không đồng đều, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Trận mưa, lũ quét vừa qua xảy ra tại đây đã khiến 4 người thiệt mạng, 3 người mất tích; 20 ngôi nhà bị đổ sập, cuốn trôi; hàng trăm ngôi nhà bị hư hỏng; hoa màu và vật nuôi bị thiệt hại nặng, Quốc lộ 12 đi qua xã Mường Pồn cũng bị tê liệt...

Chia sẻ với đồng bào lũ lụt Điện Biên

Thấu hiểu được những khó khăn, vất vả của bà con nơi đây, Hội Phụ nữ hai phòng của Sư đoàn 363 và Câu lạc bộ Thiện nguyện trái tim xanh TP Hải Phòng đã tổ chức kêu gọi, vận động các tổ chức và cá nhân có tấm lòng hảo tâm trong xã hội tham gia ủng hộ để tổ chức chương trình.

Vượt qua gần 600km, nhiều đoạn đèo dốc cao, đoàn đã đến thăm 3 bản (bản Mường Pồn 1, bản Lĩnh và Tin Tốc) của xã Mường Pồn. Tại các nơi đến thăm, đoàn đã gửi lời thăm hỏi sức khỏe và chia sẻ với người dân về những thiệt hại do mưa lũ gây ra, động viên người dân cố gắng vượt qua những mất mát, đau thương, sớm ổn định cuộc sống; đồng thời trao gần 600 phần quà với tổng trị giá 400 triệu đồng tặng các gia đình bị thiệt hại.

Trong trận mưa lũ vừa qua, ngôi nhà của bà Lò Thị Phong, ở bản Mường Pồn 1 bị bùn đất từ trên núi sạt xuống làm gãy cột, sắp đổ. Trận lũ cũng đã cuốn đi toàn bộ kế sinh nhai của gia đình bà, gồm một đôi lợn nái và 15 con lợn con, một đàn ngan hơn 50 con. Thửa ruộng ngoài đồng cũng chất đầy đất đá... Sau khi nhận được quà từ đoàn thiện nguyện, bà Lò Thị Phong xúc động chia sẻ: "Mưa lũ khiến gia đình tôi bị thiệt hại hết. Bộ đội, các cô chú hỗ trợ tiền, mì ăn liền, thức ăn, gạo. Cảm ơn bộ đội và mọi người nhiều lắm...".

Thiếu tá QNCN Đỗ Thị Thu Hà, y sĩ-Chủ tịch Hội Phụ nữ hai phòng của Sư đoàn 363, cho biết: “Thấu hiểu và chia sẻ những khó khăn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tích cực ủng hộ và kêu gọi các tấm lòng hảo tâm cùng tham gia. Tuy món quà không lớn nhưng đó là tình cảm, sự quan tâm, sẻ chia của cán bộ, hội viên. Thông qua đó, chúng tôi muốn chung tay cùng cộng đồng hỗ trợ, chia sẻ với những người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai”.

 

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ

Nhằm giúp đỡ bà con trong Khu Kinh tế - Quốc phòng A So, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế thu hoạch lúa trước mùa mưa bão, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92, Quân khu 4 huy động gần 500 ngày công của cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện xuống đồng giúp dân thu hoạch vụ lúa Hè Thu năm 2024, để lại tình cảm tốt đẹp trong lòng nhân dân.

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ


Sáng sớm, trên cánh đồng lúa xã Đông Sơn, huyện A Lưới, hình ảnh bộ đội Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 cùng với bà con háo hức thu hoạch lúa giống như ngày hội. Những bông lúa vàng óng dưới nắng sớm trên cánh đồng giữa thung lũng A So như ánh lên sự vui mừng của người dân vì gặt hái đúng thời vụ. Những bông lúa ấy được cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 vác trên vai nặng trĩu từ ruộng lên bờ rồi về tận nhà dân.

Quên đi mệt mỏi dưới cái nắng gắt oi bức của những ngày đầu Thu, thi đua lập công chào mừng Ngày Quốc khánh 2-9, gạt từng giọt mồ hôi chảy dài trên má, chị Nguyễn Thị Thích, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 chia sẻ: “Nhìn bông lúa chín vàng, chúng tôi thêm phấn khởi bởi thành quả của bà con sau hơn 3 tháng trông chờ. Do vậy, chúng tôi tự giác giúp người dân thu hoạch lúa với tinh thần trách nhiệm cao nhất”.

Trò chuyện với chúng tôi, chị Hồ Thị Hơn, xã Đông Sơn, huyện A Lưới, hồ hởi nói: “Lúa chín vàng, gia đình khá lo lắng bởi mùa mưa bão đến gần. Được bộ đội và các bạn trẻ giúp đỡ gia đình thu hoạch, chúng tôi rất vui mừng và cảm ơn nhiều lắm”.

Đến xã Lâm Đớt, địa phương có diện tích trồng lúa lớn nhất huyện A Lưới, đông đảo cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 nô nức giúp dân thu hoạch lúa. Dịp này đang vào chính vụ lúa Hè Thu, tuy nhiên diện tích trồng lúa của người dân địa phương chủ yếu ở khu vực đồi núi dốc nên việc thu hoạch gặp nhiều khó khăn, nhất là công cụ, nhân lực và máy móc hỗ trợ.  

Mặc dù tiết trời ở A Lưới khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, ngày nắng nóng, chiều tối có mưa dông, với phương châm “lúa chín tới đâu, thu hoạch tới đó”, gần 40 cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 vượt nắng, thắng mưa hỗ trợ 10 hộ dân có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách thu hoạch và chở lúa về tận nhà.

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ
 

Ông Hồ Thông, thôn A Đớt, xã Lâm Đớt, cho biết: “Gia đình có 3 sào lúa đã chín vàng, bản thân thì già yếu, tôi rất lo lắng vì không có nhân lực. Được cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 giúp đỡ gia đình thu hoạch và mang lúa về tận nhà, tôi rất vui mừng, thêm yêu quý Bộ đội Cụ Hồ”.

Theo Thượng tá Lê Văn Hòa, Đoàn trưởng Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92, với phương châm “Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ”, thời gian qua, đơn vị chủ động phối hợp với 4 xã trong Khu Kinh tế - Quốc phòng A So nắm tình hình địa bàn, gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn về nhân lực để bố trí lực lượng giúp đỡ thu hoạch lúa. Mặc dù tiết trời khắc nghiệt nhưng bằng tình cảm và trách nhiệm, cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 nêu cao tinh thần tự giác, tận tâm, tận tụy giúp đỡ đồng bào thu hoạch gần 30ha lúa. Qua đó, kịp thời động viên bà con tích cực lao động sản xuất, vươn lên thoát nghèo, tô thắm thêm tình cảm quân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn biên giới.

 

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan

Nhằm chủ động ứng phó với bão Yagi, Cục Cứu hộ - Cứu nạn (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) vừa có Công điện gửi các Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Quân chủng: Hải quân, Phòng không - Không quân; Bộ tư lệnh: Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Thủ đô Hà Nội; Quân đoàn 12, 3, 4; Binh chủng: Pháo binh, Đặc công, Tăng thiết giáp, Công binh, Thông tin liên lạc, Hóa học; Binh đoàn: 11, 12, 15, 16, 18.

Theo bản tin của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, hiện nay bão Yagi đang hoạt động ở vùng biển phía Đông đảo Luzon (Philippines). Dự báo khoảng chiều 3-9 bão Yagi đi vào Biển Đông (cơn bão số 3), trong khoảng từ ngày 4 đến 6-9, bão số 3 trên vùng biển Đông Bắc Biển Đông, gió mạnh tối đa lên tới cấp 12, giật cấp 15. Ngoài ra khu vực Nam bộ, Tây Nguyên xảy ra mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng tại các khu vực trũng, thấp.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan

Để chủ động ứng phó với diễn biến của bão trên Biển Đông và mưa lớn có thể gây ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt vùng trũng thấp, khu đô thị tại vùng núi phía Bắc, khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, Cục Cứu hộ - Cứu nạn đề nghị các đơn vị quân đội thực hiện một số nội dung sau:

Duy trì nghiêm chế độ trực, theo dõi nắm chắc tình hình thời tiết, khí tượng, thủy văn. Phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra, vận động tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp chủ động ứng phó; chủ động điều động lực lượng, phương tiện, di dời người và tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm.

Bộ tư lệnh Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội chỉ đạo Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố (quận, huyện) nắm chắc tình hình di chuyển của bão Yagi, mưa lớn khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên; rà soát, bổ sung các kế hoạch, phương án; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn sẵn sàng lực lượng, phương tiện xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; bảo đảm an toàn tuyệt đối lực lượng, phương tiện khi đi làm nhiệm vụ.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan
 

Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ các phương tiện ra khơi, tổ chức kiểm đếm, thông báo kịp thời cho chủ các phương tiện, thuyền trưởng các tàu, thuyền đang hoạt động trên biển biết vị trí, hướng di chuyển và diễn biến của bão Yagi để chủ động phòng tránh, thoát ra hoặc không di chuyển vào khu vực nguy hiểm, thường xuyên duy trì thông tin liên lạc, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra.

Quân chủng Hải quân, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển chỉ đạo các đơn vị bảo đảm an toàn cho các phương tiện đang hoạt động trên biển; sẵn sàng lực lượng, phương tiện tham gia cứu hộ, cứu nạn khi có yêu cầu.

Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh đoàn 18 sẵn sàng lực lượng, phương tiện bay tìm kiếm cứu nạn khi có lệnh của Bộ Quốc phòng.

Bộ tư lệnh các Quân đoàn, Binh chủng, Binh đoàn có biện pháp bảo đảm an toàn doanh trại, kho tàng; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương sẵn sàng lực lượng, phương tiện ứng phó với mưa lớn, lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất trên địa bàn, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả.

Các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện và báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu (qua Cục Cứu hộ - Cứu nạn) để giúp Bộ theo dõi, chỉ đạo.

Cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn nhà trường với đơn vị

 

Thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, những năm qua, Học viện Kỹ thuật Quân sự (KTQS) đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, sáng tạo, phù hợp, mang lại hiệu quả thiết thực. Để làm rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện KTQS.

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Học viện KTQS đã tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nào để thực hiện tốt phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện KTQS luôn chủ động tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng về công tác giáo dục-đào tạo. Căn cứ Kế hoạch số 619/KH-TM ngày 9-4-2021 của Bộ Tổng Tham mưu về thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Học viện đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục-đào tạo; phát triển chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học; xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục ngang tầm nhiệm vụ...

Cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn nhà trường với đơn vị
 

Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự trò chuyện, động viên các học viên. Ảnh: TRẦN DŨNG

PV: Kết quả đạt được trên những mặt công tác nói trên như thế nào, thưa đồng chí?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Giai đoạn 2021-2024, Học viện đã ký kết và triển khai thực hiện chương trình phối hợp, hợp tác về giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học với 8 đầu mối đơn vị trong toàn quân. Việc hợp tác này mang lại những kết quả hết sức tích cực, như: Hằng năm, Học viện phối hợp tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức về thiết kế, chế tạo, an toàn thông tin, tác chiến điện tử, ngoại ngữ chuyên ngành kỹ thuật cho các đơn vị. Học viện đã phối hợp, lấy ý kiến các đơn vị về chuẩn đầu ra và khung chương trình đào tạo cho các đối tượng, từ đó đã ban hành 23 chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, 56 chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, 50 chương trình đào tạo kỹ sư quân sự theo quy trình 5 năm, 2 chương trình đào tạo kỹ sư quân sự chất lượng cao. Ngoài ra, Học viện cũng đã làm tốt công tác phối hợp với các đơn vị trong việc tổ chức cho học viên đi thực tập, cán bộ, giảng viên đi luân chuyển, thực tế tại đơn vị với lưu lượng hằng năm khoảng 600 lượt học viên thực tập và 50 lượt cán bộ, giảng viên luân chuyển, thực tế.

Trong 3 năm qua, Học viện đã mời 1.694 lượt cán bộ, chỉ huy các đơn vị tham gia giảng dạy, hướng dẫn và tham gia hội đồng chấm đồ án tốt nghiệp, luận văn, luận án cho học viên. Học viện cũng đã phối hợp với các đơn vị trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo nhiều sản phẩm, trang bị kỹ thuật mới phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm kỹ thuật, sản xuất vật tư kỹ thuật, linh kiện thay thế. Các sản phẩm của Học viện đã được các cơ quan, đơn vị sử dụng đánh giá cao, điển hình như: Bệ quay cho đài ra-đa cảnh giới tầm trung, sóng mét RV; hệ thống sô-na chủ động, thụ động cho tàu hải quân; thiết bị chế áp phương tiện bay không người lái flycam; thiết bị tập bắn súng TBS-19 dùng cho huấn luyện bắn súng tiểu liên...

Một nội dung quan trọng là Học viện KTQS luôn chú trọng đổi mới nội dung, chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu cập nhật trình độ, kiến thức và kỹ năng của cán bộ kỹ thuật trước sự thay đổi nhanh chóng của khoa học, công nghệ và sự phát triển của vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới. Theo đó, Học viện đã điều chỉnh các chương trình đào tạo theo hướng nâng cao khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, thực tế, tác phong chỉ huy cho học viên, bám sát yêu cầu thực tiễn của đơn vị. Ví dụ như, các chương trình đào tạo đã được điều chỉnh để bảo đảm từ năm thứ ba, mỗi năm học sẽ có 2-4 tuần thực tập tại đơn vị. Cùng với đó, Học viện tập trung đổi mới công tác diễn tập cuối khóa bảo đảm phù hợp với cương vị, chức trách của học viên sau khi tốt nghiệp, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tổ chức biên chế, sát thực tế công tác huấn luyện chiến đấu của đơn vị...

Học viện đã xây dựng và triển khai thực hiện tốt các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên, bảo đảm đội ngũ giảng viên đủ số lượng, cơ cấu chuyên môn phù hợp, chất lượng tốt. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, giảng viên của Học viện có 6 giáo sư, 86 phó giáo sư, 525 tiến sĩ.

PV: Thưa đồng chí, để thực hiện tốt hơn nữa phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Học viện có kiến nghị, đề xuất gì?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Học viện KTQS mong cấp trên tiếp tục quan tâm đầu tư, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị bổ sung một số trang bị kỹ thuật mới phù hợp, góp phần để nhà trường sát với thực tiễn đơn vị; cho phép cán bộ, giảng viên của Học viện tham gia huấn luyện chuyển giao công nghệ, các đoàn công tác sửa chữa, bảo dưỡng trang bị kỹ thuật mới do các đối tác, chuyên gia nước ngoài thực hiện để xây dựng các quy trình công tác kỹ thuật phục vụ đào tạo. Học viện cũng mong các đơn vị chủ động đề xuất các lớp bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ kỹ thuật của đơn vị mình, đặt ra nhiệm vụ kỹ thuật cùng với Học viện triển khai thực hiện bảo đảm sự phối hợp chủ động, tích cực từ nhà trường và từ đơn vị.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

PHƯƠNG HIỀN (thực hiện)