Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX

TCCS - Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên tạo thành cơn bão táp cách mạng, lật nhào ách thống trị của phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ những giá trị và tầm vóc to lớn đó, Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khẳng định là một trong những “chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”(1) trong thế kỷ XX.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập _Ảnh: Tư liệu

1- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam là bước nhảy vọt to lớn, là cuộc cải biến xã hội vĩ đại không chỉ của lịch sử dân tộc Việt Nam mà của cả lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Đảng khi nhận định những mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc, tay sai đã trở nên sâu sắc, từ đó yêu cầu độc lập dân tộc được đặt ra bức thiết, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Đây không phải là nhận thức “ngẫu nhiên” mà là kết quả của cả một quá trình đúc rút kinh nghiệm của Đảng qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ - Tĩnh và cao trào cách mạng dân tộc dân chủ những năm 1936 - 1939, có sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là cơ sở quan trọng để Đảng xác định đối tượng chính của cách mạng ở từng giai đoạn cụ thể, từ đó tổ chức lực lượng đánh bại kẻ thù, mở đường cho Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công, bởi “Nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến khăng khít với nhau là một vấn đề chiến lược cách mạng. Nếu tách hai nhiệm vụ đó ra thì có thể đưa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến chỗ thất bại. Tuy vậy, hai nhiệm vụ đó không tiến hành song song nhất loạt ngang nhau. Đó là một kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến lược của Đảng ta”(2).

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc vùng dậy và chiến đấu anh dũng của cả dân tộc, là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí tuệ dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, là trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất. Với Cách mạng Tháng Tám, “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(3). Cách mạng Tháng Tám làm nên “cuộc đổi đời” cho toàn dân tộc. Từ thân phận nô lệ, nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945), quần chúng nhân dân thông qua hình thức đấu tranh chính trị, như mít tinh, biểu tình, vận động binh lính,... có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đã nhanh chóng giành thắng lợi. Có thể nhận thấy, Cách mạng Tháng Tám diễn ra chỉ với một khoảng thời gian ngắn, gánh chịu ít hy sinh, tổn thất là do sự nhạy bén, sáng tạo của Đảng trong việc đánh giá tình hình, chủ động nắm bắt thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa bằng phương pháp đấu tranh phù hợp. Trong bối cảnh phát xít Nhật ở Đông Dương tan rã, chính quyền tay sai tê liệt, quân đồng minh chưa tiến vào Việt Nam, lực lượng chính trị và vũ trang cách mạng được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh..., Đảng ta đã phát động tổng khởi nghĩa, lãnh đạo quần chúng nhân dân giành chính quyền. Nhờ vậy, cách mạng đã tránh được sự đụng đầu với kẻ thù khi còn đang mạnh, đồng thời tạo nên thế hợp pháp, chính nghĩa của Chính phủ lâm thời khi đón tiếp quân đồng minh. Tổng kết về Cách mạng Tháng Tám, Nghị quyết Đại hội III của Đảng chỉ rõ: “Nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(4).

Sự đúng đắn, nhất quán của Đảng trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, xây dựng lực lượng và phương pháp đấu tranh cách mạng, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện thực tiễn của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, được kiểm nghiệm qua chặng đường 15 năm đấu tranh cách mạng, đã dẫn đến đỉnh cao thắng lợi là Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là cơ sở vững chắc bác bỏ những luận điệu về “khoảng trống quyền lực” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và sự chuẩn bị của toàn dân cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ khách quan thuận lợi xuất hiện. Nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng, cụ thể về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và chiến khu, căn cứ địa thì cho dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến mấy cũng không thể tận dụng được để phát động toàn dân đứng lên giành chính quyền trên phạm vi cả nước trong một khoảng thời gian nhanh chóng như vậy.

2. Không chỉ có giá trị và ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là sự kiện trọng đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX. Đó là đòn quyết định phá tung một mắt xích quan trọng và thúc đẩy sự tan rã nhanh chóng của hệ thống thuộc địa; mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lê-nin, có đường lối đúng đắn hoàn toàn có thể giành thắng lợi.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu gian khổ, hy sinh, là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với xu thế của thời đại là hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc(5).

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lần đầu tiên trong lịch sử, một Nhà nước dân chủ cộng hòa ra đời, gắn bó mật thiết với nhân dân - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó cũng là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh vùng dậy đấu tranh lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc. Đồng thời, góp phần tăng cường sức mạnh của lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh cho độc lập, tự do và tiến bộ xã hội; ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ tiếp tục được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, phấn đấu vì một nước Việt Nam giàu mạnh và hùng cường_Ảnh: Hoàng Hải Thịnh

3. Thành quả vĩ đại và những bài học lịch sử vô giá của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành động lực và sức mạnh to lớn để nhân dân ta bước vào cuộc chiến tranh trường kỳ 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong những năm đầu sau ngày đất nước giành được độc lập, nước cộng hòa non trẻ phải đối mặt với “thù trong, giặc ngoài”. Vượt lên những khó khăn đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Pháp và Tưởng để duy trì hòa bình, củng cố chính quyền cách mạng, tiến hành diệt “giặc đói”, “giặc dốt” và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(6), trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, với phương châm: Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng; vừa kháng chiến, vừa củng cố hậu phương, và với phương pháp tác chiến thích hợp, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã lần lượt làm phá sản các chiến lược của kẻ thù. Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, trải qua hơn 3.000 ngày đêm chiến đấu hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng anh dũng và tự hào, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải rút quân về nước và thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước Đông Dương.

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(7).

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, nhưng tại miền Nam, đồng bào ta vẫn rên xiết dưới gót giày của đế quốc, tay sai. Trước tình hình đó, nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện nhiệm vụ cao cả này, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến thần thánh đầy khó khăn, gian khổ nhưng với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(8) và với niềm tin sắt đá “dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”(9), dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Trải qua 21 năm chiến đấu anh dũng, với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh khoa học, linh hoạt của Đảng; với phương châm toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, “mỗi người dân là một dũng sĩ diệt Mỹ”; với sự chi viện của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới..., quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc; kết thúc cuộc đấu tranh suốt 30 năm, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên đất nước ta; mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”(10).

Trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, chúng ta gặp nhiều khó khăn lớn. Một mặt, chúng ta phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh; mặt khác, phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; trong bối cảnh bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp với thực tiễn đã làm bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985), kể từ khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, là 10 năm Đảng ta tìm tòi con đường đổi mới. Đây cũng là thời kỳ tư duy mới được hình thành từng bước, bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu và khuyết điểm trong mười năm ấy đã để lại những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã chính thức đề ra đường lối đổi mới đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua các kỳ đại hội, từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đón chào năm mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Qua thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội X của Đảng nhận định: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”(11). Đến Đại hội XIII, Đảng ta nêu rõ: “Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(12).

Cùng với những thành tựu về mặt lý luận, thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua đã “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(13)Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao(14).

Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu to lớn đạt được từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Những bài học lịch sử quý báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ tiếp tục được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, phấn đấu vì một nước Việt Nam giàu mạnh và hùng cường./.

-----------------------


Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước

 TCCS - Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, công tác dân vận có nhiều cách làm hay, sáng tạo, mang lại hiệu quả thiết thực; qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và góp phần vào phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Thời gian tới, Đảng ta xác định tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác dân vận, góp phần phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi người dân sống trong khu vực dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột _Ảnh: TTXVN

Về sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của nhân dân là vô địch; muốn lãnh đạo cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân dân ủng hộ. V.I. Lê-nin khẳng định: “Đối với đảng cộng sản hiện còn yếu về số lượng, với tư cách là đội tiền phong của giai cấp công nhân đang lãnh đạo một nước rộng mênh mông, đang thực hiện (lúc này chưa có sự ủng hộ trực tiếp của các nước tiên tiến hơn) bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(1).

Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt, được hình thành do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng vừa là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đi theo Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra./ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2); Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”(3), “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4), “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”(5). Như vậy, dân phải làm chủ và có quyền làm chủ; bởi lẽ, nếu dân không được làm chủ thì dân chủ chỉ là hình thức. Phát huy truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đưa ra quan điểm hết sức đúng đắn, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm, nhất là bài học: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6). Trong 5 quan điểm chỉ đạo, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(7) và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm ở nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, có 3 nhiệm vụ đề cập đến phát huy vai trò của nhân dân: “Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8), “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân”(9).

Gần 40 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng đánh giá rất rõ các thành tựu đó: “Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(10).

Kết quả, hạn chế về công tác dân vận thời gian qua

Về kết quả của công tác dân vận

Đánh giá khái quát ưu điểm công tác dân vận thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”(11). Trên thực tế, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác dân vận được đổi mới. Đảng đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết về công tác dân vận, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990), “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (tháng 6-2013), về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” để lãnh đạo, tập hợp các tầng lớp nhân dân; đồng thời, Đảng có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Thực hiện các văn kiện của Đảng, cùng Quy chế Dân chủ ở cơ sở, đồng thời với việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan, công tác dân vận của các cơ quan nhà nước đạt được nhiều kết quả tích cực; việc tiếp công dân, đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy được thực hiện nền nếp, tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Các hình thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn. Nhiều phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào “Dân vận khéo”, được đẩy mạnh, gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết hiệu quả nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân.

Về hạn chế và nguyên nhân

Thời gian qua, công tác dân vận có chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần nhận diện và tiếp tục khắc phục. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận, như phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn chưa phù hợp với từng đối tượng quần chúng, các loại hình ở cơ sở. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa coi trọng công tác vận động quần chúng và chưa chú trọng đưa nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân làm nội dung chủ yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo của mình. Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp có nơi còn mang tính hình thức. Công tác đánh giá và dự báo tình hình, nắm bắt tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân có nơi còn thiếu chính xác, chưa kịp thời; còn để xảy ra “điểm nóng” hoặc khiếu kiện phức tạp kéo dài. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quan tâm đúng mức; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tốt vai trò của các cơ quan truyền thông, mạng xã hội, mở rộng các kênh đối thoại trực tiếp với nhân dân. Việc lựa chọn nội dung và cách thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ở một số nơi thiếu sáng tạo, chưa sát thực tế, nên hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền gương điển hình là tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng có lúc chưa được quan tâm đúng mức. Việc tiến hành sơ kết, tổng kết theo quy định của Trung ương có nơi làm chậm hoặc làm hình thức, chiếu lệ.

Những hạn chế về công tác dân vận có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, cụ thể: 1- Một số cấp ủy, chính quyền, chưa nhận thức đầy đủ, rõ ràng vị trí, vai trò của công tác dân vận trong tình hình mới; 2- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở còn hạn chế; 3- Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, vai trò tiên phong, nòng cốt còn mờ nhạt, cá biệt còn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền; 4- Việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn chậm, hiệu quả thấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN

Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận để tiếp tục phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới

Một là, các cấp ủy tiếp tục lãnh đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về công tác dân vận của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân.

Tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Trung ương về công tác dân vận đến tổ chức đảng, đảng viên; đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo tập trung thực hiện tốt công tác dân vận.

Cơ quan nhà nước cần có phương pháp, cách thức, hình thức thực hiện hiệu quả, nhằm phát huy vai trò của nhân dân tham gia trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc. Từng bước tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp để phát huy trí tuệ tập thể, sự đóng góp ý kiến quan trọng, quý báu của các tầng lớp nhân dân; sớm hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại với công dân, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân kịp thời, đúng pháp luật. Hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ kết hợp với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; quan tâm công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan nhà nước các cấp. Phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ thường xuyên tiếp xúc, làm việc với nhân dân, cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, Kiên quyết phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân; đồng thời, chống các khuynh hướng mị dân, kích động nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Tập trung xử lý dứt điểm các vấn đề “nóng”, bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, không để các vụ khiếu kiện phức tạp kéo dài, các “điểm nóng” về an ninh, trật tự xảy ra ở cơ quan, đơn vị, cơ sở.

Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên, theo đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ các cấp thật sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác dân vận. Quan tâm việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể yên tâm công tác; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hướng mạnh về cơ sở; đa dạng hóa hình thức tập hợp, vận động đoàn viên, hội viên; làm tham mưu cho cấp ủy, là nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, tình hình nhân dân; phát huy dân chủ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc, nhất quán nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động theo pháp luật khi phát triển các tổ chức quần chúng. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng, thường xuyên bồi dưỡng đoàn viên, hội viên ưu tú, tiêu biểu cả đức và tài để giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước; đồng thời, quan tâm xây dựng, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng, kể cả đồng bào ta ở nước ngoài hướng về xây dựng đất nước.

Bốn là, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm, luận điệu sai trái.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ phương hướng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(12). Đại hội đặt ra yêu cầu: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(13). Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đồng thời, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng; can thiệp, cản trở việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thời gian vừa qua được nhân dân đồng tình, ủng hộ; qua đó, tăng cường niềm tin, khơi dậy và phát huy sức mạnh của nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình hình và điều kiện mới, các thế lực thù địch có nhiều hoạt động chống phá hết sức tinh vi, thâm độc, nhằm chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy “thế trận lòng dân”, quyết tâm, quyết liệt đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát huy sức mạnh của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.

Trong thời gian tới, công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục góp phần tích cực vận động, tập hợp được các tầng lớp nhân dân trong cả hệ thống chính trị thành lực lượng to lớn tham gia các phong trào thi đua yêu nước, theo tinh thần “thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt đầy đủ lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động phong trào thi đua sát với thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và phù hợp với từng đối tượng. Trên cơ sở tổng kết phong trào thi đua “Dân vận khéo” và các phong trào thi đua do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát động thời gian qua để rút kinh nghiệm, qua đó thực hiện nhiệm vụ chính trị tốt hơn, hiệu quả hơn trong thời gian tới. Các phong trào thi đua cần thiết thực, tránh hình thức, lãng phí, tốn kém; lấy hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội làm thước đo đánh giá từng phong trào thi đua; thường xuyên tổ chức theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng kịp thời. Trong giai đoạn phát triển mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần hướng phong trào thi đua vào khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, đoàn viên, hội viên thi đua sản xuất, kinh doanh để làm giàu chính đáng. Trên cơ sở đó, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách an sinh xã hội, phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong tình hình mới.

Sáu là, cả hệ thống chính trị phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong thực hiện quy chế công tác dân vận.

Ngày 30-7-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 23-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về công tác dân vận trong tình hình mới. Quy chế đã nêu rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Dân vận Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, các ban đảng ở Trung ương, đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp, trách nhiệm của lực lượng vũ trang, trách nhiệm của chính quyền các cấp, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở trách nhiệm về công tác dân vận được Bộ Chính trị giao, các tổ chức trong hệ thống chính trị nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt để công tác dân vận có chuyển biến tích cực, rõ rệt. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở từng cấp. Cấp ủy các cấp cần thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế; đồng thời, định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời theo quy định của Trung ương./.

----------------------------

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân

 TCCS - Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một văn kiện vô cùng quý giá có ghi hàng chữ “Tuyệt đối bí mật”. Văn kiện “Tuyệt đối bí mật” này (từ sau ngày 9-9-1969 được Đảng ta gọi là Di chúc) là một di sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân Việt Nam, đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Bản Di chúc tuy rất ngắn gọn song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự kết tinh một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hủ đối với những thế hệ mai sau”(1).

Trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trụ sở Bộ Công an, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an khi đó đã thay mặt toàn thể lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tuyên thệ: “Lực lượng Công an nhân dân đoàn kết và quyết tâm làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà”(2). Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng, suốt 55 năm qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi rọi, dẫn đường cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam lập nhiều chiến công, thành tích, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Chỉ với hơn 1.000 từ, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ý chí và quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của chính nghĩa và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(3), đưa cả dân tộc giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(4).

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an kiểm tra trang thiết bị, quân tư trang của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát cơ động tham gia tổng duyệt lễ diễu binh kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát cơ động, ngày 7-4-2024_Ảnh: TTXVN

Quán triệt sâu sắc và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam được tiếp thêm động lực và sức mạnh to lớn, không quản ngại khó khăn, gian khổ, tận tụy trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, giữ gìn an ninh, trật tự, đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm gần đây, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bám sát và triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam có nhiều đổi mới mang tính bước ngoặt, đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt công tác, đã được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ghi nhận, khẳng định: Nhìn lại nửa nhiệm kỳ vừa qua, ngành Công an “hoạt động rất vất vả, song cũng rất đáng tự hào, để lại nhiều dấu ấn tốt(5).

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công an nhân dân được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng đối với các mặt công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng công an thực sự trong sạch, vững mạnh, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” theo đúng di nguyện của Bác. Đảng ủy Công an Trung ương đã chủ động, tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; lãnh đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện quyết liệt Nghị quyết này, gắn với kế hoạch thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị”; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Công an nhân dân Việt Nam. Quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong nội bộ Công an nhân dân Việt Nam; đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực và chấn chỉnh thái độ thực thi công vụ của toàn lực lượng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, nhất là ở những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng và ở những nơi có nhiều dư luận phản ánh, nhiều đơn, thư tố cáo. Cùng với đó, lần đầu tiên ban hành và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng ủy Công an Trung ương về công tác chính trị, tư tưởng, Quy định về học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; tổ chức sâu rộng, lan tỏa hàng chục đợt sinh hoạt chính trị, hội thảo chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong Công an nhân dân Việt Nam, về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; nghiên cứu, tìm hiểu các tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””...; gắn với quyết liệt rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, luôn sẵn sàng chấp nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tích cực tham gia công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần quan trọng đẩy lùi một bước nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm “thế trận lòng dân”, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong. Thực hiện chức năng bảo vệ Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương đã tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh thông tin - truyền thông, an ninh mạng. Tăng cường các giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Phòng ngừa, đấu tranh, vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động thâm nhập, chuyển hóa nội bộ, cài cắm nội gián, chui sâu, leo cao; kịp thời phát hiện, báo cáo tham mưu với Đảng ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung cao độ điều tra, xử lý dứt điểm, nghiêm minh, triệt để, đúng pháp luật nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, theo đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, không để kéo dài, “chìm xuồng” và thực sự tạo sự lan tỏa theo đúng phương châm “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, xử lý một người để cứu muôn người”(6); qua đó, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí, gắn kết tư tưởng và hành động; cùng với đoàn kết giữa Công an nhân dân Việt Nam với Quân đội nhân dân Việt Nam và các ban, bộ, ngành, địa phương; đoàn kết, hợp tác quốc tế với các đối tác an ninh, trật tự, tạo sức mạnh to lớn giúp lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, kể cả trong bối cảnh các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp chưa từng có tiền lệ, gia tăng thách thức, áp lực mạnh mẽ từ nhiều hướng đối với bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Công tác thu thập thông tin, phân tích, tham mưu chiến lược của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã cung cấp luận cứ góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, an ninh quốc gia được giữ vững, tội phạm liên tục kéo giảm qua các năm, môi trường an ninh, an toàn, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố vững chắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(7).

Tình quân dân (Tác giả: Bùi Việt Đức)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Xuyên suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mục tiêu, lý tưởng “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”(8). Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng, tình cảm chủ đạo trong những điều Người căn dặn là tình yêu thương trọn vẹn của Người đối với mọi tầng lớp nhân dân; kể cả những lời cuối khi Người nói “về việc riêng”, vẫn toát lên những suy nghĩ trăn trở, lo cho nước, cho dân. Quán triệt, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng, đạo đức, phong cách trong Di chúc của Người, mọi chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đều phải “vì dân phục vụ và dựa vào dân mà làm việc”(9), “phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”(10), “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(11), vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Với việc tham mưu ban hành và phát huy vai trò thường trực thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã gương mẫu, đi đầu trong chuyển đổi số, góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu tiêu cực, “tham nhũng vặt”, phục vụ tốt nhất cho nhân dân. Tập trung xây dựng công an cấp xã, tham mưu xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, đổi mới mạnh mẽ phương pháp làm việc theo phương châm “công an tìm đến dân”, “gần dân, hiểu dân”, “lúc dân cần, lúc dân khó, có công an”, qua đó, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân ở từng địa bàn cơ sở. Chủ động, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương, các nhà hảo tâm xây dựng hàng chục nghìn ngôi nhà cho hộ nghèo, gia đình chính sách, gia đình khó khăn về nhà ở tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ giải quyết từ gốc rễ vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh con người, mà còn góp phần quan trọng củng cố “thế trận lòng dân” trong thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân vững chắc. Công tác đền ơn, đáp nghĩa, chính sách hậu phương trong Công an nhân dân Việt Nam luôn được chú trọng với nhiều hoạt động thiết thực, nghĩa tình, thể hiện sâu sắc sự tri ân.

Năm mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những bài học vô cùng quý báu trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Đó là bài học về tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; bài học về hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mọi chủ trương, biện pháp công tác an ninh, trật tự đều phải xuất phát từ nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; bài học về không ngừng củng cố đoàn kết - đoàn kết trong các cấp ủy đảng, trong toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; đoàn kết giữa lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, với các cơ quan, ban, ngành hữu quan; tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng vì hòa bình, ổn định và cùng phát triển; bài học về chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Công an nhân dân Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”, gắn bó mật thiết với nhân dân, trọng dân, lễ phép với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, lấy niềm vui của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình.

Hiện nay, toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2025 - 2030 theo Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 16-6-2024, của Bộ Chính trị khóa XIII trong bối cảnh các yếu tố bên trong, bên ngoài, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp, gia tăng thách thức, áp lực đối với công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; chúng ráo riết triển khai nhiều âm mưu, hoạt động hết sức thâm độc, trực diện, không từ thủ đoạn nào hòng thúc đẩy các yếu tố suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa”, gây chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân.

Bối cảnh tình hình trên đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết, luôn phải thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang; kiên quyết, kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo chức năng, nhiệm vụ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thấm nhuần phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tận dụng tối đa thời cơ, đẩy lùi mọi nguy cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Đảng, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời vì nước, vì dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là biểu tượng, tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Di chúc của Người, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Người, đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không nề gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn đấu, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng mà Người đã trọn đời cống hiến, hy sinh. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam nguyện hết lòng, hết sức thực hiện di huấn của Người, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

------------------------------

VẤN ĐỀ XÃ HỘI QUAN TÂM: KIẾN THỨC VÀ NHẬN THỨC TRÊN VÒNG NGUYỆT QUẾ!

     Những ngày vừa qua, cả đất nước rực rỡ cờ hoa, nô nức kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh 02/9. Mọi người dân, trong đó có rất nhiều bạn trẻ với tình cảm, ý chí và khát vọng của mình đã bằng nhiều cách khác nhau thể hiện tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc và niềm biết ơn sâu sắc với sự hy sinh của các thế hệ đi trước, niềm tự hào với thành quả cách mạng của dân tộc. Rất đáng tiếc, trong thời điểm này, một nam sinh từng giành được vòng nguyệt quế cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia đã có những phát ngôn thể hiện quan điểm lệch lạc trên mạng xã hội!

Nam sinh QV (Yên Bái) là người từng nhận được vòng nguyệt quế chiến thắng tại vòng thi tháng 11/2023 của cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia, một cuộc thi được đông đảo học sinh THPT và dư luận quan tâm. Việc một thí sinh tại tỉnh miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn đăng quang tại cuộc thi tháng, đã có ý nghĩa động viên rất lớn với các thế hệ học sinh phổ thông không chỉ tại địa phương quê hương em, mà còn lan toả tinh thần học tập, nỗ lực khám phá chân trời tri thức của học sinh nhiều vùng miền trên cả nước. Tuy nhiên, ngày 01/9/2024, trên FB cá nhân của mình, nam sinh này lại có những dòng trạng thái “gây shock”, trong đó khẳng định lý do quyết tâm thi Olympia là để “được sống ở nước ngoài”, “tìm mọi cách để sau này được sống ở nước ngoài”, “muốn rời Việt Nam”, thậm chí không ngần ngại nói xấu Đảng.
Những dòng trạng thái của nam sinh QV như trên chỉ là một ý kiến lạc lõng, thể hiện sự non kém về nhận thức và sự vị kỷ cá nhân. Dù có viết rằng “quê hương của tôi mãi mãi là Việt Nam”, nhưng khi phủ nhận vai trò của Đảng thì nam sinh này đã thể hiện sự lệch lạch trong nhận thức. Lịch sử dân tộc đã chứng minh: Để có được đất nước độc lập, tự do ngày nay, để có được ấm no hạnh phúc cho mọi con dân nước Việt, không thể phủ nhận vai trò dẫn đường và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng bao xương máu của các thế hệ cha anh. Các ý kiến của cộng đồng mạng đã tập trung nhắc nhở nam sinh về chữ “Đức” và “Tài”, trong đó Biết ơn là một biểu hiện của nhân cách con người. Trong trường hợp này, sự phản ứng của cộng đồng mạng cho thấy những giá trị đạo đức, đạo lý làm người luôn được tôn vinh.
Sau khi nhận sự lên án, chỉ trích từ cộng đồng, và được cơ quan chức năng cũng như nhà trường nhắc nhở, nam sinh QV đã viết một trạng thái mới với nội dung xin lỗi về những phát ngôn bừa bãi và nông cạn của mình. Trước sự phẫn nộ của cộng đồng mạng, nam sinh này cũng đã đóng trang cá nhân. Mặc dù vậy, trên các diễn đàn, vẫn rất nhiều ý kiến bày tỏ sự bất bình và thất vọng về nhận thức của một bạn trẻ từng đã đăng quang vòng nguyệt quế của một chương trình trò chơi truyền hình nổi tiếng về kiến thức dành cho học sinh THPT. Dù chưa có ý kiến cuối cùng của chủ thể chương trình trò chơi truyền hình đã từng tôn vinh nam sinh này, nhưng đây đã là một bài học đắt giá cho không chỉ những người trẻ tuổi.
Câu chuyện về phát ngôn lệch lạc của nam sinh từng nhận vòng nguyệt quế đang dần đi tới hồi kết. Dư luận nghiêm khắc, nhưng cũng đủ vị tha để những người trẻ có cơ hội tu dưỡng, sửa chữa các sai lầm và học hỏi để trở thành công dân có ích. Đây cũng là bài học dành cho các cá nhân và đơn vị làm công tác “trồng người”: Song song với nỗ lực bồi dưỡng kiến thức cho thể hệ trẻ, phải không ngừng giáo dục về nhận thức để hoàn thiện nhân cách cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Con người chỉ có thể trưởng thành khi có trọn vẹn cả “Đức”, và “Tài”, giống như vòng nguyệt quế sẽ chỉ toả sáng khi cả nhánh kiến thức và nhận thức cùng xanh tốt./.

Yêu nước ST.

Cảnh báo tân sinh viên các ‘trò’ lừa đảo thu học phí.

 

 Lợi dụng thời điểm các sinh viên vừa trúng tuyển đang làm thủ tục nhập học, một số đối tượng đã giả mạo là đầu mối của một số trường đại học tại TPHCM, để lừa chuyển tiền học phí, lệ phí nhập học.

 Lừa đảo tuyển dụng ngành hàng không

Mới đây, nhiều nhân viên quầy thông tin sân bay quốc tế Nội Bài cho biết, họ nhận được nhiều cuộc gọi, email hỏi về các nội dung tuyển dụng của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, của sân bay... đăng trên các nền tảng website và mạng xã hội Facebook.

Các đối tượng lừa đảo đã tạo lập trang mạng xã hội, mạo danh thông tin tuyển dụng, sử dụng tên, logo, địa chỉ website, hình ảnh của doanh nghiệp, tổ chức tạo lập Fanpage giả mạo, sao chép lại các bài viết, hình ảnh đã được đăng tải công khai trên website chính thống hoặc các báo điện tử nhằm tạo sự quen mắt, khiến nhiều người bỏ qua việc kiểm chứng, xác thực thông tin, làm theo lời dẫn dụ của các đối tượng lừa đảo và có thể trở thành nạn nhân của chiêu trò "lừa đảo tuyển dụng". 

Bộ TT&TT khuyến cáo người lao động cần truy cập trang web chính thức của công ty hoặc liên hệ trực tiếp với phòng nhân sự qua thông tin liên lạc công khai để xác nhận tính hợp lệ của thông tin tuyển dụng.

Tuyệt đối không dựa vào thông tin từ email hoặc tin nhắn không rõ nguồn gốc. Sử dụng các dịch vụ tra cứu doanh nghiệp hoặc cơ quan đăng ký doanh nghiệp để xác minh thông tin về công ty. Không cung cấp thông tin cá nhân nhạy cảm; không truy cập vào đường dẫn lạ hoặc tải về những ứng dụng, tệp tin không rõ nguồn gốc.Công an tỉnh Quảng Ninh vừa tiếp nhận thông tin về một vụ lừa đảo tinh vi. Nạn nhân trú tại phường Bãi Cháy, TP Hạ Long, làm nghề shipper. Nạn nhân khai báo có nhận được yêu cầu từ một khách hàng lạ mặt nhờ mua giúp một thùng rượu vang tại một cửa hàng trên địa bàn phường Bãi Cháy. Khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin chi tiết về loại rượu và hứa sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền, kèm một khoản hoa hồng 200.000 đồng.

Nạn nhân đã đến cửa hàng và mua thùng rượu với giá 5 triệu đồng, sau đó mang thùng rượu đến địa điểm giao hàng theo chỉ dẫn, nhưng khi đến nơi không thể liên lạc được với khách hàng.

Đối tượng lừa đảo hình thức trên thường tạo ra đơn hàng giả và yêu cầu shipper giao hàng đến địa chỉ không có thật hoặc không tồn tại. Bên cạnh đó, đối tượng thường xuyên yêu cầu shipper phải thanh toán một khoản tiền trước khi nhận đơn hàng hoặc yêu cầu thanh toán tiền mặt từ khách hàng khi không có lý do rõ ràng.

Để tạo lòng tin, đối tượng còn cung cấp thông tin cá nhân giả mạo và hứa sẽ thanh toán thêm tiền hoa hồng với nhân viên giao hàng. Sau khi nạn nhân đồng ý và thực hiện theo yêu cầu, nạn nhân giao đến địa chỉ được đối tượng cung cấp nhưng lại bị chặn liên lạc và chiếm đoạt tài sản. 

Bộ TT&TT khuyến cáo người dùng, đặc biệt là nhân viên giao hàng cần xác minh đơn hàng và địa chỉ giao hàng thông qua các kênh chính thức của hệ thống quản lý đơn hàng. Tuyệt đối không thực hiện giao hàng nếu có nghi ngờ về tính xác thực của đơn hàng. Chỉ thanh toán tiền và nhận tiền từ các nguồn tin cậy và theo quy trình chính thức của công ty hoặc nền tảng giao hàng. Không chia sẻ thông tin cá nhân hoặc tài chính với những người không xác định hoặc qua các phương tiện không an toàn.

Việt Nam với những thành tựu không thể phủ nhận về quyền con người

 


Thành quả đạt được về mục tiêu phấn đấu về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Việt Nam trong thời gian qua được cộng đồng quốc tế, đông đảo các tầng lớp nhân dân công nhận, ủng hộ là những giá trị, kết quả không thể phủ nhận.

Những nỗ lực vì quyền con người

Kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, có thể khẳng định rằng, nhân dân Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục được hưởng thụ ngày càng đầy đủ quyền con người. Ngay trong Hiến pháp của nước ta, bắt đầu từ Hiến pháp 1946 và tiếp tục ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, rõ ràng hơn, đầy đủ hơn tại các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và nhất là tại Hiến pháp 2013 thì nỗ lực xây dựng, triển khai các chính sách để bảo vệ, thúc đẩy quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và sự quyết tâm, thực thi đó đã đạt được các kết quả nổi bật, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Thực tế có thể chỉ ra hàng loạt những điều cốt lõi và cơ bản về quyền con người được Việt Nam thực thi một cách đầy đủ. Hằng năm, nhân dịp Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước đều ký Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn cho những phạm nhân có quá trình cải tạo tốt. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo và được khẳng định tại các bản Hiến pháp.

Ở Việt Nam, quyền dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin của người dân ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Internet và mạng xã hội ở Việt Nam đang đứng top đầu thế giới với 150 triệu kết nối mobile; khoảng 70 triệu người dùng internet; 58 triệu tài khoản sử dụng Facebook. Hạ tầng 3G/4G đã phủ sóng 99,8% dân cư và Internet cáp quang đã tới 98% số phường, xã biên giới, hải đảo.

Đặc biệt, hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người cũng được điều chỉnh và bổ sung liên tục để hướng tới những điều tốt đẹp nhất. Đơn cử như Bộ luật Lao động; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Luật Cư trú; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính... liên quan đến quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các công ước quốc tế, nhất là Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948.

Trong sự phát triển về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... của đất nước trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật về quyền con người ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Theo đó, quyền con người, quyền công dân được thực thi khi nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ (quyền bầu cử, bãi nhiệm; quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan Nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước của công dân; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền tham gia xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền giám sát đối với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức; quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước...) theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với đó, việc thúc đẩy bình đẳng giới đã khiến quyền con người ở Việt Nam được thực hiện trọn vẹn hơn. Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Bên cạnh đó, những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực đảm bảo các quyền trẻ em cũng được thực hiện một cách đầy đủ theo luật pháp Việt Nam và các công ước quốc tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người, trong đó có quyền phụ nữ, trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo an sinh xã hội như bảo hiểm y tế, bình đẳng xã hội, chính sách giáo dục, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh môi trường, an ninh con người...

Sự khẳng định của cộng đồng quốc tế

Không chỉ ở trong nước, những thành tựu Việt Nam đạt được trong xây dựng hệ thống pháp luật, triển khai thực thi quyền con người; tham gia ký các công ước quốc tế, điều ước quốc tế về quyền con người và cam kết thực hiện, coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước. Việt Nam cũng luôn tham gia tích cực, chủ động và trách nhiệm tại các diễn đàn đa phương quốc tế về quyền con người.

Bác sĩ, Thiếu tá Lê Anh Đức, quân y Đồn Biên phòng Tri Lễ, BĐBP Nghệ An khám bệnh cho nhân dân biên giới. Ảnh: Viết Lam

Tình hình nhân quyền tại Việt Nam đang được thế giới nhìn nhận ngày một khách quan hơn, bất chấp nhiều luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chống phá. Đánh giá mới nhất về Việt Nam của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã nêu, “Việt Nam là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc, đã có nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Mối quan hệ tốt đẹp này cần được tăng cường hơn nữa trong thời gian tới để thúc đẩy hòa bình, sự phát triển bền vững và quyền con người trên thế giới”. Thế giới đã và đang có cái nhìn thân thiện hơn về Việt Nam trong vấn đề nhân quyền, đặc biệt trước sự nỗ lực về xóa đói giảm nghèo cho người dân. Tình trạng nghèo cùng cực tại Việt Nam đã giảm từ tỷ lệ cao nhất khoảng 40% ở những năm 1990 xuống dưới 5% vào năm 2020. Đó chính là nỗ lực tạo nên sự thay đổi phi thường.

Thực tế cho thấy rằng, ở bất cứ quốc gia nào, thể chế chính trị nào mà đời sống vật chất, tinh thần người dân ngày càng được nâng cao và quyền con người, quyền công dân ngày càng được bảo đảm, thì nơi đó là hạnh phúc. Rất nhiều năm, từ năm 2016 tới nay, nhiều tổ chức quốc tế luôn đánh giá, khẳng định rằng, Việt Nam là một trong số ít quốc gia hạnh phúc. Năm 2016, tổ chức chuyên nghiên cứu kinh tế, xã hội New Economics Foundation của Anh công bố 10 quốc gia đứng đầu danh sách Chỉ số hành tinh hạnh phúc (HPI), trong đó, Việt Nam đứng thứ 5 trên bảng xếp hạng.

Đến năm 2021, tổ chức này tiếp tục xếp Việt Nam đứng đầu châu Á và đứng thứ 5 thế giới trong bảng xếp hạng Chỉ số hành tinh hạnh phúc. Theo Liên hợp quốc, Chỉ số phát triển con người (HDI) ở Việt Nam liên tục tăng theo các năm và hiện lọt vào nhóm phát triển con người cao, xếp thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Việt Nam xứng đáng khi đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc lần thứ hai, nhiệm kỳ 2023-2025. Đây là sự thật đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam vẫn luôn tồn tại và không thể phủ nhận. Việt Nam nhận thức sâu sắc quyền con người là giá trị chung của các quốc gia, dân tộc và giá trị đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận và lá phiếu của mỗi quốc gia bầu chọn Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là một trong những minh chứng rõ ràng nhất.

Hành trình “Tôi yêu Tổ quốc tôi” tại biên giới Quảng Trị


Ngày 15/7, Đồn Biên phòng Hướng Phùng, BĐBP tỉnh Quảng Trị phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Chi nhánh tỉnh Thái Bình tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa trong Hành trình “Tôi yêu Tổ quốc tôi”.

Tại chương trình, các đơn vị đã phối hợp tổ chức chào cờ, hát quốc ca tại cột mốc biên giới 597; dâng hương, dâng hoa tại Đài tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ phân giới cắm mốc năm 1978 và các liệt sĩ hy sinh tại Đoàn kinh tế quốc phòng 337 năm 2020; tặng 2 suất quà gồm các nhu yếu phẩm cho cán bộ, chiến sĩ Đại đội 320, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Savanakhet và Trạm công an Bản Mày (Lào); trao tặng 50 bộ sách giáo khoa và 70 phần quà cho các cháu học sinh tại điểm trường Chênh Vênh (xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị); tổ chức cắt tóc miễn phí cho các cháu học sinh trên địa bàn xã Hướng Phùng...

Thiếu tá Nguyễn Văn Bằng, Chính trị viên phó Đồn Biên phòng Hướng Phùng cho biết, đây là hoạt động hết sức ý nghĩa của hai đơn vị, qua đó góp phần giáo dục lịch sử truyền thống, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ. Đồng thời, hoạt động đã góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia; thể hiện tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt giữa lực lượng vũ trang hai nước, hai dân tộc Việt Nam - Lào; giúp đỡ các cháu học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập.

Dịp này, đồng chí Nguyễn Mạnh Tường, Giám đốc Ngân hàng Agribank Chi nhánh tỉnh Thái Bình cùng đoàn cán bộ, nhân viên đơn vị đã tới thăm, trao tặng quà cho Đồn Biên phòng Hướng Phùng.

 


“Lũy tre biên thùy” ở biên giới Lai Châu

1.     

 Phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp góp tiền mua tre về trồng dọc theo đường biên giới và bàn giao cho nhân dân quản lý, phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống là cách làm của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Huổi Luông, BĐBP Lai Châu được chính quyền địa phương đánh giá cao. Phên dậu biên cương được “xây” bằng những cây tre thân thuộc với tinh thần đoàn kết gắn bó quân và dân nơi biên giới.

Mô hình “Lũy tre biên thùy” đã được triển khai thí điểm tại bản Hồ Thầu (xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). Đây là mô hình trồng tre Bát Độ dọc theo đường biên giới với chiều dài gần 3km. “Nhóm tác giả” của “Lũy tre biên thùy” là các cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Huổi Luông - những người luôn trăn trở với các dự án giúp dân phát triển kinh tế.

Nói về ý tưởng trồng tre,Trung tá Lê Văn Quyết, Đồn trưởng Đồn Biên phòng Huổi Luông cho biết: Dọc tuyến biên giới do Đồn Biên phòng Huổi Luông quản lý, địa hình hiểm trở, nhân dân sống thưa thớt, còn nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc, đồi cây tạp... Sau nhiều lần khảo sát và họp bàn kỹ lưỡng, Đồn Biên phòng Huổi Luông nhận thấy, giống tre Bát Độ lấy măng dễ thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết trên địa bàn huyện Phong Thổ. Chưa kể chi phí trồng, chăm sóc cây tre không cao, thời gian cây trưởng thành và cho thu hoạch măng khoảng 2 năm, mang lại giá trị kinh tế cho bà con trên địa bàn.

Đồn Biên phòng Huổi Luông phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phong Thổ, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Lai Châu, UBND xã Huổi Luông triển khai thí điểm mô hình trồng tre Bát Độ trên biên giới với tên gọi mô hình “Lũy tre biên thùy”. Tre Bát Độ cho năng suất măng cao, cây ít bị sâu bệnh, dễ trồng, phù hợp với các loại thổ nhưỡng, khí hậu. Đây là thực phẩm an toàn với người tiêu dùng, vì thế được bà con hào hứng đón nhận.

Sau khi trồng, tre được bàn giao lại cho các hộ dân tham gia ở bản Hồ Thầu, xã Huổi Luông chăm sóc, quản lý và khai thác để làm mô hình sinh kế cho người dân. Thực hiện mô hình này, Đồn Biên phòng Huổi Luông đã lựa chọn kỹ lưỡng chừng 3.600 cây tre để trồng thử nghiệm trên địa bàn. Tổng kinh phí triển khai mô hình là 90 triệu đồng.

Chia sẻ về mô hình này, Trung tá Lê Văn Quyết cho hay: "Những mầm tre được trồng dọc theo theo tuyến biên giới, tương lai sẽ “nở cành xanh ngọn” trở thành “phên dậu xanh” bền vững. Hình ảnh cây tre nơi biên giới Việt có ý nghĩa lớn về văn hóa, thể hiện hình ảnh thân thuộc, gắn liền với đời sống của mỗi người dân Việt Nam, đại diện cho tinh thần kiên cường, bất khuất, dẻo dai, đoàn kết gắn bó của dân tộc. Đặc biệt, cây tre cũng như ngoại giao Việt Nam, là sự kết hợp hài hòa giữa “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”.

Hơn nữa, việc trồng tre làm hàng rào biên giới "mềm" chi phí thấp hơn nhiều so với đầu tư xây dựng hệ thống hàng rào cứng nên vừa tạo nguồn sinh kế mới cho người dân địa phương, vừa góp phần phủ xanh đất trống, đồi trọc, chống xói mòn, bảo vệ nguồn nước sinh hoạt cho đồn Biên phòng và nhân dân xã Huổi Luông, bảo vệ môi trường sinh thái, chống biến đổi khí hậu. Đối với công tác quản lý, bảo vệ biên giới, việc trồng tre giúp nhân dân dễ nhận biết đường biên giới, tạo thuận lợi cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới".

Ngay từ khi đề xuất, mô hình “Lũy tre biên thùy” được cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương ủng hộ, nhất là bà con bản Hồ Thầu đồng lòng, hồ hởi vào cuộc. Người dân tin tưởng với sự chung tay, đồng hành của cán bộ, chiến sĩ Biên phòng thì nhất định mô hình sinh kế này sẽ thành công. Hàng tre được ươm trồng nhanh chóng, hình thành hàng rào "mềm" dọc đường biên. Hằng ngày, các hộ dân trong bản Hồ Thầu đều đặn lên nương rẫy, đến chăm sóc hàng tre được bộ đội giao, đồng thời trực tiếp tham gia bảo vệ đường biên, mốc giới.

"Trồng tre để phát triển kinh tế là một hướng đi mới, không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho người dân, mà còn góp phần đẩy mạnh phong trào "Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới" theo Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 9/1/2015 của Thủ tướng Chính phủ" - Ông Lê Văn Dung, Bí thư Đảng ủy xã Huổi Luông cho biết.

Với chăm sóc chu đáo, lũy tre Hồ Thầu đang co lớn từng ngày. Không bao lâu nữa, khu vực đồi trọc này sẽ được phủ màu xanh bạt ngàn. Tre Bát Độ có thể thu hoạch sau 2-3 năm trồng. Trung bình năm đầu tiên cho thu hoạch từ 11-23kg măng/bụi, đến năm thứ 6 cho 20-25kg măng/bụi, sang năm thứ 7-8 có thể cho 30-40kg măng/bụi...

Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của mô hình “Lũy tre biên thùy”, Đồn Biên phòng Huổi Luông tiếp tục nghiên cứu tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh; Huyện ủy, UBND huyện Phong Thổ mở rộng mô hình trên các đoạn biên giới thuộc huyện Phong Thổ và tuyến biên giới tỉnh Lai Châu để mô hình phát triển bền vững, thực sự trở thành “Lũy thép biên thùy” trên biên giới Lai Châu. 

Độc lập và đoàn kết

 Ngày 2-9-1945, từ Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

 

79 mùa thu qua, lời tuyên bố đanh thép ấy đã nhận được sự đồng lòng, ủng hộ rộng rãi từ nhân dân trong nước cho tới bạn bè, lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Trong thời chiến, đó là nguồn sức mạnh to lớn làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, thống nhất non sông, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong thời bình, đó là kim chỉ nam cho các cuộc đấu tranh chống mọi mưu đồ phá hoại, giữ vững thành quả cách mạng, đưa đất nước không ngừng phát triển, có cơ đồ, tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế ngày càng lớn. 

Trên hành trình đấu tranh giành và giữ tự do, độc lập, Việt Nam luôn nhận được sự đoàn kết, tương trợ vô cùng quý báu của bạn bè quốc tế. Sự đoàn kết, tương trợ ấy góp phần quan trọng vào mọi thành công của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam luôn thấm thía bài học: Độc lập nhưng không để bị cô lập, đơn độc, độc lập nhưng phải giữ vững và ngày càng mở rộng quan hệ bạn bè, đối tác trong cộng đồng quốc tế để cùng nhau đoàn kết xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển.