Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN DÂN TỘC!

         Một điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân quyền là chú trọng thực hành mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc, trong đó tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền con người là cơ sở bảo đảm quyền cộng đồng, quyền dân tộc, bởi “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”!

Thực tế trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) cho thấy, việc thực hành quan điểm này của Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở dân chủ, dân quyền cho việc xem xét, giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền bình đẳng, tương trợ, đoàn kết của mọi người và của các cộng đồng lớn nhỏ (giới, dân tộc, tôn giáo…) với việc bảo đảm quyền dân tộc Việt Nam theo hướng hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển.

1. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân nhằm thúc đẩy bảo đảm dân chủ, dân quyền và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hiện nay, việc bảo đảm quyền dân tộc gắn với bảo đảm dân chủ, dân quyền đứng trước yêu cầu phải nắm bắt, điều tiết được những thách thức mới đang đặt ra ngày càng lớn khi vấn đề nhân quyền được đề cập ngày càng nhiều hơn thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như trước đây. Do đó, để bảo đảm quyền dân tộc phải “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân” thông qua các giải pháp:

Triển khai mạnh mẽ Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 nhằm thực hiện có hiệu quả trên thực tế cơ chế: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Tạo động cơ khuyến khích cho người dân tham gia thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Mặc dù pháp luật Việt Nam không cho phép bỏ phiếu đại diện, song trên thực tế hiện tượng này khá phổ biến. Từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền công dân, nhất là của phụ nữ và thanh niên trong gia đình. Muốn vậy cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể thức bầu cử dân chủ theo hướng không chạy theo thành tích để hạn chế tối đa hoặc xóa bỏ những hiện tượng này.

Mặt khác, cần mở rộng các hình thức tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò giám sát của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, báo chí. Tổ chức đảng phải coi trọng việc thường xuyên giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Do vậy, cần khuyến khích việc tạo thêm các kênh tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND tỉnh, thành phố thông qua các đường dây nóng, mạng xã hội (Zalo, Facebook...) nhằm tăng cường sự tham gia đối thoại và lòng tin của người dân.

Tăng cường sự tham gia của cơ quan, doanh nghiệp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hiện nay, nhiều cơ quan và doanh nghiệp chưa quan tâm thích đáng đến việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Đây là một hạn chế không nhỏ, dẫn đến việc không đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của Luật này để có sự tham gia tích cực của người dân trong việc thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp như trong công tác tiếp dân, tiếp cận thị trường… Do vậy, cần phối hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, cả ở cấp xã lẫn tại cơ quan, doanh nghiệp.

2. Thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng bằng pháp luật giữa công dân và Nhà nước, xã hội trong thể chế nhà nước pháp quyền.

Để thiết lập quan hệ bình đẳng giữa công dân với Nhà nước và xã hội bằng thể chế pháp quyền cần thực hiện các giải pháp sau:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước, đặc biệt thể chế hóa nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân. Quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, của các chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nhất là hoàn thiện thể chế bảo đảm và những ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước công dân, nhất là khi có hành vi gây thiệt hại cho công dân trong thi hành công vụ, ở cả 3 phương diện: Cơ quan, tổ chức; cán bộ, công chức, viên chức và văn bản quản lý hành chính của cơ quan, tổ chức. Hoàn thiện thể chế pháp quyền về phản biện xã hội, giám sát xã hội, nhằm tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, nhất là truyền thông đại chúng (báo chí, mạng in-tơ-nét), trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, để phát hiện những vi phạm trong các mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội, quyền con người, quyền công dân.

Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm trước công dân cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đề cao trách nhiệm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân và thái độ dám chịu trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ; chống hiện tượng khi phải chịu trách nhiệm lại tìm cách “chạy trách nhiệm”, né tránh, đùn đẩy. Yêu cầu về dám chịu trách nhiệm phải được đề cao thành một “Danh dự công vụ”.

Đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, xử lý nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước về quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của công dân. Một nhiệm vụ quan trọng hiện nay là phải thể chế hóa các quyền hiến định của công dân trong Hiến pháp năm 2013 trên cả 2 tư cách: quyền con người và quyền công dân, để các quyền này thực sự được bảo đảm trong thực tế cuộc sống theo hướng: Các cá nhân cũng như pháp nhân của luật, tức là cả trong và ngoài Nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật; đều có thể đối lập tranh cãi một cách bình đẳng với các quyết định của cơ quan công quyền. Tạo lập sự gắn kết hữu cơ giữa quyền tự do dân chủ của công dân với chủ nghĩa hợp hiến. Muốn vậy, hệ thống quy phạm pháp luật phải được thực thi sao cho công dân cả trong và ngoài Nhà nước đều phải có trách nhiệm với Nhà nước; đồng thời Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong cả hoạt động của Nhà nước và trong cả hoạt động của xã hội. Hoàn thiện và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo hướng công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Từ đó xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân trong quan hệ với Nhà nước, cả với tư cách người dân và cả với tư cách cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

Xây dựng và thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân theo nguyên tắc pháp quyền.
Trước đây, việc thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân thông qua pháp chế XHCN; còn hiện nay đã chuyển sang thể chế pháp quyền. Điểm tương đồng giữa pháp chế XHCN và thể chế pháp quyền là: Đòi hỏi Nhà nước phải có một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh. Pháp chế XHCN yêu cầu Nhà nước và công dân, kể cả công dân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, phải tuân thủ nghiêm túc pháp luật. Thể chế pháp quyền nhấn mạnh nguyên tắc mọi cơ quan nhà nước phải được đặt dưới pháp luật. Cả hai đều yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt pháp luật, đấu tranh chống tình trạng vi phạm pháp luật và coi trọng hệ thống định chế tư pháp để xét xử các hành vi vi phạm.

Trong việc bảo đảm quyền công dân và nhân quyền thì thể chế pháp quyền, một mặt, nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của hệ thống hành pháp, tư pháp nhiều hơn là nhấn mạnh vai trò của cơ quan lập pháp như trong pháp chế XHCN, bảo đảm sự phản biện của người dân với tư cách là “đối trọng” không thể thay thế, trước những quy định không công bằng của Nhà nước. Chỉ như vậy mới “bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.

3. Tích cực, chủ động thiết lập hệ thống thông tin nhằm giải quyết hiệu quả những vấn đề về quan hệ giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc mới nảy sinh trong thực tiễn quản trị của Nhà nước và xã hội.         

Về cung cấp thông tin. Do thông tin là cơ sở để tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền và công dân, nên chính quyền có thể cung cấp thông tin bị động hoặc thông tin chủ động cho công dân; và có thể sử dụng các sản phẩm thông tin qua kênh trực tiếp và có kiểm soát hoặc các kênh độc lập để cung cấp thông tin.

Về tham vấn công dân. Chính quyền gửi yêu cầu về việc lấy ý kiến và tiếp nhận ý kiến đóng góp của công dân đối với các nội dung liên quan đến hoạch định chủ trương, chính sách công. Việc tham vấn công dân tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền và công dân. Thông tin phản hồi từ các công dân có thể chứa đựng những thông tin có giá trị cho chính quyền và xã hội, ví dụ các kiến nghị chính sách mới hoặc những điều chỉnh chủ trương, chính sách công.

Về tham gia tích cực của tổ chức, cá nhân công dân. Công dân giữ vai trò đề xuất các phương án về chủ trương, chính sách công, còn việc chịu trách nhiệm về xây dựng chủ trương, chính sách công và quyết định cuối cùng thuộc về chính quyền hoặc tổ chức xã hội. Thu hút công dân tham gia vào hoạch định chủ trương, chính sách công là mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền, xã hội và công dân dựa trên nguyên tắc đối tác. Nhà nước, tổ chức xã hội căn cứ vào tình hình thực tế và mục tiêu thu hút sự tham gia của công dân trong hoạch định chủ trương, chính sách công để lựa chọn một trong ba cấp độ nêu trên./.
Môi trường ST.

NĂM THÁNG SẼ QUA ĐI, CHIẾN THẮNG 30/4 MÃI MÃI ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC!

         Cách đây 49 năm (1975 - 2024), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn - Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc!
Sau khi Hiệp định Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973), nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 7/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].
Để kiểm chứng nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long, diễn ra từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[2].
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) - Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hoá Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hoá bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không ngừng phát huy lên tầm cao mới - Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Việt Nam.
Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Văn Tiến Dũng - Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].
Hiện nay, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Sài Gòn... Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tình thời đại sâu sắc”[4].
Trong giai đoạn cách mạng mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng 30/4/1975 - Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./. 
………………………………..
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.10.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.95 - 96.
[3] Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr..48.
[4] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37 (1976), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.471./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG: TINH THẦN CỦA CÁC QUÂN NHÂN THỂ HIỆN KHÍ PHÁCH OAI HÙNG DÂN TỘC!

     Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, tinh thần, khí thế và hành động mẫu mực của bộ đội và dân quân tự vệ tham gia nhiệm vụ diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ sẽ góp phần thể hiện khí phách oai hùng, truyền thống quật cường đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc!

Nhằm động viên các lực lượng thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), Đại tướng Phan Văn Giang - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa có thư động viên cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

Thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang gửi tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành tại lễ kỷ niệm lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Theo Đại tướng Phan Văn Giang, trong thời gian qua, Tiểu ban diễu binh, diễu hành và cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ đã phát huy phẩm chất tốt đẹp và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ Việt Nam anh hùng, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng hy sinh, gian khổ của chiến sĩ Điện Biên năm xưa; đoàn kết, sáng tạo, tích cực chủ động, vượt qua khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy, chuẩn bị, tổ chức huấn luyện, luyện tập, hợp luyện diễu binh, diễu hành và cơ động lực lượng, phương tiện đến thành phố Điện Biên đảm bảo chặt chẽ, an toàn tuyệt đối.

Trong thư, Đại tướng Phan Văn Giang nêu: Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ghi nhận, biểu dương, đánh giá cao thành tích, nỗ lực của các đồng chí. Những ngày tới là thời gian có ý nghĩa quyết định đến kết quả thực hiện nhiệm vụ, tôi mong rằng, các đồng chí tiếp tục nêu cao niềm vinh dự, tự hào, đã cố gắng, quyết tâm rồi hãy cố gắng, quyết tâm hơn nữa, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hợp luyện, sơ duyệt, tổng duyệt và diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

“Tinh thần, khí thế và hành động mẫu mực của các đồng chí sẽ góp phần thể hiện khí phách oai hùng, truyền thống quật cường đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc ta; về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp và sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới”, Đại tướng Phan Văn Giang viết./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: “LỰC LƯỢNG 04” VÀ NỖI KINH HOÀNG CỦA BỌN PHẢN ĐỘNG FULRO!

     Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Nam - Bắc sum họp một nhà, non sông thu về một mối. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ dã tâm chia cắt đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, bọn phản động FULRO được “hà hơi tiếp sức” nổi dậy chống phá chính quyền, gây tội ác với nhân dân…
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 27/2/1977 về việc thành lập “Lực lượng 04” nhằm tổ chức lực lượng tham gia giải quyết vấn đề FULRO. Tham gia “Lực lượng 04” là những thanh niên trẻ, khỏe, có nhiệt huyết, có cảm tình với cách mạng ở các buôn làng Tây Nguyên với nhiệm vụ đặc biệt: Tìm và diệt FULRO. Sau thời gian được huấn luyện về vũ khí, võ thuật và kỹ năng vận động quần chúng, họ được tăng cường cho các đơn vị Công an địa phương.

Từng một thời sát cánh cùng lực lượng Công an tham gia truy quét FULRO, ông Ksor Luih (nguyên Bí thư Đảng ủy xã Ia Khươl, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) vẫn còn nhớ như in những tháng ngày đầy gian khổ, vất vả nhưng cũng hết sức vinh quang ấy. Câu chuyện bắt đầu bằng những thước phim quay chậm về ký ức của người đàn ông dân tộc Gia Rai này, một con người đã trải qua biết bao thăng trầm khi sát cánh cùng “Lực lượng 04” vào sinh, ra tử chống lại phản động FULRO.

Ông Ksor Luih từng là lính trinh sát Trung đoàn 95B rồi chuyển về công tác ở Tỉnh đội. Năm 1980, ông về làm Phó Chủ tịch UBND xã Ia Khươl. Thời điểm này, xã Ia Khươl đang là điểm “nóng” hoạt động FULRO. Bọn chúng tìm cách dụ dỗ, bắt ép một số người dân đi theo, lập hành lang hoạt động, xây dựng lực lượng cốt cán nhằm chống phá chính quyền. Người dân đi làm rẫy gần rừng phải có lực lượng dân quân hay du kích cắt cử thành từng nhóm thay phiên bảo vệ. Trước tình hình trên, năm 1982, “Lực lượng 04” của xã được thành lập, do ông Ksor Luih phụ trách.

Ông Ksor Luih nhớ lại: “Đó là trận đấu súng nghẹt thở giữa “Lực lượng 04” và bọn phản động FULRO vũ trang vào một buổi chiều đầu tháng 8/1985. Sáng hôm đó, khi xã đang tổ chức đại hội Đảng thì có một người dân vừa bị FULRO bắn hụt, hớt hải chạy về báo tin. Ngay lập tức, mình cùng hàng chục anh em trong “Lực lượng 04” xách súng tìm đường lên núi theo sự chỉ dẫn của người dân. Lần theo dấu vết, đến chiều thì nhóm của mình phát hiện lán trại FULRO với khoảng 6 đến 7 tên. Lúc này, mình ra ám hiệu cho anh em tập kích bất ngờ. Tuy nhiên, khi giơ nòng súng ngắm chuẩn 1 tên trong nhóm rồi bóp cò nhưng súng không nổ. Cuộc tập kích bị lộ, 2 bên bắn nhau dữ dội. Bọn FULRO sử dụng cả súng phóng lựu M79 điên cuồng chống trả. Sau một hồi đấu súng ác liệt, nhóm của mình đã tiêu diệt được 1 tên. Những tên còn lại vội vàng rút chạy lên núi”.

Đối với Đại tá Lê Hữu Lành, nguyên Phó trưởng Phòng An ninh dân tộc Công an tỉnh Đắk Nông, khi nhắc đến “Lực lượng 04”, ông trầm ngâm nhớ lại: “Có trực tiếp tham gia chiến đấu cùng “Lực lượng 04” thì mới thấu hiểu được những gian khổ, hy sinh mà họ đã trải qua như thế nào. Điều ấn tượng của tôi đối với anh em là sự hăm hở, nhiệt huyết, không quản ngại khó khăn, gian khổ, nhiều khi đi truy quét FULRO trong rừng sâu phải ăn cá khô, lá bép hàng tháng trời, sốt rét đến rụng hết cả tóc nhưng chỉ cần nghe lệnh là họ tức tốc lên đường ngay”.

Thời đó, khi đang còn là một cán bộ của Công an huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, Lê Hữu Lành là người trực tiếp chỉ huy một nhóm “Lực lượng 04” gồm 47 đồng chí đã tổ chức nhiều trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt hàng trăm tên phản động FULRO vũ trang, thu về rất nhiều vũ khí, đạn dược. Nhưng với ông, trận đấu súng nghẹt thở giữa “Lực lượng 04” và bọn phản động FULRO tại xã Phú Xuân, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk vào một ngày đầu tháng 4/1984 không thể nào quên.

Hôm đó, từ nguồn tin báo của quần chúng cho biết, một toán FULRO hơn 20 tên do Đại úy Y Ba (một ZG trưởng của lực lượng FULRO tại huyện Krông Năng) cầm đầu từ rừng ra đang tổ chức cướp phá tại một làng của người đồng bào Êđê trên địa bàn xã. Nhận lệnh chiến đấu từ cấp trên, “Lực lượng 04” lúc đó gần 30 người dưới sự chỉ huy của đồng chí Lành đã nhanh chóng tới hiện trường tổ chức đánh chặn.

“Thấy lực lượng vũ trang của ta đến, chúng đã điên cuồng chống trả, nhưng với bản lĩnh của những người lính được đào tạo bài bản, sau hơn 1 giờ đấu súng ác liệt, ta tiêu diệt được 5 tên FULRO cộm cán, thu giữ 5 khẩu AR15 và 1 khẩu M79. Riêng tên Đại úy Y Ba bị thương bỏ trốn vào rừng, ta tiếp tục truy đuổi và đến sáng hôm sau thì bắt sống được hắn khi đang tìm đường bò ra một đầm lầy để uống nước”, Đại tá Lành kể.

Cùng chung tâm trạng, ông Lê Chí Quyết, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, nguyên Phó Ban Chỉ đạo 04 tỉnh Đắk Lắk lúc bấy giờ cho hay, những năm đầu sau giải phóng, tỉnh Đắk Lắk nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội diễn biến hết sức phức tạp.

“Tại Đắk Lắk, điểm “nóng” về hoạt động của FULRO thời gian đó tập trung tại K61 (thuộc địa bàn các huyện Cư M’gar, Ea Súp, Buôn Đôn, thị xã Buôn Hồ và huyện Krông Búk). Được sự tiếp tay của bọn phản động lưu vong, cùng với các loại vũ khí chiếm được sau chiến tranh, FULRO hoạt động hết sức manh động, chúng liên tục tập kích vào các buôn, làng để cướp bóc, giết hại nhân dân”, ông Quyết nhớ lại.

Ngay sau khi có Chỉ thị 04 của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo 04 tỉnh Đắk Lắk nhanh chóng được thành lập. Để thực hiện được mục tiêu này, Ban Chỉ đạo 04 cùng với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang xắn tay giải quyết các vấn đề về đời sống ở các buôn làng, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của dân. Từ đó, ở các buôn làng, đồng bào các dân tộc tại chỗ đã tự nguyện kết nghĩa, phối hợp với Bộ đội, Công an và các ban, ngành, đoàn thể cùng quyết tâm chống lại tội ác của FULRO.

“Qua đó, lực lượng Công an của ta phát hiện hàng chục cơ sở ngầm của chúng, kêu gọi nhiều tướng, tá, binh lính FULRO ra hàng. Trong đó có thể kể đến nhóm sĩ quan, binh lính cộm cán FULRO gồm 9 tên do “Thiếu tướng” Nay Gúh cầm đầu đã tự nguyện ra đầu hàng để hưởng sự khoan hồng. Sau khi được cảm hóa, giáo dục, Nay Gúh cùng những người này đã nhận thức lỗi lầm, trở về với gia đình và đến nhiều buôn làng tố cáo tội ác của FULRO, phát động quần chúng nâng cao cảnh giác với bọn chúng”, ông Quyết kể.

Cũng theo ông Lê Chí Quyết, mặc dù điều kiện sinh hoạt và công tác khó khăn, thiếu thốn trăm bề, nhưng nhờ tinh thần kiên quyết đấu tranh của các lực lượng, đặc biệt là “Lực lượng 04”, ta đã đạt được nhiều thành quả quan trọng.

“Từ năm 1977 - 1987, thực hiện nghị quyết của các kỳ Hội nghị Công an toàn quốc, các kế hoạch của Bộ Nội vụ, Cục nghiệp vụ, Công an các địa phương Tây Nguyên đã thực hiện nhiều chuyên án giải quyết vấn đề FULRO (khoảng 55 chuyên án). Một số chuyên án lớn qua đấu tranh đã giúp Cơ quan An ninh đánh giá, hiểu rõ hơn nội tình của FULRO, tạo những bước ngoặt trong quá trình đấu tranh, giải quyết vấn đề FULRO trên toàn địa bàn Tây Nguyên. Đến tháng 10/1992, FULRO buộc phải đầu hàng UNTAC (cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc tại Campuchia), chấm dứt 17 năm hoạt động chống phá cách mạng”, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhớ lại.

Giờ đây, nhiều đồng chí tham gia “Lực lượng 04” người đã qua đời, người còn lại thì già yếu. Hằng năm, Công an các địa phương đều tổ chức gặp mặt, tặng quà như một sự tri ân đối với những đóng góp, hy sinh to lớn của lực lượng này trong cuộc chiến chống lại FULRO.

“Dù chúng tôi không mang quân hàm và nhiều người trong số đó cũng không được hưởng chế độ gì, tuy nhiên, điều khiến chúng tôi cảm thấy vinh dự, tự hào là vẫn có nhiều người thấu hiểu được những gian khổ, hy sinh mà chúng tôi đã trải qua và động viên, chia sẻ. Được vậy, chúng tôi cũng không cần gì thêm”, ông Ksor Luih tự hào nói./.
Ảnh: Ông Ksor Luih tự hào kể về những chiến công của “Lực lượng 04” .

Ảnh: Ông Lê Chí Quyết, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk bên những hình ảnh, kỷ vật về “Lực lượng 04”.
Yêu nước ST.

 

Phát triển du lịch trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam

(LLCT) - Năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 30-11-2018 phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025”, trong đó ưu tiên phát triển du lịch số, du lịch thông minh(1). Theo đó, chuyển đổi số trong ngành du lịch là việc chuyển dịch mô hình truyền thống sang mô hình hiện đại dựa trên nền tảng số và chuỗi giá trị số dựa trên dữ liệu. Chuyển đổi số, khách hàng sẽ được nâng cao trải nghiệm du lịch theo mô hình mới trên không gian số. Bài viết khái quát tiềm năng và lợi thế trong phát triển du lịch và những đóng góp của ngành du lịch trong phát triển kinh tế; khái quát quan điểm và chính sách phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.


Hiện nay, chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực, ngành nghề. Theo chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng tới năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia số, tiên phong thử nghiệm công nghệ và mô hình mới, tập trung xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, làm thay đổi căn bản, toàn diện về các mặt hoạt động của Chính phủ cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức, cách sống, làm việc của người dân.

Thực tế cho thấy, chuyển đổi số đã và đang mang lại rất nhiều lợi ích cho Chính phủ, các doanh nghiệp và mỗi người dân. Áp dụng công nghệ số góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cải cách thủ tục hành chính, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phương thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, giúp người dân được thuận lợi và nhanh chóng khi thực hiện các dịch vụ công.

Đối với doanh nghiệp, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ để cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài, lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... Những điều này giúp tăng hiệu suất hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp.

Đối với đời sống, chuyển đổi số giúp xóa bỏ khoảng cách địa lý, mang đến cơ hội bình đẳng cho người dân về tiếp cận dịch vụ, từ đó tạo ra những tiến bộ về chất lượng cuộc sống. Mọi người có thể sống khỏe mạnh hơn nhờ các cách thức chăm sóc y tế kịp thời, vui vẻ và an toàn hơn với các hình thức giải trí đa dạng. Phát triển du lịch cũng không nằm ngoài những tác động của bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay.

1. Tiềm nănglợi thế và những đóng góp của ngành du lịch trong phát triển kinh tế

Việt Nam tự hào với 24 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có 08 di sản thiên nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu danh thắng Tràng An), 12 di sản văn hóa phi vật thể (Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, Lễ hội Gióng, Ca Trù, Hát Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ kéo co, Đờn ca Tài tử Nam Bộ; Bài Chòi Trung Bộ); và 4 di sản tư liệu (Bia Tiến sỹ Văn Miếu Quốc Tử Giám, Mộc bản Triều Nguyễn, Châu bản Triều Nguyễn, Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc Giang)(2). Hệ thống di sản thu hút sự quan tâm tìm hiểu của nhiều ngành khoa học. Đây cũng là những điểm tham quan thu hút nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế.

Việt Nam vinh dự được UNESCO công nhận 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, trong đó có 06 khu dự trữ sinh quyển ven biển và hải đảo gồm vùng ngập nước sông Hồng, rừng ngập mặn Cần Giờ, Cát Bà, Cà Mau, Cù Lao Chàm, vùng ven biển và hải đảo Kiên Giang, 03 khu dự trữ sinh quyển là miền Tây Nghệ An, Đồng Nai và Langbiang(3). Bên cạnh đó, Việt Nam có hơn 125 bãi biển trải dài từ Bắc đến Nam và được xếp hạng trong danh sách 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới. Không chỉ có thế mạnh ở vùng biển, Việt Nam còn có tiềm năng phát triển du lịch ở vùng đồng bằng, miền núi và trung du. Du lịch biển ở Việt Nam được phát triển mạnh vào mùa hè; vào mùa thu, mùa đông và mùa xuân thu hút khách du lịch tới các vùng núi Tây Nguyên, Tây Bắc với các điểm tham quan nổi tiếng như ruộng bậc thang mùa lúa chín ở Tây Bắc, đồi cỏ hồng ở Đà Lạt, mùa hoa muồng vàng ở Gia Lai, mùa hoa cải ở Mộc Châu(4),...

Về văn hóa ẩm thực, Việt Nam có nền ẩm thực đa dạng và phong phú. Mỗi miền là Bắc, Trung, Nam đều có bản sắc văn hóa và khẩu vị đặc trưng riêng trên từng món ăn. Chính nhờ sự đa dạng trong bản sắc văn hóa dân tộc, nền ẩm thực của Việt Nam đã vinh dự được lọt vào Top nhữngquốc gia có các món ăn đường phố ngon nhất thế giới.

Bên cạnh đó, Việt Nam đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2019 (tăng 16,2% so với năm 2018)(5). Giai đoạn 2015-2019, du khách quốc tế đến Việt Nam tăng từ 7,9 đến 18 triệu lượt (khoảng 2,3 lần) và có tốc độ tăng trưởng 22,7% mỗi năm. Nhờ vậy, Việt Nam liên tục nhận được các giải thưởng: Điểm đến hàng đầu châu Á 2 năm liên tiếp 2018-2019, Điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á 2019, Điểm đến văn hóahàng đầu châu Á 2019, Điểm đến di sản hàng đầu thế giới do World Travel Awards trao tặng; World Goft Awards cũng vinh danh Việt Nam là điểm đến Golf tốt nhất thế giới năm 2019(6).

Với những tiềm năng và lợi thế, ngành du lịch đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam:

Ngành du lịch của Việt Nam được xem là ngành kinh tế mũi nhọn bởi sự đóng góp tích cực vào nền kinh tế. Một trong những đóng góp nổi bật là sự đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP của Việt Nam: năm 2015, ngành du lịch đóng góp 6,3% GDP; năm 2016: 6,9%; năm 2017: 7,9%; năm 2018: 8,3% và năm 2019: 9,2%(7). Bên cạnh đó, du lịch còn thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương, đóng góp tích cực vào thu nhập của cả nước.

Du lịch địa phương phát triển giúp tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, thí dụ như khoản nộp thuế từ các cơ sở du lịch và các doanh nghiệp du lịch kinh doanh thuộc quản lý trực tiếp của địa phương. Mặt khác, ở các địa phương có làng nghề truyền thống nổi tiếng, người dân tận dụng thế mạnh của họ để phát triển kinh tế bằng cách trưng bày và bán các sản phẩm thủ công. Việc này không chỉ đem lại thu nhập trong nước cho người dân, mà còn mang đến cơ hội để các sản phẩm Việt Nam tiếp cận đến du khách nước ngoài, từ đó tạo tiền đề cho xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ... Thực hiện Quyết định 1671/QĐ- TTg ngày 30-11-2018 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã từng bước ứng dụng chuyển đổi số trong ngành du lịch. Đây được coi là nền tảng hình thành hệ sinh thái du lịch số, từ đó tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận và phát triển du lịch số nhanh hơn. Có thể thấy, ngành du lịch Việt Nam đang dần thích ứng với xu hướng phát triển của thế giới một cách chuyên nghiệp và hiện đại. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch số và du lịch thông minh.

Du lịch giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ phát triển du lịch, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam được quảng bá rộng rãi đến các nhà đầu tư tiềm năng, từ đó đem lại đóng góp tích cực vào nền kinh tế đất nước(8). Có thể kể đến một số một số dự án lớn như Tập đoàn Banyan Tree (Xinhgapo) đã đầu tư 276 triệu USD để xây dựng khu nghỉ dưỡng 5 sao ở Thừa Thiên Huế, Tập đoàn Suncity Group (Macau) đã đầu tư khu nghỉ dưỡng phức hợp Hoiana (Hội An) với sân golf và nhà hàng đạt chuẩn cao. Bên cạnh hình thức đầu tư trực tiếp, hình thức liên doanh cũng đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Đây là những đóng góp cho sự phát triển du lịch Việt Nam.

Du lịch góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, hộ gia đình. Đơn cử, một số gia đình dân tộc, trước đây chỉ có thu nhập từ nông nghiệp, nay nhờ du lịch, đã nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống. Một số địa phương miền núi phía Bắc với những ưu thế riêng về địa khí hậu đã nhận thấy tiềm năng du lịch ở nơi họ sống nên đã phát triển dịch vụ du lịch, cho khách du lịch trải nghiệm sống trong nhà sàn, học cách dệt vải... Hoạt động này không chỉ góp phần quan trọng trong lưu giữ và bảo tồn nét văn hóa truyền thống, mà còn góp phần phổ biến giá trị văn hóa của người Việt đến bạn bè quốc tế và tạo thu nhập cho phát triển kinh tế gia đình.

Du lịch góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Trên thực tế, du lịch cần có sự hỗ trợ liên ngành như bảo hiểm, xây dựng, dịch vụ ăn uống, vận tải, lưu trú,…để có thể đem đến cho khách du lịch trong và ngoài nước những trải nghiệm tốt nhất. Ngược lại, cũng nhờ có du lịch mà dịch vụ vui chơi giải trí, ăn uống có điều kiện phát triển, tạo ra cơ hội việc làm và nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương.

3. Quan điểm và chính sách phát triển du lịch của Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện nay, chuyển đổi số là cụm từ khá phổ biến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, hầu hết các lĩnh vực và ngành nghề đang được chuyển đổi số, du lịch cũng là một trong những ngành, lĩnh vực chuyển mình mạnh mẽ trong xu thế chuyển đổi số.

Chuyển đổi số trong ngành du lịch được xem là một quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh doanh và tiếp thị truyền thống sang mô hình kinh doanh hiện đại hơn nhằm tập trung vào nâng cao trải nghiệm của khách hàng theo mô hình chuỗi giá trị số dựa trên dữ liệu(9). Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch, chuyển đổi số không còn là một chiến lược tùy chọn mà đã trở thành một xu hướng không thể thiếu trong bối cảnh hiện nay. Nhờ chuyển đổi số, doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường, cung cấp các giá trị mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Vì vậy, các doanh nghiệp thuộc ngành du lịch cần phải có chiến lược lâu dài để có thể thay đổi cách tư duy, cách thức hoạt động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sự hỗ trợ tích cực của các bên liên quan.

Thực hiện Quyết định 1671/QĐ- TTg ngày 30-11-2018 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã từng bước ứng dụng chuyển đổi số trong ngành du lịch. Đây được coi là nền tảng hình thành hệ sinh thái du lịch số, từ đó tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận và phát triển du lịch số nhanh hơn. Có thể thấy, ngành du lịch Việt Nam đang dần thích ứng với xu hướng phát triển của thế giới một cách chuyên nghiệp và hiện đại. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch số và du lịch thông minh. Quyết định này cũng là tiền đề để hiện thực các nội dung về phát triển ngành du lịch theo chủ trương, đường lối của Đảng tại Văn kiện Đại hội XIII “Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế… Xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc… Đến năm 2030, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 47-50 triệu lượt, du lịch đóng góp khoảng 14-15% GDP và nâng tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP lên trên 50%”(10).

Nắm bắt được xu thế chuyển đổi số trong ngành du lịch, Tổng cục Du lịch đã xây dựng chiến lược nền tảng số quốc gia cho ngành du lịch(11). Cụ thể:

Một là, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số về du lịch; Hệ thống kết nối liên thông thông tin giữa cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp; Ứng dụng công nghệ số hỗ trợ du lịch an toàn và thông minh(13). Điển hình một số sản phẩm hỗ trợ cho khách du lịch như: ứng dụng Du lịch Việt Nam - Vietnam Travel, Phát hành Thẻ Du lịch thông minh, ứng dụng Nền tảng Quản trị và Kinh doanh du lịch. Tiêu biểu là ứng dụng Du lịch Việt Nam an toàn, một ứng dụng hữu ích trong và sau bối cảnh dịch bệnh Covid-19, là một nền tảng đa tiện ích, đem đến dữ liệu y tế về dịch bệnh ở điểm đến du lịch, cung cấp bản đồ số du lịch an toàn và thông tin các cơ sở dịch vụ an toàn.

Hai là, xây dựng các sản phẩm thông minh giúp đáp ứng nhu cầu của người dùng, ví dụ như hệ thống vé điện tử, bãi xe thông minh, hệ thống kiểm soát ra vào tự động và máy bán nước uống tự động(12). Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch cũng đã kịp thời thích ứng trong giai đoạn chuyển đổi số. Một số các ứng dụng công nghệ đang phát triển như trí tuệ nhân tạo (AI) và chatbot, ứng dụng mobile, điểm đánh giá của khách hàng (rating and review).

Ba là, phủ sóng các ứng dụng về du lịch thông qua ứng dụng công nghệ thông tin trên cả nước(13). Hiện nay, các tỉnh, thành phố của Việt Nam đã đồng loạt triển khai ứng dụng số để kịp thời thích ứng với xu thế số. Tại Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng các ứng dụng chuyển đổi số như: Cập nhật 366 tài nguyên du lịch lên nền tảng Google Map và Google Eart, phần mềm du lịch thông minh trên hệ điều hành iOS và Android, Cổng thông tin 1022 -  kênh giao tiếp giữa người dân và chính quyền thành phố, đưa các sản phẩm du lịch trên sàn giao dịch thương mại điện tử (Lazada, Traveloka, Shopee), tiến hành sử dụng công nghê 3D trong quảng bá du lịch để tái hiện hình ảnh thành phố, mang lại trải nghiệm sinh động để thu hút khách du lịch, tối ưu thời gian giải quyết thủ tục hành chính mức độ 4 tại Sở Du lịch.

Tại Hà Nội, các cơ quan chức năng cũng đã triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động du lịch của Thành phố như bản đồ du lịch số, ứng dụng du lịch trên thiết bị thông minh, từ đó khách du lịch có thể dễ dàng tra cứu, tìm hiểu về các thông tin du lịch. Bên cạnh đó, Sở Du lịch Hà Nội đã liên kết hệ thống dữ liệu số hóa cho hơn 300 điểm đến du lịch. Các ứng dụng du lịch và cổng thông tin điện tử sẽ trở thành cổng thông tin đa phương tiện, nơi mà khách du lịch có thể tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Hơn nữa, nhiều cơ sở du lịch ở Hà Nội đã triển khai Audio Guide, một hệ thống thuyết minh tự động, giúp du khách quốc tế có thể chủ động tìm hiểu thông tin qua tai nghe bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau tại điểm tham quan.

Tại Đà Nẵng, Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng cũng đã áp dụng ứng dụng thực tế ảo VR360 “Một chạm đến Đà Nẵng” vào năm 2021. Với ứng dụng số này, khách du lịch có thể dễ dàng khám phá Đà Nẵng với thuyết minh bằng hai ngôn ngữ Anh - Việt cùng hình ảnh 360 độ.

Có thể thấy, du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, văn hoá, lịch sử của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Nhờ vào sự phát triển của công nghệ số, doanh nghiệp Việt Nam có động lực để phát triển mạnh mẽ hơn, kinh tế của quốc gia cũng từ đó mà lớn mạnh hơn. Bước vào giai đoạn mới của tiến trình chuyển đổi số, Quyết định 411/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 sẽ là tiền đề và cơ sở để thúc đẩy các hoạt động của ngành du lịch Việt Nam. Theo đó, kế hoạch hành động và phát triển kinh tế số và xã hội số sẽ giúp cho ngành du lịch tập trung phát triển, đồng thời tạo làn sóng chuyển đổi số mạnh mẽ tại các doanh nghiệp du lịch cũng như phát triển các nền tảng kỹ thuật, công nghệ để kết nối cung cầu trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, nhu cầu về ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ mới như dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo cũng sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn tại các cơ quan, tổ chức thực hiện quản lý, kinh doanh du lịch trên cả nước. Ví dụ, các doanh nghiệp du lịch sẽ triển khai chuyển đổi số trong các khâu quản lý, điều hành cũng như đón tiếp khách du lịch để họ có được các trải nghiệm trọn vẹn nhất. Các điểm đến cũng có các hoạt động chuyển đổi số để khách hàng có thể trải nghiệm từ xa trước khi quyết định điểm đến hay phát triển các hệ sinh thái về dịch vụ, mua sắm, ẩm thực… trên môi trường số.

Có thể nói rằng, với những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời gian qua và hành động, quyết tâm của ngành du lịch trong chuyển đổi số sẽ mang lại hiệu quả cao, khẳng định vị thế của ngành “công nghiệp không khói”, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian tới.

_________________

Ngày nhận bài: 26-4-2023; Ngày bình duyệt: 28-4-2023; Ngày duyệt đăng: 18-5-2023.

 

(1) Chính phủ: Quyết định 1671/QĐ-TTg về Phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2015”, Hà Nội, ngày 30 -11 -2018.

 (2) Hà Văn Siêu: Di sản văn hóa với phát triển du lịch, https://www.vietnamtourism.gov.vn/post/26992ngày 26 -7 -2018.

(3) Vietnamplus: Khám phá 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, https://special.vietnamplus.vn/2021/09/24/kham-pha-11-khu-du-tru-sinh-quyen-the-gioi-o-viet-nam/, ngày 24-09-2021.

(4) Phúc Kha, Báo Thanh niên: Mùa lúa vàng ở Tây Bắc có gì đẹp mà thu hút nhiều khách check-in?, https://thanhnien.vn/mua-lua-vang-o-tay-bac-co-gi-dep-ma-thu-hut-nhieu-nguoi-den-check-in-, ngày 04-10-2022.

(5), (6), (7) Tổng cục Du lịch: Ấn tượng tăng trưởng du lịch Việt Nam trong bối cảnh khó khăn chung của khu vực và thế giới, https://vietnamtourism.gov.vn/post/30873, ngày 31-12-2019.

(8) Tổng cục Du lịch: Tốc độ tăng trưởng khách, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế,https://www.vietnamtourism.gov.vn/post/32527, ngày 9-7-2020.

(9), (11), (12), (13) Hồ Thị Bảo Nhung: Chuyển đổi số ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19https://tapchitaichinh.vn/chuyen-doi-so-nganh-du-lich-viet-nam-trong-boi-canh-dai-dich-covid-19.html, ngày 13-8-2022.

(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.248-249.

ThS NGUYỄN MINH CHÂU

Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính


 

Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hải Dương - Kết quả, mục tiêu và giải pháp đến năm 2025

(LLCT) - Trong những năm qua, tỉnh Hải Dương luôn xác định thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân kết hợp với sự tham gia của các thành phần kinh tế để góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp trong thực hiện các mục tiêu, tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Bài viết làm rõ thực trạng, kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hải Dương theo hướng bền vững.


1. Kết quả xây dựng nông thôn mới ở Hải Dương

Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm đa số trong xã hội. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn (NN, ND, NT) luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước và được thể chế hóa bằng các chính sách cụ thể. Bước vào thời kỳ đổi mới, một trong những đột phá khởi đầu là chủ trương, chính sách về thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008, Hội nghị Trung ương 7, khóa X khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(1).

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh, phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới (NTM) là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản...”(2); cần phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh...

Triển khai các quan điểm, chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, cấp ủy, chính quyền tỉnh Hải Dương luôn xác định phát triển NN, ND, NT, trong đó xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt sự phát triển của tỉnh.

Đại hội XV Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2010-2015), Đại hội XVI (nhiệm kỳ 2015-2020)(3) và Đại hội XVII nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM, nâng cao đời sống nông dân là nhiệm vụ quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục, nhất là những nội dung liên quan đến cơ chế hỗ trợ đặc thù cho các xã, huyện để các địa phương có động lực xây dựng NTM.

Nhằm cụ thể hóa các chủ trương trên, HĐND và UBND tỉnh Hải Dương trong thời gian qua đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, đề án, cơ chế, chính sách như: Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, xây dựng hạ tầng nông thôn,  nâng cao đời sống của nhân dân... Các sở, ngành và các đơn vị có liên quan của tỉnh căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, đã ban hành các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các huyện, xã triển khai thực hiện ở cơ sở. Cấp ủy, chính quyền cấp huyện, xã đã thể hiện sự quyết liệt, sáng tạo, có nhiều cách làm hay, hiệu quả, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và nhân dân các chủ trương, chính sách; ý nghĩa, vai trò của Chương trình; đồng thời, trực tiếp giao nhiệm vụ cho các xã, thôn và nhân dân trên địa bàn triển khai thực hiện, hoàn thành 19 tiêu chí NTM, phấn đấu hoàn thành 18 tiêu chí NTM nâng cao(4).

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã phối hợp và tổ chức nhằm cụ thể hóa Nghị quyết, xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế. Đồng thời, chỉ đạo, tổ chức triển khai sâu rộng cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”, thực hiện phong trào thi đua “cả nước chung sức xây dựng NTM” tới các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân.

Kết quả xây dựng NTM giai đoạn 2011-2021 trên địa bàn tỉnh(5)

Thứ nhất, đã thực hiện tốt các đề án, dự án và mô hình phát triển sản xuất, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân và giảm tỷ lệ hộ nghèo. Cụ thể: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP (giá 2010) tăng bình quân 8,1%/năm; giai đoạn 2010 - 2015 (7,7% năm); Quy mô kinh tế của tỉnh năm 2020 gấp 1,6 lần năm 2015; GRDP tăng bình quân 8,8%/năm; tổng thu nhập bình quân đầu người đạt 69,8 triệu đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hưởng tích cực, năm 2020, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chiếm 90,3% GRDP, nông nghiệp chiếm 9,7% GRDP.

Thứ hai, chương trình xây dựng NTM đã thu hút và huy động nguồn lực của toàn xã hội với hơn 58,4 nghìn tỷ đồng trong hơn 10 năm (vốn vay tín dụng: 32,42 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%), đặc biệt là sự đóng góp của nhân dân như tự nguyện hiến hàng triệu m2 đất để làm đường và các công trình phúc lợi. Nhờ đó, hàng nghìn km đường giao thông nông thôn được xây dựng không phải đền bù khi giải phóng mặt bằng.

Thứ ba, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), những năm qua, tỉnh Hải Dương đã tập trung phát triển đa dạng các sản phẩm nông nghiệp, làng nghề với nhiều sản phẩm thế mạnh. Qua đó, tạo động lực để các địa phương phát triển sản phẩm lợi thế theo chiều sâu, tạo dấu ấn riêng cho từng vùng, từng khu vực. Năm 2021, Hải Dương có 128 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP (61 sản phẩm 3 sao và 65 sản phẩm 4 sao, trong đó có 2 sản phẩm đề nghị Trung ương công nhận 5 sao). Năm 2022, Hội đồng đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP của tỉnh đã công nhận, xếp hạng thêm: 36 sản phẩm đạt 4 sao và 79 sản phẩm đạt 3 sao.

Thứ tư, về việc thực hiện Chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Đến tháng 12-2020, toàn tỉnh có 651.701 hộ dân, trong đó còn 8.858 hộ nghèo, chiếm 1,36% và 13.030 hộ cận nghèo, chiếm 2,0% (ở 178 xã có 458.638 hộ, trong đó có 6.397 hộ nghèo - không bao gồm 3.688 hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội); Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu tiêu chí NTM là 0,66%.

Thứ năm, tỉnh Hải Dương hiện có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 09 huyện, 01 thị xã và 02 thành phố; 235 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 178 xã, 47 phường và 10 thị trấn(6). Năm 2021, tỉnh Hải Dương đã hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM với 178/178 xã được công nhận đạt chuẩn NTM và 12/12 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng NTM. Có 43 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 4 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Năm 2022, Hải Dương có 29 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 11 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Cụ thể, tiến độ các xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Hải Dương đạt chuẩn NTM qua các năm như sau:



Một số hạn chế trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh

Thứ nhất, sự kết nối giữa khu vực nông thôn và đô thị còn rời rạc, quá trình NTM chưa hài hòa phù hợp với quá trình đô thị hóa, dẫn đến quy hoạch manh mún, đứt gẫy, các trung tâm đô thị, thị xã, thị tứ chưa phát huy được vai trò đầu tàu về kinh tế, chưa tạo ra được các hiệu ứng lan tỏa đối với nông thôn; có xu hướng “đô thị hóa nông thôn, bê tông hóa miền quê” dẫn đến phá vỡ cảnh quan, không gian văn hóa truyền thống của nông thôn.

Thứ hai, chất lượng đạt chuẩn và công tác duy trì bền vững kết quả của một số xã sau đạt chuẩn còn hạn chế. Chất lượng các công trình, cơ sở hạ tầng sau khi đạt chuẩn ở một số địa phương có dấu hiệu xuống cấp do chưa được quan tâm, duy tu bảo dưỡng thường xuyên.

Thứ ba, môi trường nông thôn tuy được quan tâm nhưng chưa thực sự chuyển biến rõ nét, vẫn còn vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, nhất là xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt, chất thải của các khu, cụm công nghiệp và làng nghề.

Thứ tư, nhiều giá trị văn hóa truyền thống ở một số địa phương đang dần bị mai một, các tệ nạn xã hội (ma túy, cờ bạc, trộm cắp...) ở nông thôn vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp.

Thứ năm, một số địa phương thực hiện xây dựng NTM chưa quan tâm đến tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; tư duy của ngành nông nghiệp và người dân còn chú trọng đến tăng quy mô, sản lượng mà chưa quan tâm nhiều đến phát triển kinh tế nông thôn; tỷ lệ nông sản sản xuất theo các tiêu chuẩn như

VietGap, Global G.A.P hay nông nghiệp hữu cơ theo tiêu chuẩn (TCVN 11041-1:2017)... còn hạn chế; hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại nông thôn, thu mua nông sản, chế biến và cơ giới hóa còn chưa đồng bộ; áp dụng khoa học và công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế; một bộ phận hợp tác xã hoạt động chưa hiệu quả...

Thứ sáu, khó khăn về nguồn lực, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều, nguồn vốn huy động từ ngân sách xã và nhân dân gặp khó khăn, đặc biệt đối với các hạng mục công trình do ngân sách thực hiện như: đường giao thông trục xã, đường huyện, nhà văn hóa và sân thể thao xã; vẫn còn tình trạng nợ đọng trong đầu tư NTM ở cấp xã...

Từ thực tiễn quá trình thực hiện phong trào NTM trên địa bàn tỉnh những năm qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp là yếu tố quan trọng. Để xây dựng NTM đạt mục tiêu về số lượng và chất lượng, đòi hỏi sự quyết tâm, trách nhiệm và quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp. Trong công tác chỉ đạo, điều hành xây dựng NTM, phải phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cấp, ngành; có sự phối hợp nhịp nhàng trong công tác điều phối chung để tạo sức mạnh tổng hợp.

Thứ hai, cần phát huy tốt vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng NTM. Điều này có ý nghĩa quyết định chính đến kết quả xây dựng NTM. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là kim chỉ nam cho quá trình xây dựng NTM bền vững. Đặc biệt, việc lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân khi xét, công nhận đạt chuẩn NTM đã tạo hiệu ứng tốt trong xã hội, giúp cấp ủy, chính quyền các cấp đưa ra giải pháp, cam kết tiến độ xử lý để bảo đảm xây dựng NTM bền vững.

Thứ ba, cách thức, cơ chế khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương về điều kiện tự nhiên và nhân lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng NTM. Trong điều kiện nguồn lực hỗ trợ trực tiếp của ngân sách nhà nước có hạn, phải đa dạng hóa việc huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế (doanh nghiệp, tín dụng, đóng góp của nhân dân,...), nguồn từ đấu giá quyền sử dụng đất.

Thứ tư, chú trọng kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy tham mưu, giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp là một giải pháp quan trọng tạo nên thành công. Việc có bộ máy chuyên trách, chuyên nghiệp mạnh dạn nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách đủ mạnh đã góp phần đẩy nhanh tiến độ, chất lượng và hiệu quả xây dựng NTM ở các địa phương.

Thứ năm, cần thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc nhắc nhở cơ sở, thôn, xóm để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đề xuất giải pháp kịp thời, thực sự coi người dân là chủ thể của Chương trình.

Thứ sáu, trong quá trình triển khai phải thực hiện lồng ghép có hiệu quả và đồng bộ các chương trình, dự án kết hợp giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân với quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển văn hóa - xã hội và môi trường theo quy hoạch và đề án xây dựng NTM. Việc huy động đóng góp của người dân phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bàn bạc dân chủ, không quá sức dân, chỉ đạo lựa chọn những nội dung công việc phù hợp với điều kiện và khả năng của nhân dân từng xã để làm trước, làm điểm tạo tiền đề thuận lợi cho các bước tiếp theo.

2. Mục tiêu và giải pháp

Trên cơ sở các nghị quyết của Quốc hội, quyết định của Chính phủ, tỉnh Hải Dương xác định tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, được đề ra tại Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 27-10-2020 của Đại hội XVII, Đảng bộ tỉnh Hải Dương, nhiệm kỳ 2020-2025; Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy số 700-TB/TU ngày 28-4-2022 và Kế hoạch số 1290/KH-UBND ngày 11-5-2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tỉnh Hải Dương giai đoạn 2021-2025;  Khẳng định quyết tâm của tỉnh trong xây dựng NTM thực sự đi vào chiều sâu và phát triển theo hướng bền vững.

Về mục tiêu cụ thể đến năm 2025:

Một là, các xã tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí, bảo đảm sau khi rà soát 100% số xã đạt các tiêu chí xã NTM giai đoạn 2021-2025, tiếp tục phấn đấu xây dựng NTM nâng cao. Phấn đấu đến hết năm 2025 có ít nhất 60% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao (dự kiến 107 xã), có ít nhất 20% số xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu (dự kiến 36 xã).

Hai là, đối với những xã đạt chuẩn NTM nâng cao, đạt chuẩn NTM kiểu mẫu có đủ điều kiện nâng cấp lên đô thị, đồng thời nằm trong chương trình phát triển đô thị, tiếp tục triển khai, thực hiện xây dựng xã gắn với quá trình CNH, ĐTH theo quy định, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 27-10-2020 của Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã đề ra.

Ba là, đối với các huyện, thị xã, thành phố đã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016-2020 tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí, bảo đảm sau khi rà soát 100% số huyện đạt các chỉ tiêu, tiêu chí huyện NTM giai đoạn 2021-2025. Phấn đấu hết năm 2025 có ít nhất 03 huyện đạt chuẩn NTM nâng cao, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt ít nhất từ 76-80 triệu đồng/người/năm(7).

Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng NTM ở Hải Dương đi vào chiều sâu và bền vững:

Một là, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và cư dân nông thôn, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua xây dựng NTM, phong trào “Cả nước chung sức xây dựng NTM” giai đoạn 2021-2025 phù hợp với địa bàn tỉnh.

Hai là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng NTM, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế; chỉ đạo các địa phương chủ động ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ thực hiện các nội dung của Chương trình theo hướng nâng cao chất lượng, đi vào chiều sâu và bền vững...

Ba là, chỉ đạo quyết liệt phương châm hành động “Chủ động, sáng tạo, quyết liệt, hiệu quả”; “5 rõ”: rõ việc, rõ người, rõ tiến độ, rõ hiệu quả, rõ trách nhiệm; phối hợp thực hiện hiệu quả nội dung các chương trình, dự án chuyên đề trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân nông thôn và giải quyết các vấn đề bức xúc, tồn tại trong xây dựng NTM (môi trường, an toàn thực phẩm, nước sạch nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo, thực hiện Chương trình OCOP; chuyển đổi số trong xây dựng NTM, phát triển du lịch nông thôn...).

Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy động vốn, bảo đảm huy động đầy đủ, kịp thời theo quy định; căn cứ vào tình hình thực tế; huy động tối đa nguồn lực của địa phương để tổ chức triển khai Chương trình xây dựng NTM.

Năm là, thực hiện lồng ghép hiệu quả nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trên địa bàn nông thôn giai đoạn 2021-2025 để hỗ trợ các địa phương hoàn thành các mục tiêu xây dựng NTM.

Sáu là, thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là bổ sung nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, ưu tiên hỗ trợ triển khai Chương trình OCOP, hỗ trợ áp dụng công nghệ chế biến vừa và nhỏ trong nông nghiệp, môi trường và nước sạch nông thôn; khuyến khích cho vay ủy thác qua ngân hàng chính sách xã hội;

Bảy là, tăng cường vận động các tổ chức kinh tế đăng ký hỗ trợ các huyện, xã thực hiện xây dựng NTM; vận động người dân tiếp tục tham gia đóng góp xây dựng NTM theo nguyên tắc tự nguyện cho từng dự án, nội dung cụ thể, do hội đồng nhân dân xã thông qua.

Tám là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Chương trình ở các cấp, các ngành. Có biện pháp phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện.

Trên cơ sở nhận thức xây dựng NTM là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên tục, tập trung xây dựng NTM bảo đảm hiệu quả, toàn diện và bền vững. Trên cơ sở những thành tựu quan trọng đã đạt được, cùng những chủ trương nhất quán, đúng đắn, kịp thời và những giải pháp hợp lý, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025 sẽ mang đến những đổi thay vượt bậc hơn cho nông nghiệp, người nông dân và địa bàn nông thôn, đạt mục tiêu phát triển bền vững, văn minh, tiến bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Để đạt được mục tiêu đó, cần sự nỗ lực, quyết tâm thông qua các việc làm cụ thể của các cấp ủy đảng, chính quyền, của toàn hệ thống chính trị và sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân trong xây dựng NTM. Phấn đấu đến năm 2025 là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, năm 2030 là tỉnh công nghiệp hiện đại, tạo nền tảng để Hải Dương sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)

Ngày nhận bài: 15-1-2023; Ngày bình duyệt:  04-3-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.

 

(1) ĐCSVN: Nghị quyết Số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.107-108.

(3) Các văn bản của tỉnh như: Quyết định số 115-QĐ/TU ngày 15-02-2011 của Tỉnh ủy Hải Dương về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2010-2020; Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24-9-2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến năm 2020; Thông báo số 563-TB/TU ngày 06-6-2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương năm 2017 và giai đoạn 2016-2020.

(4) 12/12 huyện, thành phố, thị xã đã thành lập Ban chỉ đạo; các Văn phòng Điều phối nông thôn mới cấp huyện; 178/178 xã có cán bộ công chức xã phụ trách xây dựng nông thôn mới theo quy định.

(5) Các số liệu kết quả do tác giả tổng hợp, tính toán từ nguồn các báo cáo và khảo sát.

(6) Các đơn vị hành chính cấp huyện, xã sau khi thực hiện Nghị quyết số 788 /NQ-UBTVQH14 ngày 16-10-2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương.

(7) UBND tỉnh Hải dương: Kế hoạch số1290 /KH-UBND ngày 11-5-2022 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương giai đoạn 2021-2025.

TS PHẠM ĐỨC MINH

Trường Chính trị tỉnh Hải Dương