Thứ Ba, 16 tháng 8, 2022
CHUYỆN KỂ RẰNG ...TRƯỚC LÚC NGƯỜI RA ĐI...
Sửa đổi Luật Dầu khí: Bảo đảm quốc phòng, an ninh và lựa chọn được nhà thầu hợp lý
Dầu khí là tài nguyên quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng, vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh. Do đó, theo các chuyên gia, việc sửa đổi Luật Dầu khí phải vừa quan tâm đặc biệt tới những đặc điểm này của ngành dầu khí, vừa bảo đảm lựa chọn được nhà thầu hợp lý, tiếp tục đưa nguồn tài nguyên dầu khí vào phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Thiếu tướng Lê Tấn Tới, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội: Nghiên cứu, bổ sung thêm đánh giá tác động về quốc phòng, an ninh
Xác định là Luật Dầu khí (sửa đổi) có lĩnh vực liên quan rất nhiều đến chủ quyền quốc gia và quốc phòng, an ninh, do đó Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã nghiên cứu và góp ý với Ban soạn thảo và cơ quan thẩm tra.
Đến nay, tôi thấy, khi trình ra thì nhiều nội dung đã được tiếp thu, nhất là về các nguyên tắc có liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh như: Tiến hành điều tra cơ bản dầu khí, hoạt động dầu khí phải tuân thủ theo quy định về quốc phòng, an ninh; về chỉ định thầu; về gia hạn, tạm dừng hợp đồng; về nhà thầu…
Ngoài ra, dự thảo luật chỉ đề cập đến vấn đề thăm dò, khai thác dầu khí (thượng nguồn), chưa đề cập đến công nghiệp lọc, hóa dầu (trung, hạ nguồn); trong khi hoạt động khai thác dầu khí cũng nhằm mục đích phục vụ cho ngành lọc, hóa dầu trong nước.
Mặt khác, Nghị định 36 đã xác định lọc hóa dầu là hoạt động công nghiệp cần để phát triển; Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị cũng xác định rõ là phải tiếp tục thu hút đầu tư trong lĩnh vực lọc hóa dầu theo hướng chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm xăng dầu, chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước và xuất khẩu… Do đó, tôi đề nghị cân nhắc bổ sung vào phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật liên quan đến nội dung này.
Ngoài ra, về hoạt động lựa chọn nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, chuyển nhượng hợp đồng dầu khí; thẩm định, phê duyệt các chương trình, báo cáo kế hoạch tìm kiếm, khai thác dầu khí…, tôi đề nghị Ban soạn thảo, cơ quan thẩm tra nghiên cứu, bổ sung thêm đánh giá tác động về quốc phòng, an ninh để có thể bảo đảm quốc phòng, an ninh cũng như bảo đảm lựa chọn được nhà thầu hợp lý.
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội: Đa dạng hóa các biện pháp ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực dầu khí
Luật Dầu khí có 3 điểm khác so với luật thông thường; đó là có tính rủi ro, tính quốc tế và tính đặc thù. Hoạt động dầu khí chịu rủi ro lớn, do tính chất, cấu tạo địa chất, các tích tụ dầu khí, nằm sâu dưới lòng đất, địa chất phức tạp, ngoài đại dương...
Thực tế cho thấy, khi khoan thăm dò dầu khí với nhiều mũi khoan trên biển thì may mắn có một vài mũi tìm thấy dầu; nhiều giếng dầu tìm thấy dầu thì cũng chỉ có vài ba giếng có giá trị thương mại cao. Do đó, thể chế, chính sách điều chỉnh hoạt động dầu khí cần phải được thiết kế tính đến rủi ro này nhằm thúc đẩy hoạt động dầu khí.
Như trong tờ trình của Chính phủ và đòi hỏi thực tiễn, tôi cho rằng, mục tiêu quan trọng nhất là nâng cao hiệu quả của hoạt động dầu khí ít nhất trong vòng 10 - 15 năm nữa. Luật Dầu khí (sửa đổi) cơ bản đã chế định nhằm hiện thực hóa mục tiêu này.
Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) đã bổ sung nhiều nội dung quan trọng như: Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hài hòa hóa các thủ tục hành chính theo một chuỗi hoạt động dầu khí từ thăm dò, khai thác, vận chuyển… từ ngoài biển đến xây dựng các công trình trên đất liền, nhằm làm cho dự án, hoạt động dầu khí được triển khai một cách có hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn về chi phí hành chính, giảm chi phí thời gian.
Cùng với đó, các quy định được sửa đổi, bổ sung cũng nhằm mục đích tăng cường thu hút đầu tư, để có những dự án đầu tư mới trong lĩnh vực dầu khí cũng như nâng cao hiệu quả của các hoạt động dầu khí đã và đang triển khai, bổ sung các quy định hợp lý về khai thác tận thu mỏ, điều tra cơ bản về dầu khí...
Đặc biệt, chính sách ưu đãi đầu tư cho dầu khí được tiếp cận đa chiều, không chỉ là ưu đãi tài chính trực tiếp mà cải thiện chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí hấp dẫn, hiệu quả, giảm chi phí hơn cho nhà đầu tư…
Theo tôi, cần tiếp tục nghiên cứu để đa dạng hóa các biện pháp ưu đãi đầu tư (ưu đãi đặc biệt) thay vì chỉ đơn thuần là ưu đãi về cắt giảm thuế suất chung như thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ đó, chúng ta có thể đa dạng hóa những chính sách thu hút đầu tư và nâng cao tính cạnh tranh của cơ chế thu hút đầu tư nhằm đạt được mục tiêu thu hút đầu tư có chọn lọc và nâng cao chất lượng đầu tư trong lĩnh vực dầu khí.
Đại biểu Quốc hội Tạ Đình Thi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
Quan tâm bổ sung hoạt động chế biến để tạo ra các sản phẩm hóa dầu giá trị cao
Để có được khung pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất và khả thi, thúc đẩy và phát triển hoạt động dầu khí, tôi thấy rằng cần nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đánh giá kỹ lưỡng tác động và dự báo tốt bối cảnh tình hình khu vực và thế giới, nhất là tình hình Biển Đông, cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine, cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 với mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050...
Cùng với đó, tiếp tục rà soát các nội dung liên quan đến các bộ luật, luật khác; thể hiện đầy đủ và toàn diện các yêu cầu đề ra trong Nghị quyết số 36, cụ thể là nâng cao năng lực của ngành dầu khí và các ngành tài nguyên, khoáng sản biển khác, từng bước làm chủ công nghệ tìm kiếm, thăm dò, khai thác, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong thời kỳ mới; đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí.
Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra nhanh chóng, cần hỗ trợ để tài nguyên dầu khí được khai thác kịp thời và đưa vào sử dụng, bảo đảm giá trị vốn có, làm nguyên liệu và nhiên liệu. Quản lý các hoạt động dầu khí theo thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế và tuân thủ các quy định của Nhà nước nhưng phải bảo đảm tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư.
Điều cần đặc biệt quan tâm là hoạt động dầu khí cần gắn liền với khẳng định chủ quyền biển đảo và bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
Mặt khác, ngoài việc điều chỉnh hoạt động điều tra cơ bản tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và các hoạt động liên quan, dự thảo luật cần quan tâm bổ sung hoạt động chế biến để tạo ra các sản phẩm hóa dầu với giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, công tác điều tra cơ bản dầu khí cần đầu tư nguồn lực rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn chế, vì vậy đề nghị bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào công tác điều tra cơ bản dầu khí cũng như các hoạt động dầu khí khác. Nhất là ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam...
NGƯỜI VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ CHẤP NHẬN XÂY LĂNG TẨM CHO BẢO ĐẠI!
Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới
Đảng ta xác định: Bảo vệ chính trị nội bộ chính là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Bảo vệ chính trị nội bộ luôn là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cần kíp, cấp bách hiện nay, bởi vì: (1) Bảo vệ chính trị nội bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đều đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ cho phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng; phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. (2) Thực hiện nghiêm chế độ, thủ tục, quy định, quy chế quản lý cán bộ, đảng viên trong nội bộ, giữ gìn kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ của Đảng. Đảng ta coi đây là khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc tổ chức triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. (3) Nghiên cứu, phát hiện và xử lý kịp thời những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, những đối tượng bị các tổ chức phản động móc nối, lôi kéo, mua chuộc cài cắm vào nội bộ ta. Không để sơ hở, lộ lọt, mất thông tin, bí mật quốc gia để các thế lực thù địch lợi dụng viết bài, tung tin xấu, độc, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. (4) Mấu chốt của bảo vệ chính trị nội bộ là nắm chắc tình hình chính trị nội bộ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và tổ chức đảng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề vướng mắc, thực hiện tốt chủ trương lấy phòng ngừa, chủ động giữ vững bên trong là chính. Đại hội XIII của Đảng đã xác định bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là “làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”. Đồng thời, xác định “tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng nắm vấn đề chính trị hiện nay. Chủ động đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, nhất là các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, những cán bộ, đảng viên, những người lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ”.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định: Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; các biện pháp bảo vệ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động của Đảng, Nhà nước và quân đội. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội ta tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.
Phương châm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là chủ động phòng ngừa là chính, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm những vi phạm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; thận trọng đánh giá, khách quan khi giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Trong xem xét lịch sử chính trị với những vấn đề chính trị hiện nay, thì xem xét vấn đề chính trị hiện nay là chính; giữa bản thân với quan hệ gia đình thì bản thân là chính; giữa quản lý đầu vào với xử lý đầu ra thì quản lý đầu vào là chính; giữa xử lý với sử dụng thì sử dụng là chính. Qua đó, giải đáp được các câu hỏi: Hiện tại người cán bộ, đảng viên như thế nào, có đủ tiêu chí, tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ, có đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới hay không?.
Trong thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương, Quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc tình hình, rà soát, thẩm tra vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay nên công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đề bạt cán bộ, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác nhân sự. Kết quả nổi bật của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là đã góp phần quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội cũng như củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội; cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải tiếp tục giải quyết tốt hơn, nhất là khắc phục sự bị động, lúng túng trong rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị của các đối tượng; nắm và quản lý tình hình chính trị nội bộ sâu sát, kịp thời hơn. Thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân cần nghiêm túc hơn, không để xảy ra sơ hở, mất cảnh giác, kể cả ở cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu, cơ mật. Cùng với đó, phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên, chặt chẽ hơn.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Vì vậy, cần nghiên cứu, thực hiện các yêu cầu để góp phần: (1) Hạn chế đến mức thấp nhất những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình thế giới, khu vực đến tâm lý, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và một số tác động tiêu cực đến tình hình chính trị nội bộ. (2) Giải quyết kịp thời những vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ. (3) Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm các tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố và nâng cao uy tín; xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Ba là, chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội; thực hiện nghiêm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28-2-2018 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về quy định những điều đảng viên không được làm. Thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.
Năm là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh ở các cấp. Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, đảng viên được bổ nhiệm, đề bạt, cử đi học, ra nước ngoài. Đồng thời, xem xét kỹ lưỡng về mặt chính trị, nhất là việc nhận xét, đánh giá bảo đảm của cơ quan bảo vệ an ninh theo phân cấp.
Bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vị tướng tài năng, đức độ, trung hiếu, vẹn toàn
Nói về Đại tướng Nguyễn Quyết, cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu từng đánh giá: “Là người được Đảng giao nhiệm vụ làm công tác Đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội, trải qua rất nhiều chiến trường, nhiều cương vị công tác từ chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, Quân khu 5, Quân khu Tả Ngạn, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước... ở cương vị nào, trong hoàn cảnh nào, đồng chí Nguyễn Quyết cũng tỏ ra thích ứng nhanh, năng động, sáng tạo... Nói về Đại tướng Nguyễn Quyết, tôi thấy không có gì đầy đủ bằng 8 chữ, đó là: Một vị tướng “tài năng, đức độ, trung hiếu, vẹn toàn”.
Nhận xét đó được minh chứng rõ nét trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Nguyễn Quyết.
Tháng 8-1945, khi nghe tin Nhật đầu hàng đồng minh, mặc dù chưa nhận được Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, nhưng căn cứ vào Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12-3-1945 và quyết định khởi nghĩa của Xứ ủy Bắc Kỳ, trên cơ sở nắm vững tình hình ta và thái độ của địch, với trách nhiệm là Bí thư Thành ủy Hà Nội kiêm phụ trách quân sự, đồng chí Nguyễn Quyết đã triệu tập Hội nghị Thành ủy mở rộng quyết định chớp lấy thời cơ, dùng phương thức nổi dậy bằng lực lượng chính trị của quần chúng có lực lượng tự vệ làm nòng cốt, giành chính quyền thắng lợi trọn vẹn.
Đây là một quyết định rất sáng tạo, rất kiên quyết và rất kịp thời với tinh thần tự lực cao “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” giành thắng lợi quan trọng ở một vị trí chiến lược, trung tâm đầu não của kẻ thù. Đây cũng là cống hiến rất lớn của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội cả về ý nghĩa thực tiễn và lý luận, cung cấp cho Trung ương một phương thức mới, rất độc đáo, không theo khuôn mẫu nào, để lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi trong toàn quốc, trong tình hình thế và lực của địch đã thay đổi.
Riêng với đồng chí Nguyễn Quyết, thời điểm ấy, chỉ với 23 tuổi đời, 5 năm tuổi Đảng, đây là một dấu ấn sâu sắc nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí về tinh thần chủ động sáng tạo, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm với Đảng, với dân trước thời cơ có một không hai trong lịch sử.
Ở Liên khu 5, nơi đồng chí Nguyễn Quyết tham gia lãnh đạo trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, “nổi tiếng” về tinh thần tự lực tự cường trong kinh tế tự túc, giải quyết hậu cần tại chỗ, sớm xây dựng LLVT 3 thứ quân, giữ vững vùng tự do rộng lớn từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến. Đánh mạnh ở vùng tạm bị chiếm, tự giải quyết chiến trường, phối hợp đắc lực với chiến trường chính Điện Biên Phủ.
Quảng Nam-Đà Nẵng, chiến trường chính của Liên khu 5, nơi đồng chí Nguyễn Quyết được phân công phụ trách từ đầu cuộc kháng chiến toàn quốc đến năm 1950. Đồng chí đã cùng quân và dân nơi đây chặn đứng quân địch ngay từ khi chúng tấn công ồ ạt, giữ vững vùng tự do, phá tan âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh, chia cắt chiến lược miền Nam Đông Dương đến vĩ tuyến 16.
Tháng 4-1968, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng chí Nguyễn Quyết và đồng chí Cao Văn Khánh được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ đưa Sư đoàn 308 vào Mặt trận Trị-Thiên để cùng lực lượng tại chỗ mở cuộc tiến công đợt 2, giành thắng lợi quyết định. Phán đoán được tình hình, đồng chí Nguyễn Quyết bàn với đồng chí Cao Văn Khánh tạm ở lại miền Bắc, ông vào trước chuẩn bị, đưa quân vào sau. Khi đồng chí Nguyễn Quyết vào tới nơi, tình hình đã thay đổi, khác hẳn so với trước. Địch phản công quyết liệt, quân ta bị thương vong nhiều. Nhận thấy thời cơ không còn nữa, cần phải có thời gian để chuẩn bị tiếp, mặc dù còn nhiều ý kiến không nhất trí, nhưng đồng chí Nguyễn Quyết vẫn báo cáo xin phép Quân ủy Trung ương không đưa Sư đoàn 308 vào. Ý kiến của ông được Quân ủy Trung ương chấp nhận. Đây là một quyết định đúng đắn, không tả khuynh mạo hiểm, tránh hy sinh lực lượng không cần thiết.
Gần 30 năm xây dựng và chiến đấu ở địa bàn Quân khu 3, trong khi còn có ý kiến hoài nghi về khả năng chi viện lớn cho các chiến trường, cho rằng Quân khu 3 không đủ sức xây dựng những binh đoàn chủ lực đánh lớn ở miền Nam, hoài nghi về khả năng và vai trò của dân quân tự vệ trong đánh máy bay và tàu chiến Mỹ. Nhận rõ khả năng mới, chất lượng mới, đồng chí Nguyễn Quyết đã cùng Quân khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu và các địa phương có những biện pháp sáng tạo, đi sâu cơ sở, phát động quần chúng giải quyết vấn đề “thấp, bé, nhẹ cân” thực hiện công bằng, dân chủ trong tuyển quân, xây dựng phân đội dự bị, “bộ đội làng” chuẩn bị sẵn sàng chi viện ngay từ cơ sở. Những sư đoàn, trung đoàn của Quân khu 3 vào chiến trường đều đánh giỏi, lập công xuất sắc, nhiều đơn vị được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân.
Một lần nữa, dù chưa nhận được chỉ thị của cấp trên, nhưng do nắm vững tình hình, trong cuộc chiến chống lại chiến dịch dùng B-52 của đế quốc Mỹ đánh phá Hà Nội và Hải Phòng, ông đã chủ động cùng Thành ủy, UBND TP Hải Phòng sơ tán hơn 1,7 triệu dân, trước khi B-52 đánh vào thành phố cảng, tháng 12-1972.
Năm 1973, sau khi đế quốc Mỹ thất bại liên tiếp, buộc phải ký Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và đồng minh về nước, có ý kiến cấp trên cho rằng, để giải quyết vấn đề miền Nam bằng hòa bình, không cần tuyển quân chi viện nữa. Từ kinh nghiệm của việc thi hành Hiệp định Geneva, nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của địch, đồng chí Nguyễn Quyết vẫn chủ trương tiếp tục chuẩn bị tuyển quân và thực tế sau đó Quân khu 3 vẫn phải tiếp tục chi viện lớn và khẩn trương hơn cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ, khi mà hầu hết lực lượng chủ lực của Quân khu 3 đã được điều vào chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế, ông chủ trương xây dựng nhiều đơn vị dân quân, tự vệ mạnh (do dân nuôi), được binh chủng hóa, cơ động phối hợp chiến đấu và sẵn sàng thay thế chủ lực bắn máy bay và tàu chiến Mỹ. Ông nhận thức sâu sắc rằng, số máy bay và tàu chiến Mỹ do dân quân tự vệ bắn rơi, bắn chìm không lớn nhưng điều quan trọng có tính quyết định là làm cho địch bị bế tắc về chiến lược, tạo điều kiện cho chủ lực ta đánh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ.
Với chiều sâu tư duy sắc sảo, táo bạo và nhạy bén, có tầm nhìn xa trông rộng, đồng chí Nguyễn Quyết đã có những phát hiện đi trước thời gian. Ở mỗi giai đoạn của cách mạng, nhận rõ tình hình và đặc điểm của đất nước, tính chất và khả năng của quân đội cách mạng, đồng chí Nguyễn Quyết luôn luôn quán triệt thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của Đảng và 3 chức năng của quân đội. Trong chiến tranh, quân đội phải chiến đấu để bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh; trong thời bình, quân đội phải vừa bảo vệ vừa xây dựng đất nước.
Từ khởi xướng Phong trào “Ra quân, ra của, ra chiến thắng” trong kháng chiến chống Mỹ, sau khi thực hiện được khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đất nước lại đứng trước trạng thái vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh. Trước muôn vàn khó khăn của đất nước, của quân đội, ông lại khởi xướng Phong trào “Làm giàu, đánh thắng” trong LLVT và nhân dân trên địa bàn Quân khu 3. Vừa sẵn sàng chiến đấu, chi viện hết lòng cho phía trước, vừa đưa bộ đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, nhằm tháo gỡ khó khăn cho quân đội, cũng là góp phần tháo gỡ khó khăn chung của đất nước. Phong trào này đã đi vào lòng người, không những được LLVT quân khu hưởng ứng mà còn được đảng bộ và đông đảo nhân dân đồng tình thực hiện.
Khi phát động Phong trào “Vươn ra Biển Đông làm giàu, đánh thắng”, mặc dù còn nhiều ý kiến chưa nhất trí, thậm chí phản bác, cho là trái với đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng chí đã coi kinh tế gia đình không phải là “kinh tế phụ” mà là một thành phần kinh tế có vị trí chiến lược. Đây là cách nhìn rất thực tiễn, rất phù hợp với nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ, rất phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và đồng chí Nguyễn Quyết đã cùng với các tỉnh, thành ủy trong Quân khu 3 động viên toàn dân làm kinh tế gia đình, góp phần quan trọng giải quyết đời sống cho nhân dân từ thiếu đói đi lên đủ ăn, có dự trữ, có đóng góp.
Từ giữa năm 1979, sau cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, căn cứ vào tình hình trong nước và xu thế của thế giới, đồng chí Nguyễn Quyết khẳng định là chưa có khả năng xảy ra chiến tranh quy mô lớn. Vì vậy, trong hoàn cảnh khó khăn gay gắt của đất nước, với vị trí và đặc điểm của Quân khu 3, đồng chí cùng Quân khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu quyết định “không ôm súng ngồi” mà đồng thời làm hai nhiệm vụ trung tâm: Vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện, đồng thời tranh thủ hòa bình, đưa bộ đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, tiếp tục đưa Phong trào “Làm giàu, đánh thắng” lên bước cao hơn.
Sau các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, trước muôn vàn khó khăn, chủ trương “Làm giàu, đánh thắng” đã góp phần giải quyết khủng hoảng. Qua đó đã phát hiện ra những nhân tố mới, những xu thế mới. Đây là những sáng tạo lớn, mở ra một con đường mới làm tiền đề cho những chủ trương, những cơ chế, chính sách mới của Đảng trong Đại hội lần thứ VI trên cả lĩnh vực kinh tế và quốc phòng.
Từ những kinh nghiệm trong những ngày đầu hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Quyết nhận biết vai trò cách mạng của quần chúng không chỉ trong vận động khởi nghĩa, trong chiến tranh mà cả trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí rất quan tâm xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ, xây dựng hậu phương, xác định rõ trong bất cứ thời kỳ nào, cơ sở đều có vị trí chiến lược.
Đi đôi với vận động nhân dân tham gia cách mạng, tổ chức cho bộ đội chiến đấu và chiến thắng, Đại tướng Nguyễn Quyết còn rất quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, đời sống của nhân dân, tạo điều kiện thực hiện chính sách nhất là đối với những người có công với cách mạng, những đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng khó khăn, nguy hiểm. Đồng chí chú ý lắng nghe và thường dễ xúc động trước những hy sinh, mất mát của đồng bào, đồng chí, của cán bộ, chiến sĩ.
Công tác chính sách cán bộ và hậu phương quân đội dưới sự chỉ đạo của đồng chí trong những năm làm Chính ủy, rồi Tư lệnh Quân khu 3 cũng như làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đã có những chuyển biến căn bản và tác dụng tích cực đến việc ổn định tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Chính nhờ việc thực hiện tốt các chính sách này, đặc biệt là chính sách nhà ở cho đội ngũ cán bộ, đi đôi với công tác tư tưởng, công tác tổ chức mà Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ Quốc phòng có thể thực hiện được kế hoạch tinh giản biên chế trong quân đội một cách tốt nhất, tạo được bầu không khí phấn chấn trong tuyển quân, xây dựng quân đội. Các cán bộ quân đội dù tiếp tục cống hiến cho quân đội hay chuyển ra ngoài quân đội, về hưu... đều góp phần hoàn thành nhiệm vụ. Đại tướng Nguyễn Quyết xứng đáng được cán bộ các cấp trong quân đội tặng cái tên trìu mến “vị tướng của cơ sở”, “vị tướng của chính sách”.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối, chiến lược của Đảng, có đạo đức cách mạng trong sáng, đồng chí Nguyễn Quyết rất coi trọng sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cơ quan, đảng bộ quân đội với các cơ quan đảng bộ địa phương thuộc địa bàn quân khu. Năm 1966, khi đồng chí Nguyễn Quyết là Chính ủy Quân khu 3, trong lần về thăm và làm việc với quân khu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, hỏi ông: “Làm thế nào mà anh có mối quan hệ mật thiết với các tỉnh và thành phố như vậy?”. Đồng chí Nguyễn Quyết đáp: “Tôi chẳng có biện pháp gì hơn là khiêm tốn học hỏi chân thành, cộng tác cùng nhau làm nhiệm vụ chung. Chúng tôi coi công việc của các địa phương là công việc của quân khu và ngược lại, các địa phương coi công việc của quân khu như việc của địa phương mình”.
Năm 1992, Đại tướng Nguyễn Quyết được Đảng, Nhà nước và quân đội cho thôi chức vụ ở tuổi 70, nhưng Đại tướng Nguyễn Quyết vẫn tích cực nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm hoạt động cách mạng, xây dựng LLVT giúp cho các thế hệ đi sau tiếp bước con đường cách mạng vinh quang của dân tộc.
Với những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho cách mạng và quân đội, Đại tướng Nguyễn Quyết đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng; Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương, huy hiệu và danh hiệu cao quý khác.
Đến nay, Đại tướng Nguyễn Quyết đã tròn 100 tuổi đời, 82 năm tuổi Đảng, trải qua quá trình thực tiễn hoạt động cách mạng đầy sôi động đã khẳng định: Đồng chí là một người cán bộ, đảng viên, nhất là trên cương vị chủ trì cơ quan hay đơn vị, luôn tiên phong, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, luôn đặt lợi ích chung của Đảng, dân tộc và quân đội lên trên hết, trước hết. Mặc dù có những thăng trầm, với muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng đồng chí luôn nêu cao ý chí chiến đấu, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và chấp hành pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Nguyễn Quyết là một sự nghiệp vẻ vang, một cuộc đời cách mạng trọn vẹn và trong sáng.
Nhân dịp sinh nhật lần thứ 100 của Đại tướng Nguyễn Quyết, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam hôm nay luôn mong đại tướng trường thọ, tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bộ đội Biên phòng kịp thời phá án, mang lại hạnh phúc cho nhân dân
Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Gia Lai vừa hoàn thành xuất sắc chuyên án GL622, đấu tranh, triệt phá đường dây buôn người trên địa bàn biên giới tỉnh Gia Lai. Qua đó, mang lại hạnh phúc cho nhân dân, trả lại sự bình yên cho các thôn làng, đưa những kẻ vi phạm pháp luật ra ánh sáng.
"Sập bẫy" việc nhẹ lương cao
Anh Ksor Gum (sinh năm 1999), ở làng Kloong, xã biên giới Ia O, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai đã về đoàn tụ với gia đình gần một tháng nay nhưng vẫn rùng mình mỗi khi nhắc đến những ngày trong “động quỷ” của bọn buôn người. Gia cảnh nghèo khó, bố mẹ đã già yếu nhưng vẫn phải tần tảo lo từng bữa ăn cho gia đình, nên khi có người rủ vào Tây Ninh làm việc nhẹ lương cao thì Ksor Gum không ngần ngại nhận lời ngay. Để tránh sự ngăn cản của gia đình, Ksor Gum cùng 6 thanh niên khác ở làng Kloong chia làm hai đợt lặng lẽ khăn gói vào miền Nam, rồi theo những chuyến xe nối tiếp sang biên giới Campuchia nhận việc. “Khi mới sang, cứ nghĩ công việc máy tính đơn giản, chúng em hồ hởi chụp ảnh lưu niệm, hôm sau họ giao việc mới biết đó là lừa đảo, không làm thì bị đánh đập dã man và bị bỏ đói”, Ksor Gum hãi hùng nhớ lại.
Cùng với cán bộ, chiến sĩ BĐBP tỉnh Gia Lai đến thăm gia đình anh Puih Đại, ở làng Kloong, một trong 7 nạn nhân "sập bẫy" việc nhẹ lương cao được các lực lượng chức năng hỗ trợ đưa về địa phương đầu tháng 7-2022, mới thấy hết thủ đoạn tinh vi của các đối tượng buôn người. Chúng đánh đúng vào điểm yếu của thanh niên dân tộc thiểu số như: Nhận thức còn hạn chế, thiếu việc làm, gia đình đang rất khó khăn, cần tiền để trang trải cuộc sống... Puih Đại kể: “Mình bị thằng Quyết (đối tượng Trần Quang Quyết) nó lừa. Khi nó nói đi sang Campuchia làm việc mình đã không đồng ý, bởi ở nhà còn có mẹ già và vợ đang mang thai. Sau nhiều lần thuyết phục không thành, nó lại nói không đi Campuchia thì đi Tây Ninh làm việc với mức lương từ 18 đến 20 triệu đồng. Lúc này mình nghĩ, nếu ở Tây Ninh thì về thăm nhà sẽ dễ hơn và việc làm cũng nhẹ nhàng mà lương lại cao nên đã đồng ý đi”.
Theo Puih Đại, sau khi sang Campuchia, các anh được hướng dẫn dùng máy tính tạo lập các tài khoản Zalo, Facebook để lừa đảo. Mỗi người phải làm việc từ sáng sớm đến tận khuya, nhiều hôm làm cả đêm. Khi thấy công việc bất chính, không phù hợp, mọi người xin nghỉ thì các đối tượng không những không cho mà còn đánh đập, chích điện, bỏ đói nhiều ngày và dọa giết. Sau đó, chúng bắt các nạn nhân gọi điện về nói với người nhà gửi tiền sang chuộc, ban đầu là 150 triệu đồng, về sau giảm dần xuống 100 triệu đồng và cuối cùng là 65 triệu đồng.
Theo ban chuyên án GL622, cả 7 nạn nhân gồm: Puih Đại (sinh năm 1998), Puih Môi (sinh năm 2004), Ksor Jối (sinh năm 2004), Puih Chiêu (sinh năm 2003), Ksor Gum (sinh năm 1999), Puih Thái (sinh năm 1994) và Puih Phú (sinh năm 2006) cùng trú tại làng Kloong đều bị lừa sang Campuchia với một kịch bản: Đi làm việc nhẹ lương cao ở TP Hồ Chí Minh và Tây Ninh nhưng khi vào đến nơi lại bị các đối tượng dụ dỗ vượt biên trái phép sang Campuchia. Tại sòng bạc ở Campuchia, các nạn nhân được yêu cầu ký hợp đồng lao động kèm điều khoản bồi thường tiền nếu vi phạm, sau đó giao công việc “đào” bitcoin trên máy tính cả ngày lẫn đêm hoặc gọi điện thoại về nước lừa đảo với mục đích ép các nạn nhân vi phạm hợp đồng, bắt người nhà gửi tiền sang chuộc. Nếu không chuộc sẽ bị đánh đập, bỏ đói và bán sang Trung Quốc.
Trả lại bình yên cho thôn làng
Xác định đây là vụ việc có yếu tố tội phạm mua bán người từ Việt Nam sang Campuchia với mục đích bóc lột, cưỡng bức lao động. Hành vi này cũng lần đầu tiên xuất hiện trên khu vực biên giới tỉnh Gia Lai với quy mô lớn và liên quan đến yếu tố nước ngoài. Vì vậy, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Gia Lai đã báo cáo với Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Gia Lai, Bộ tư lệnh BĐBP, Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm (BĐBP) xác lập chuyên án GL622; tổ chức lực lượng phối hợp với các cơ quan chức năng của Việt Nam và Campuchia đấu tranh, triệt phá đường dây buôn người, đưa 7 nạn nhân về đoàn tụ với gia đình.
Đại tá Trần Tiến Hải, Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh Gia Lai cho biết: Từ nhiều nguồn thông tin, ban chuyên án xác định được 7 thanh niên làng Kloong bị đối tượng tên là Trần Quang Quyết (sinh năm 2001), trú tại xã Ia Đal, huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum trực tiếp dụ dỗ và đưa sang Campuchia lao động. Qua đấu tranh, đối tượng Quyết khai nhận, thông qua mạng xã hội làm quen với một người ở làng Kloong tên là Cầm Mã Sáu. Thông qua Cầm Mã Sáu, Quyết đã dụ dỗ 7 thanh niên ở làng Kloong vào các tỉnh phía Nam làm việc rồi lừa bán sang Campuchia thu lợi bất chính 128 triệu đồng. Hiện Đồn Biên phòng Ia O (BĐBP tỉnh Gia Lai) đã ra quyết định khởi tố vụ án mua bán người đối với đối tượng Trần Quang Quyết và bàn giao cho cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Gia Lai tiếp tục điều tra làm rõ. Để có được thành công này, ngay từ khi xác lập chuyên án, Đảng ủy, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Gia Lai đã chỉ đạo ban chuyên án quán triệt quan điểm “bí mật, tập trung, thống nhất, nhanh chóng, kịp thời, điều tra sâu, xác minh kỹ, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm”; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng để phá án; tuyên truyền, động viên ổn định tư tưởng, tâm lý của nhân dân và kêu gọi mạnh thường quân hỗ trợ các nạn nhân.
Tìm hiểu thực tế, chúng tôi ghi nhận dư luận đánh giá cao sự vào cuộc kịp thời, chính xác, hiệu quả của BĐBP tỉnh Gia Lai để phá án, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Dù đang làm công việc gì, bà Ksor Sam cũng không rời mắt khỏi cậu con trai Ksor Gum. Những ngày con trai bị lừa sang Campuchia, bị đánh đập và đòi tiền chuộc, bà đã khóc cạn nước mắt. Rồi hạnh phúc vỡ òa khi con trai bà được BĐBP tỉnh Gia Lai hỗ trợ, giải cứu đưa về nhà. “Không có gì vui sướng hơn việc thằng Gum về nhà. Nó về thật rồi và tôi không cho nó đi đâu nữa. Cảm ơn BĐBP và các cơ quan chức năng đã đưa con trai tôi trở về an toàn, lành lặn”, bà Ksor Sam xúc động nói. Chị Puih Niêng, trú tại làng Kloong là chị gái nạn nhân Puih Đại, cũng không giấu được niềm vui, những ngày qua, chị nấu cho em trai nhiều món ăn ngon để bồi bổ sức khỏe. Chị Puih Niêng nhớ đêm 22-6-2022, Puih Đại gọi điện về khóc thảm thiết và nói không có tiền chuộc thì em chết mất, từ đó cả nhà chị không ai ăn, ngủ được, sợ Puih Đại lành ít dữ nhiều. Giờ thì em trai chị đã được BĐBP đưa về nhà, mọi người trong gia đình mừng khôn xiết.
Theo đồng chí Siu Nghiệp, Chủ tịch UBND xã Ia O, qua vụ việc, không chỉ người dân mà cấp ủy, chính quyền địa phương cũng được một bài học để đời. Người dân đã thấm thía và cảnh giác hơn với những thủ đoạn lừa đảo tinh vi của các đối tượng. Còn cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên thì thấy được những lỗ hổng, bất cập trong công tác nắm địa bàn, nắm dư luận, tuyên truyền, vận động nhân dân. "Hiện nay, Đảng ủy, UBND và các tổ chức, đoàn thể xã Ia O đang phối hợp với BĐBP đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vạch rõ những thủ đoạn lừa đảo của các đối tượng để đồng bào không mắc phải những sai lầm tương tự; hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống", đồng chí Siu Nghiệp cho hay.