Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm vóc thời đại; là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó nổi bật là nghệ thuật chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở các địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên quy mô toàn quốc.
Nhận thức rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam phải tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, tại Hội nghị Trung ương 8, khóa I (tháng 5-1941), Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh Pháp, đuổi Nhật và vạch rõ con đường đấu tranh. Khi thời cơ đến có thể khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương, tạo điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa trong phạm vi toàn quốc. Trong đó xác định, khởi nghĩa từng phần là tiền đề của tổng khởi nghĩa và nằm trong điều kiện thời cơ của tổng khởi nghĩa.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội và nhiều địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghĩa từng phần. Cuối tháng 3-1945, cao trào khởi nghĩa diễn ra gần như đồng loạt ở nhiều địa phương. Sang tháng 4-1945 và những tháng tiếp theo, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều xã, huyện miền Bắc và miền Trung. Nhìn chung, khởi nghĩa từng phần diễn ra không đều ở vùng nông thôn và chưa thực hiện ở tỉnh lỵ, thành phố.
Lực lượng vũ trang bảo vệ quần chúng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tại Hà Nội.
Khi hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến 15-8-1945) đang diễn ra thì ngày 13-8, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Nhận định điều kiện chủ quan và khách quan hội tụ, thời cơ cách mạng chín muồi, hội nghị quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc trước khi quân đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật; cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh trực tiếp phụ trách. Kế hoạch tổng khởi nghĩa thực hiện theo nguyên tắc: Tập trung, thống nhất, kịp thời; đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Hội nghị cũng chỉ rõ, trong tác chiến, cần tuân thủ đúng theo nguyên tắc quân sự và chính trị phải phối hợp.
Quyết định của hội nghị toàn quốc phát động tổng khởi nghĩa (ngày 13-8-1945) chính là thời điểm đánh dấu bước ngoặt chuyển từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở các địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa trên quy mô toàn quốc. Tận dụng khoảng thời gian ngắn, trước khi quân đồng minh chưa vào Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo phát động toàn dân, bao gồm đông đảo các tầng lớp nhân dân, nòng cốt là lực lượng công nhân, nông dân ở từng địa phương và trên cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa. Cuộc tổng khởi nghĩa đã diễn ra nhanh chóng trên quy mô cả nước với hình thái rất đa dạng và phong phú.
Trong những ngày đầu (từ ngày 14 đến 18-8), tổng khởi nghĩa diễn ra thận trọng, chủ yếu ở các xã, huyện thuộc 19 tỉnh miền Bắc và miền Trung. Ở một số địa phương, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa (ngày 13-8-1945), nhưng thực hiện Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12-3-1945) của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo quần chúng nhân dân, có các đội tự vệ xung kích nổi dậy, giành chính quyền từ xã lên huyện, rồi đến cấp tỉnh. Từ ngày 19 đến 26-8 là cao điểm của tổng khởi nghĩa, với 56/65 tỉnh, thành phố, đặc khu khởi nghĩa. Đặc biệt là thắng lợi ở Hà Nội (ngày 19-8), Huế (ngày 23-8) và Sài Gòn (ngày 25-8) đã đập tan sức kháng cự của quân Nhật và bọn tay sai, tác động mạnh mẽ tới các địa phương khác tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
Thực tế cho thấy, trong số 65 tỉnh, thành phố và đặc khu tiến hành khởi nghĩa thì 36 tỉnh, thành phố về cơ bản các đảng bộ địa phương tổ chức, lãnh đạo bắt đầu khởi nghĩa từ các xã, huyện tiến lên tỉnh lỵ, từ ngoại thành vào nội thành, rồi kết thúc ở một vài huyện, xã còn lại; 15 tỉnh chỉ đạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ trước, sau đó tỏa về các huyện và 11 tỉnh, đặc khu chỉ đạo thực hiện khởi nghĩa đồng thời cả ở tỉnh lỵ và nông thôn, giành chính quyền cách mạng trong một ngày. Đến ngày 28-8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước cơ bản kết thúc (trừ thị xã Vĩnh Yên bị Quốc dân đảng chiếm đóng, thị xã Lào Cai, Hà Giang, Móng Cái bị quân Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng và thị xã Lai Châu bị quân Nhật từ Lào quay sang chiếm giữ), trong đó Hà Tiên là địa phương khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi cuối cùng.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo, chủ động, nhạy bén của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghệ thuật chỉ đạo từ khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi ở các địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Trong đó, hình thức khởi nghĩa từng phần là khâu trung gian chuyển tiếp lên tổng khởi nghĩa. Đây chính là hình thức vận động mang tính đặc thù của quy luật khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền cách mạng đã thành công ở Việt Nam.
Trong thời đại số, nhiều người coi mạng xã hội là nơi thể hiện sự tự do, là thế giới riêng, nên mặc sức thể hiện quan điểm cá nhân một cách cực đoan, thái quá; lợi dụng mạng xã hội để có những hành vi thiếu văn hóa, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, thậm chí bị các thế lực xấu lợi dụng...
Ảnh minh họa
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã rèn đúc và kết tinh nên nhiều giá trị của văn hóa, con người Việt Nam, tạo nên bản sắc bản sắc cộng đồng, quốc gia - dân tộc. Bản sắc đó là cái gốc của nền văn hóa, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu trình độ phát triển của một dân tộc, mà còn vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”, “còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi,… là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa”(1).
Văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng là một trong những “lát cắt” quan trọng phản ánh văn hóa cộng đồng, quốc gia - dân tộc; phản ánh vẻ đẹp tâm hồn, là cánh cửa mở ra mọi thế giới giữa con người với nhau. Văn hóa ứng xử được lưu giữ trên cơ sở có sự tiếp biến trong mỗi thế hệ và các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù xã hội thay đổi, nhưng văn hóa - giao tiếp ứng xử luôn có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó thể hiện triết lý sống, tư duy, hành động của một cộng đồng trong ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, với xã hội.
Bên cạnh các quy định thành văn, văn hóa ứng xử còn được “mặc định” thừa nhận ở những “quy ước” bất thành văn; chứa đựng những giá trị đạo đức, văn hóa nhất định.
ỨNG XỬ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT
Trong cuộc sống, người Việt Nam luôn quan tâm, coi trọng vấn đề giao tiếp, coi đây là thước đo nhận biết và đánh giá bản chất, tri thức và tầm văn hóa của một con người. Nhìn chung, cách ứng xử của người Việt Nam thiên về tình cảm, lấy tình cảm làm nguyên tắc, nên luôn đề cao vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ sao cho vui vẻ, hài hòa, tránh hành xử khiếm nhã, gây mất hòa khí: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”; “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”,…
Hầu hết các cộng đồng, tộc người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam đều có chung một “hệ quy chiếu” trong xác định phép tắc ứng xử thông qua “lời ăn tiếng nói”. Theo đó, lời nói có thể mang lại niềm vui, tình thân thiện, nhưng có khi cũng gây nên những tiêu cực, thậm chí là bi kịch, hận thù. Vì thế, cổ nhân đã từng răn dạy, cảnh báo: “Vạ từ miệng mà ra, họa từ miệng mà vào”, “Ăn phải nhai, nói phải nghĩ”, “Rắn cắn còn có thuốc chữa, người cắn không có thuốc chữa” (Ngạn ngữ H'Mông). Người có văn hóa là phải biết sử dụng “nhã ngữ” - nói năng nhã nhặn, ôn tồn, “thấu lý đạt tình” thay cho cách nói năng thô lỗ, khó nghe: “Nói ngọt lọt đến xương”, “Người thanh tiếng nói cũng thanh/ Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu”; đặc biệt là phải biết lấy “Tâm”, lấy “Nhẫn” khi nói hoặc bàn về chính sự hoặc những việc trọng đại…
Truyền thống của người Việt Nam vốn trân trọng nghĩa tình, đề cao danh dự; khi khó khăn, lúc có việc thì đến với nhau, giúp đỡ nhau bằng tấm lòng chân thành, xuất phát từ cái tâm trong sáng, chứ không phải vì “miếng ăn” hay mưu cầu vụ lợi. Vậy nên trong văn hóa ứng xử, người Việt rất coi trọng tinh thần, đặt tinh thần lên hàng đầu, lấy nụ cười để “hóa giải” những xung đột, mâu thuẫn không đáng có trong cuộc sống thường nhật; coi nụ cười là một “phép bảo đảm” cho sự hiếu khách, hòa thuận, thành tâm. Vì được coi là “sứ giả” đầu tiên trong giao tiếp, là yếu tố hàng đầu gây thiện cảm, cho nên “lời ăn, tiếng nói, nụ cười” được xác định là một phần quan trọng trong ứng xử truyền thống của người Việt Nam...
Truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt Nam còn được biểu hiện trong nhiều khía cạnh khác của cuộc sống, được tiền nhân tích lũy thành kiến thức, kinh nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng nhân ái: “Thương người như thể thương thân”. Đó là lòng vị tha: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Đó là tinh thần gắn bó, cố kết cộng đồng, tương thân tương ái, đoàn kết, trọng tình - trọng nghĩa - trọng đạo: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống những chung một giàn”, “Lá lành đùm lá rách. Lá rách ít đùm lá rách nhiều”, “Kính trên nhường dưới”, “Tôn sư trọng đạo”. Đó còn là những điều răn dạy không chỉ mang ý nghĩa đạo đức trong góc độ gia đình, mà sâu xa hơn chính là văn hóa ứng xử trong xã hội: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”…
Nhìn chung, những giá trị truyền thống tiêu biểu trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam bên cạnh tính dân tộc còn mang tinh thần nhân loại, vì đó cũng là một phần quan trọng của giá trị chân - thiện - mỹ mà con người luôn hướng đến.
ỨNG XỬ TRONG THỜI ĐẠI SỐ VÀ TOÀN CẦU HÓA
Ngày nay, việc giao tiếp, ứng xử của con người Việt Nam đã ngày càng mở rộng ra ngoài phạm vi địa phương, cộng đồng, quốc gia; là sự giao thoa nhuần nhuyễn giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa cái mới và cái cổ điển. Đặc biệt, trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chúng ta đã luôn chú trọng cách ứng xử có văn hóa trong các quan hệ quốc tế nhằm phát huy tối đa “sức mạnh mềm” của quốc gia - dân tộc.
Dù ở thời kỳ nào cũng vậy, văn hóa ứng xử của người Việt Nam luôn lấy chữ “Tâm”, chữ “Nhẫn” làm nền tảng giao tiếp, biểu hiện ở sự cảm thông, chia sẻ, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, luôn khiêm tốn, nhẫn nại, suy nghĩ thấu đáo, chủ động nhường nhịn để mối quan hệ được hòa thuận, êm đẹp, nhưng cũng rất kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ lẽ phải, khẳng định tư duy, trí tuệ, khí phách của một dân tộc không chịu khuất phục, không chịu làm chư hầu, lệ thuộc, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm”, giữ vững độc lập, tự chủ, ngăn chặn họa xâm lăng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các Hiệp định tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKFTA. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(2). Những thành tựu to lớn đó có sự đóng góp quan trọng và thành công của văn hóa ứng xử - đối ngoại Việt Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải ai cũng nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa ứng xử và cũng không phải tất cả mọi người đều biết cách ứng xử có văn hóa, biết cách phát huy những giá trị văn hóa ứng xử tốt đẹp mà ông cha để lại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đã và đang đặt ra những thách thức lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh những ưu thế của không gian mạng và các phương tiện truyền thông hiện đại trong việc tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa được mở rộng trên phạm vi toàn cầu, thì mặt trái của nó là sự du nhập và tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ các sản phẩm, lối sống “lai căng” bên ngoài; chứa đựng nhiều nguy cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít người dân, nhất là giới trẻ đang bị ảnh hưởng bởi lối sống ngoại lai, buông thả, có dấu hiệu quay lưng với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự nhầm lẫn giữa cá tính và sự lập dị khiến cho họ luôn muốn thể hiện một cách cực đoan và kỳ quái bản thân mình. Mặt khác, cuộc sống dư giả về vật chất khiến một bộ phận giới trẻ có lối sống hưởng thụ, ích kỷ, đặt cái riêng trên cái chung, đặt lợi ích cá nhân trước lợi ích tập thể, chối bỏ trách nhiệm với cộng đồng, sống không có lý tưởng. Các giá trị đạo đức truyền thống, đạo đức trong mỗi gia đình, cũng như văn hóa ứng xử trong xã hội đang có biểu hiện xuống cấp trầm trọng và dường như, cách ứng xử thiếu văn hóa đang dần trở thành một căn bệnh có sức lây lan nhanh trong xã hội. Không khó để chúng ta bắt gặp những hành vi lệch chuẩn trong ứng xử, nhất là ở nơi công cộng thời gian qua.
Trong thời đại số, nhiều người coi mạng xã hội là nơi thể hiện sự tự do, là thế giới riêng, khó kiểm soát, nên mặc sức thể hiện quan điểm cá nhân một cách cực đoan, thái quá; lợi dụng mạng xã hội để có những hành vi thiếu văn hóa, không đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, thậm chí bị các thế lực xấu lợi dụng để kích động, nhằm gây bất ổn chính trị, xã hội,… Trong khi đó, với một lượng lớn những người trẻ tuổi tham gia tương tác trên mạng xã hội khi tâm sinh lý vẫn chưa ổn định, chưa đủ kiến thức xã hội và bản lĩnh vững vàng thì việc không có chính kiến, thậm chí là bị ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh khỏi. Nhiều người vô cớ bị nói xấu, lăng mạ trên không gian mạng đã rơi vào tình trạng trầm cảm, hoảng loạn; không ít các vụ việc đau lòng đã xảy ra liên quan đến cách ứng xử phản văn hóa trên không gian mạng; một số trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp... Đó là những mảng màu u ám đã và đang làm ảnh hưởng đến bức tranh văn hóa toàn cảnh trong sáng của đất nước; gióng lên những hồi chuông cảnh báo về cách ứng xử của con người trong đời sống xã hội hiện nay.
Ảnh minh họa
CHÚ TRỌNG CỦNG CỐ, XÂY DỰNG, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC
Để khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn về cách ứng xử của con người trong bối cảnh hiện nay, chắc chắn sẽ cần phải có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm củng cố, xây dựng và phát triển môi trường văn hóa lành mạnh; trong đó, cần bắt đầu từ chính môi trường gia đình - nơi đầu tiên đặt nền móng cho cách ứng xử có văn hóa của mỗi cá nhân.
Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng gia đình hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta”(3). Môi trường văn hóa gia đình lành mạnh là “vaccine” quan trọng nhất giúp tăng khả năng “miễn dịch” trước những tiêu cực và hệ lụy từ sự “xâm lăng văn hóa” - mặt trái của toàn cầu hóa và thời đại số.
Việc đón nhận cái mới từ bên ngoài một cách thiếu chọn lọc, không chỉ làm suy thoái lối sống và đạo đức xã hội, mà còn tạo ra một nền văn hóa lai căng, thiếu bản sắc. Vì vậy, thời gian tới, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đã được chỉ ra trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, con người, trong đó tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của văn hóa ứng xử, vì chỉ có thay đổi nhận thức, con người mới có thể thay đổi hành vi để ứng xử đạt chuẩn mực văn hóa.
Thứ hai,đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phát huy những giá trị tích cực về thuần phong mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội.Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ, hài hòa giữa gia đình, nhà trường và xã hội; đề cao vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức và kỹ năng ứng xử văn minh. Tiếp tục phát huy hiệu quả việc thực hiện bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình; xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc và vận dụng những truyền thống văn hóa ứng xử tốt đẹp trong gia đình của người Việt Nam xưa, như ông cha ta trước đây từng nói “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Tập trung nghiên cứu, xây dựng và triển khai có hiệu quả các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ,… Thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ những người làm công tác giáo dục, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, lãnh đạo doanh nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng đồng và xã hội, góp phần lan tỏa những hành vi, lối sống, cách ứng xử tốt đẹp theo phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, để định hướng hành vi, thái độ đúng đắn cho công chúng, nhân dân.
Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng gia đình hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta”
Thứ tư, coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước.Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá XI, XII và đặc biệt là các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII của Đảng mới đây về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên.
Thứ năm, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với những điều khoản, quy định chặt chẽ về cách ứng xử của mỗi cá nhân; có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức và quy tắc xã hội, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để vừa có tính giáo dục, vừa có tính răn đe, giúp mỗi cá nhân biết tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mình. Mặt khác, cần phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, các phương tiện truyền thông hiện đại, góp phần tuyên truyền, cổ động các cuộc vận động xây dựng văn hóa ứng xử; phát hiện, cổ vũ cách làm hay, những gương người tốt, việc tốt điển hình; đồng thời phản ánh những thói hư, tật xấu, phê phán những biểu hiện lệch chuẩn về cách ứng xử của con người, góp phần xây dựng môi trường văn hóa thực sự lành mạnh, văn minh./.
Ngày 16-8, Bộ Công an phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức Hội thảo khoa học “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới” theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tới 63 điểm cầu công an tỉnh, thành phố (một số địa phương kết nối tới công an cấp huyện).
Toàn cảnh Hội thảo.
Đồng chí Đại tướng, GS, TS. Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an; GS, TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Thượng tướng, PGS, TS. Trần Quốc Tỏ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an; PGS, TS. Phạm Minh Tuấn, Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đồng chủ trì và tham gia điều hành Hội thảo.
Mục đích của Hội thảo làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và khẳng định vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia. Trên cơ sở đó, đề ra nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Kết quả của Hội thảo là cơ sở để kiến nghị với lãnh đạo Đảng, Nhà nước có chủ trương, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần chủ động bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước.
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định, bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội thảo.
Nhấn mạnh ý nghĩa, yêu cầu đặc biệt quan trọng của vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng cho biết, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5-9-2019 về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Theo đó, phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp, toàn diện, quy tụ mọi nhân tố. Đây là bước phát triển mới trong lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, được thể hiện nhất quán và nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng trên 3 phương diện: Chủ động, kiên quyết, kiên trì về phương châm, kế sách; Vững chắc về nền tảng, cội nguồn sức mạnh; Toàn diện về phương thức, biện pháp huy động nguồn lực,
Hơn 35 năm qua, triển khai những chủ trương, chính sách đúng đắn trên cơ sở đổi mới nhận thức, tư duy và hành động, kế thừa những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Thực tiễn là minh chứng sinh động, rõ ràng nhất cho thấy, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia; sự trưởng thành, chiến thắng, luôn hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang trong mọi hoàn cảnh; bảo đảm cho Quân đội, Công an luôn giữ vững bản chất cách mạng, tính đảng, tính nhân dân và dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, trong thời gian tới, tình hình quốc tế sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, tác động sâu sắc đến môi trường và nguồn lực để bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Do đó, bối cảnh đã đặt ra những vấn đề hệ trọng và cấp thiết bao gồm việc thống nhất về nhận thức "bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân"; phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp là phương thức quan trọng hàng đầu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; việc giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; không ngừng nâng cao tiềm lực, xây dựng lực lượng, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh vững mạnh; chủ động nắm bắt, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước, không để bị động, bất ngờ.
Các đại biểu tham quan gian trưng bày sách bên thềm Hội thảo
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm mà các đại biểu cần tập trung phát biểu làm rõ tại Hội thảo bao gồm: Sự cần thiết và những yêu cầu phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh mới; Phân tích làm rõ sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đặc biệt là những nhận thức mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia; Làm rõ thực trạng và đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới một cách hiệu quả và thiết thực.
Phát biểu kết luận tại Hội thảo, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, các ý kiến tham luận tại Hội thảo đã khẳng định rõ vai trò của nhân dân tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”; khẳng định rõ vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân. Các tham luận cũng đã đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay như: Coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; Đổi mới, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng; Hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp; Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp; Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia; Đề xuất giải pháp tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của thế lực thù địch…
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm phát biểu kết luận tại Hội thảo.
Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, 4 cơ quan phối hợp tổ chức Hội thảo sẽ căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để tổ chức nghiên cứu nghiêm túc, thấu đáo, tiếp tục tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp phù hợp về chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
Để thực hiện tốt vai trò nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia góp phần phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước, Bộ trưởng Tô Lâm yêu cầu thời gian tới, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần phát huy truyền thống tốt đẹp của Công an nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện theo Sáu điều Bác Hồ dạy, thực hiện “gần dân, trọng dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân”, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, “khi dân cần, khi dân khó, có Công an”. Quán triệt nghiêm túc lời căn dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất” để lực lượng Công an nhân dân là “thanh bảo kiếm” sắc bén bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân; sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân.
Ban Tổ chức Hội thảo đã lựa chọn, biên tập 100 bài viết đưa vào kỷ yếu Hội thảo tập trung vào 4 nội dung: 1- Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; 2- Phát huy các nguồn lực bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; 3-Vị trí, vai trò và những đóng góp của lực lượng Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia; 4-Nhiệm vụ và giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
Kỷ yếu Hội thảo sẽ được xuất bản, phát hành song song cả ấn phẩm giấy và ấn phẩm điện tử phục vụ bạn đọc miễn phí trên trang Stbook.vn và Thuviencoso.vn.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” (2). Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam. Nội dung của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát triển, trong đó chứa đựng cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (3). Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc” (4).
Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào cuộc kháng chiến, ngày 25-11-1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang âm mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng… Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” (5).
Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” đã thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt; xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới; phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ chiến lược này được kết hợp chặt chẽ trong suốt quá trình chiến tranh cách mạng. Bên cạnh đó, Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội chính, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chỉ rõ những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ Chính phủ, về kháng chiến ở miền Nam và đoàn kết với nhân dân các nước…
Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào tăng gia sản xuất, “thực túc, binh cường”. Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng”(6).
Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy cả hai mặt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, vùng tự do được bảo vệ, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng; từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong vùng ta kiểm soát, thực hiện được “thực túc, binh cường” và giải quyết vấn đề vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Bên cạnh việc đánh và cướp vũ khí của địch, Chính phủ đã phát động nhân dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời xây dựng các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa, cải tạo vũ khí. Đại hội II của Đảng (2-1951), với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương: Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế.
Với tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dựng nước và giữ nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới thắng lợi.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp dã man những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Trong báo cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội nghị Trung ương 6, ngày 17-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”(7) và “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”(8). Đồng thời, Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà: “Nền có vững, nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”(9).
Khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”(10). Đại hội xác định những nhiệm vụ của cách mạng ở hai miền Nam - Bắc. Nhiệm vụ của miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của miền Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Song cách mạng hai miền đều có mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Hai nhiệm vụ chiến lược nói trên có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau. Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đến đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng đã phát triển lên một trình độ mới, trở thành đường lối cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã vận dụng và xử lý hài hòa quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực hiện đường lối trên, miền Bắc thể hiện xuất sắc vai trò của mình, đó “vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến Mỹ” (11). Chỉ có lập trường kiên định chống xâm lược, có chế độ chính trị ưu việt, có cách tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống xã hội tốt, miền Bắc mới có thể làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, làm tròn vai trò lịch sử của mình.
Đặc biệt, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là việc giải quyết nhuần nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ và kẻ thù đã đứng chân ngay trên đất nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước có khác nhau.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, trong 30 năm kháng chiến, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ mật thiết, bền vững, thúc đẩy lẫn nhau. Có xây dựng được vùng tự do, cụ thể là xây dựng được miền Bắc vững mạnh mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Ngược lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của địch mới có thể bảo vệ vững chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn Tổ quốc. Đây cũng là bài học quý báu trong thời bình. Chỉ có xây dựng đất nước giàu mạnh với chế độ tốt đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa, mới tạo ra được nguồn lực dồi dào cho sự nghiệp giữ nước. Và, chỉ có xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù thì mới giữ được hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là tổng thể các công việc không tách rời nhau, rất khó khăn, phức tạp, hết sức to lớn, nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn này của Người đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong tình hình mới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được xác định là mối quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Xây dựng “nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện cả trên phương diện lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất, “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (13). Bảo đảm quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ“trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về lĩnh vực chính trị, là xây dựng, bảo vệ đường lối chính trị, hệ tư tưởng của Đảng ta, bảo vệ Cương lĩnh, xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa…
Về lĩnh vực kinh tế, là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế trọng yếu của đất nước, đấu tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Về lĩnh vực văn hóa, là xây dựng, bảo vệ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng giá trị chuẩn mực của văn hóa xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại tư tưởng, quan điểm phản giá trị văn hóa, nhất là những tàn dư của văn hóa phong kiến lạc hậu, sự thâm nhập của cái gọi là “giá trị văn hóa phương Tây”.
Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, là xây dựng, bảo vệ tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng và bảo vệ các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân và công an nhân dân, xây dựng và bảo vệ nền ngoại giao Việt Nam...
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở tất cả các cấp, các ngành, trên quy mô toàn quốc cũng như trên từng địa phương, cơ sở, đơn vị, doanh nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Đảng, Nhà nước, nhân dân và cả hệ thống chính trị là chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện ở việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là chúng ta giữ vững và kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và kiên định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; tạo lập và củng cố môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu rộng quốc tế; củng cố và tăng cường nội lực, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Nhận thức về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội có bước tiến mới; trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, luôn quan tâm và chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng; nâng cao khả năng huy động các nguồn lực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, nâng cao khả năng dự báo chiến lược, ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống; hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn, củng cố được “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc… Những thành tựu cơ bản đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng thời khẳng định tiềm năng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữa bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lúc, có nơi vẫn còn có biểu hiện tách rời hai mặt hoặc tuyệt đối hóa chỉ một mặt của nhiệm vụ này hoặc coi bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của riêng lực lượng vũ trang, của quân đội và công an. Ý thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa cao. Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế có lúc, có nơi còn làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, nhất là đối với yêu cầu xây dựng cơ sở xã hội và thế bố trí chiến lược quốc phòng, xây dựng thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, còn nhiều bất cập và hạn chế. Sự phối hợp hoạt động giữa quốc phòng và an ninh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xử lý các tình huống cụ thể có lúc, có nơi thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ; chưa gắn chặt giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng, an ninh, chưa tạo nên sức mạnh tổng hợp cao...
Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần phải tổng kết, phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Cần tăng cường quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, đúc kết và vận dụng các bài học kinh nghiệm giải quyết nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, bất cập, khó khăn cản trở việc tăng cường mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; giáo dục lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này không chỉ thể hiện trong quan điểm, chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, mà còn phải trở thành nhận thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi người dân, với niềm tin, trách nhiệm, ý chí quyết tâm hành động, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột về lợi ích dẫn đến bất ổn về an ninh đối với nhiều quốc gia. Ở trong nước, mặc dù “thế và lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(14), song vẫn còn nhiều “khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(15). Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Trước tình hình đó, càng cần kết hợp tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải đặt ra trong tổng thể và không thể tách rời các mối quan hệ lớn khác. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (16). Đây là vấn đề rất quan trọng, vừa là kết quả kinh nghiệm của hơn 35 năm đổi mới, vừa là phương hướng cơ bản cần thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, một trong những vấn đề đặt ra là xây dựng cơ chế phù hợp để các ngành, các cấp, mọi tổ chức và lực lượng thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại để sự phát triển bền vững đáp ứng được nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước; chủ động nhận diện các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Xác định rõ một số tình huống quân sự, quốc phòng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân là đường lối đúng đắn và khoa học trong thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, kể cả chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Giữ vững độc lập, chủ quyền về quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh là khả năng tự quyết định những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh; là năng lực tự bảo vệ của đất nước trước các hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền, lợi ích quốc gia, khả năng chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế là quá trình tham gia và mở rộng các mối liên kết quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, có nhiều cơ hội và thách thức đối với độc lập, tự chủ của đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng; là tiền đề cơ sở của nhau, tác động thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề vật chất cho tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế đi đúng hướng, sâu rộng và đạt hiệu quả cao. Do đó, cần tỉnh táo, kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.
Chủ động phòng, chống một cách hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chống phá ta của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trongtừng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, góp phần triển khai hiệu quả nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quân sự, quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
----------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 37, tr. 29 (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 59 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 587 (4), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 537, 134 (5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 26 (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 555 (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 533 (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 144 (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 673 (11) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 215 (12) Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 113 (13), (14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 156, 107, 109, 91