Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2024

RSF lại giở chiêu bài lạc lõng

Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) - một trong những tổ chức phi chính phủ luôn có cách nhìn thù địch, sai trái đối với Việt Nam đã đưa ra phán xét mang tính quy chụp, vu cáo khi cho rằng “Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới”!

Hình thành từ năm 1985, RSF có tên tiếng Pháp đầy đủ là “Reporters sans frontières”, trụ sở quốc tế tại Paris. Đây là một tổ chức phi chính phủ hoạt động toàn cầu, lấy Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc làm cơ sở để hành động với mục đích được nêu là bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ.

Nhìn vào mục đích trên, nhiều người nghĩ rằng RSF là một tổ chức chân chính, hoạt động vì sự tiến bộ “bảo vệ tự do báo chí”, thúc đẩy tự do và văn minh của thế giới. Nhưng trái ngược với chủ trương của Liên hợp quốc và cũng trái với tôn chỉ được nêu, lâu nay tổ chức này thường xuyên có những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận của một số nước, trong đó có Việt Nam. RSF còn dùng những lời có cánh để công khai bênh vực cho những đối tượng lấy danh nghĩa báo chí để thực hiện các hành vi phạm tội, đã bị xử lý hình sự như Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng… RSF gắn cho họ cái mác “nhà báo độc lập” để qua đó chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam, tìm cách hạ uy tín và kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Tự xưng là bảo vệ nền báo chí thế giới theo phương thức khoa học nhưng từ trước đến nay, RSF không đưa ra được khái niệm về “nhà báo độc lập” và làm rõ nội hàm về “tự do báo chí” một cách cụ thể, rõ ràng để làm cơ sở cho các phán xét của mình. Và với cách tiếp cận không dựa trên nền tảng hiểu biết chung nên phương pháp đánh giá tình hình tự do báo chí của RSF chẳng khác nào “thầy bói xem voi”, luôn mang tính quy chụp, thiếu tính khách quan, thiếu minh bạch.

Trở lại vấn đề nêu trên, việc RSF lấy mục đích bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ để kêu gọi tự do cho các đối tượng chống đối, phạm tội hình sự là một sai lầm lớn và thể hiện sự thiếu tôn trọng tới tính nghiêm minh của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.  “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng hay bất cứ ai khi sinh sống tại Việt Nam thì họ phải chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, không thể lấy danh tiếng là “nhà báo tự do” mà có thể đứng ngoài vòng pháp luật hiện hành; không thể lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do báo chí để viết, phát tán các thông tin sai trái, độc hại hay sản xuất, tung ra các ấn phẩm nhằm tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Việc bắt, xử lý các đối tượng này trước pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng đều có chứng cứ rõ ràng, thuyết phục và xét xử phải căn cứ với điều luật, tội danh tương ứng.  Với các hành vi và những hậu quả gây ra, việc các đối tượng bị toà tuyên các bản án là đã căn cứ, đánh giá khách quan, đầy đủ chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần thấy rằng, việc xét xử, tuyên các bản án đối với bị cáo là biện pháp mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện do các đối tượng phạm tội đến cùng, bất chấp các cơ quan chức năng đã nhiều lần áp dụng các biện pháp giáo dục, khuyên giải, xử lý hành chính mà vẫn “chứng nào tật nấy”, tiếp tục tái phạm, thậm chí ngày càng nguy hiểm, manh động hơn. Do đó, một lần nữa cần khẳng định không hề có chuyện Việt Nam giam giữ nhà báo “tuỳ tiện” như RSF quy chụp.

Đặc biệt, một thực tế cho thấy, sau khi những đối tượng trên bị xử lý trước pháp luật, người sử dụng mạng xã hội tránh được những thông tin xấu độc, sai trái mà trước đó khi còn ở ngoài xã hội, số này liên tục sản xuất, chia sẻ, tung lên gây “bão mạng”. Việc “cắt nguồn” những thông tin sai trái, độc hại từ các trang cá nhân của các đối tượng chống phá tung ra đã góp phần làm “sạch” thông tin theo đúng nghĩa, giảm những bài viết xuyên tạc, bôi nhọ, xâm phạm quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, ngăn ngừa quan điểm mang tính a dua, cổ xuý thông tin sai trái, chống phá cực đoan.

Hơn nữa, qua việc kêu gọi trả tự do cho các đối tượng “đội lốt” nhà báo để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, chứng tỏ giữa RSF và số đối tượng này có mối quan hệ cộng sinh với nhau. Thực tế cũng cho thấy, cơ sở để RSF xếp hạng tự do báo chí, chỉ trích Việt Nam thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, số cơ hội chính trị, có các hoạt động phạm tội, vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp. Việc các cơ quan chức năng bắt, xử lý trước pháp luật các đối tượng này khiến cho “vòi bạch tuộc” của RSF bị “cắt tỉa”, trở nên kém giá trị và kéo theo các nguồn thông tin sai lệch cũng trở nên “khô cạn”.

Đặc biệt, do RSF quá chú trọng bênh vực một cách mù quáng các đối tượng chống đối đội lốt nhà báo nên họ luôn làm ngơ trước thực tế sống động về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Những thành tựu đạt được thể hiện khách quan tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam được các quốc gia, tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận thì RSF và những tổ chức có định kiến lại luôn phớt lờ. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 12/2023, cả nước có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (trong đó có 319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình.

Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Tổng số người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021-2025 tính đến tháng 12/2023 là 20.508 trường hợp, trong đó 7.587 trường hợp có bằng tốt nghiệp đại học trở lên ngành báo chí. Các cơ quan báo chí được chia thành 4 khối sau: 1) Khối báo chí địa phương (bao gồm báo, tạp chí thuộc tỉnh, thành phố, tạp chí thuộc hội văn học nghệ thuật của các địa phương): 143 đơn vị; 2) Khối báo chí Trung ương (Khối Đảng, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội, hội trung ương, cơ quan thuộc tập đoàn, tổng công ty, nhà xuất bản): 347 đơn vị; 3) Khối đài (bao gồm cơ quan hoạt động phát thanh (báo nói), truyền hình (báo hình): 72 đơn vị; 4) Khối Tạp chí khoa học: 320 đơn vị.

Báo chí Việt Nam đã thực sự trở thành diễn đàn ngôn luận và công cụ để bảo vệ tự do và lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Mọi người dân, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo... đều có quyền phát biểu, đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cấp uỷ đảng, chính quyền thông qua báo chí. Nhờ bám sát, đưa thông tin nhanh nhạy, đúng bản chất sự kiện, vấn đề trọng điểm và định hướng dư luận rõ ràng mà báo chí đã làm tốt vai trò phản biện, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt. Đây là thực tiễn khách quan về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác lại luận điệu xuyên tạc của RSF khi cho rằng vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam đang dần xấu đi.

Với 36 đối tượng chống đối mà RSF nêu ra thì có người trước đây từng là nhà báo, công tác tại cơ quan báo chí nhưng sau đó do phạm pháp đã bị tước thẻ nhà báo, không còn được hoạt động báo chí; nhiều trường hợp khác không phải là nhà báo mà chỉ là cá nhân lợi dụng nền tảng số để viết bài, sản xuất các video clip xuyên tạc sự thật trên các trang mạng xã hội. Do đó, việc đánh đồng các trường hợp này thành “bắt nhà báo”, “trấn áp báo chí” là trái với bản chất sự việc. Việc phản ánh sai lệch, thiếu trung thực về tự do báo chí và cổ xúy cho các đối tượng chống đối nêu trên của RSF đã trở nên lạc lõng, hoàn toàn không có giá trị tham khảo trên bất cứ phương diện nào.

Sưu tầm

Âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên.


Âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị đó là là muốn xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện âm mưu này chúng tăng cường sử dụng chiến lược “diễn biến hoà bình”; có thể khẳng định “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị. Chiến lược “diễn biến hòa bình” liên tục được điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, khác với sự chống phá thông qua sách, báo, tạp chí, truyền đơn ... như trước đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng công nghệ 4.0, sức lan tỏa của Internet, mạng xã hội tung ra những thông tin xấu, độc dưới dạng ngắn gọn, kích thích sự nghi ngờ trong nhân dân để chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã tích cực, chủ động triển khai các hoạt động đấu tranh phòng, chống và đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn tồn tại những hạn chế, khó khăn, bất cập trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Để phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thì mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có những hành động cụ thể, đó là:

Thứ nhất, mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Trong đấu tranh phải kiên quyết, linh hoạt, chủ động, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính. Cấp uỷ, chính quyền các cấp nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững lập trường tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của các đơn vị; đồng thời, giữ vai trò định hướng thúc đẩy hành động và hành vi tích cực của cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức về an ninh, quốc phòng, để nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Từ đó luôn đề cao tính cảnh giác, xác định trách nhiệm của bản thân phải cùng toàn dân đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Tích cực chủ động tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn đó, giữ vững ổn định mọi mặt của cơ quan, đơn vị và khu dân cư mình sinh sống, tăng cường mối quan hệ giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh Quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn...

Thứ ba, luôn trau dồi kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ, phấn đấu học tập, lao động theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên theo dõi và cập nhật các thông tin thời sự, chính trị và xã hội để có được sự nhận thức đúng đắn về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có ý thức tự giác, kỷ luật trong quá trình tiếp xúc thông tin; chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin, đồn nhảm, lưu truyền thông tin xấu, thất thiệt. Nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết đánh bại chúng, bảo vệ thành quả cách mạng, nền độc lập, hòa bình để phát triển đất nước; lên án và tranh đấu với các luận điệu sai lệch, xuyên tạc và lợi dụng kẽ hở của xã hội và Nhà nước để chống lại những hoạt động phá hoại.

Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta; vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên vai trò, trách nhiệm đặc biệt quan trọng trong công tác này để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân./.

Sưu tầm

NGĂN CHẶN SỰ XÂM LĂNG VĂN HÓA ĐỂ GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông tin độc hại”.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, chủ động bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết ngăn chặn, phòng, chống xâm lăng văn hóa cũng là một trong những giải pháp căn cơ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Âm mưu thâm độc, hệ lụy khôn lường

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý của nền văn hóa Việt Nam.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, chủ động bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết ngăn chặn, phòng, chống xâm lăng văn hóa cũng là một trong những giải pháp căn cơ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Âm mưu thâm độc, hệ lụy khôn lường

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý của nền văn hóa Việt Nam.

Văn hóa là cội nguồn, là gốc rễ làm nên sức mạnh nội sinh của dân tộc. Với âm mưu thâm độc làm suy yếu sức mạnh nội sinh, thời gian qua, các thế lực thù địch tiến hành nhiều hoạt động xâm lăng văn hóa vào nước ta. Đây là thủ đoạn tinh vi nhằm triệt tiêu tận gốc những giá trị cốt lõi, nền tảng của dân tộc Việt Nam, từ đó truyền bá, tiêm nhiễm những sản phẩm văn hóa xấu độc, lai căng, làm chuyển biến nhận thức, thay đổi hành vi, lối sống của con người. Từ sự chuyển biến về văn hóa dần lan sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Sự xâm lăng văn hóa tuy âm thầm nhưng có thể phá hủy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Các thế lực thù địch tiến hành xâm lăng văn hóa hướng đến các tầng lớp nhân dân, trước hết là giới trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, dễ bị tác động bởi các yếu tố mới lạ, khác biệt.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, các loại thông tin “bẩn” tràn lan cổ vũ, hô hào, kích động bạo lực, đồi trụy, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, phẩm chất tốt đẹp của con người. Các kênh xâm lăng văn hóa rất đa dạng, thông qua phát thanh, truyền hình, phim ảnh, xuất bản, quảng cáo... nhằm chiếm thị trường văn hóa của Việt Nam. Bên cạnh các sản phẩm văn hóa xấu độc xâm nhập, văn hóa ngoại lai cũng đang tràn vào nước ta một cách ồ ạt, khó kiểm soát.

Trong hoạt động giải trí, nhiều người bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài như chụp ảnh quái đản, hút bóng cười, nuôi thú độc, hát cùng dao kéo... Lĩnh vực điện ảnh, truyền hình có tình trạng phim nước ngoài chiếm thời lượng phát sóng lớn, nhạc ngoại tràn lan ảnh hưởng đến thị hiếu của công chúng, sách dịch lậu trôi nổi trên thị trường trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, dễ làm cho công chúng, nhất là người trẻ ngộ nhận, mất phương hướng thẩm mỹ tích cực, thậm chí bị tiêm nhiễm những “virus văn hóa” độc hại mà không hay biết.

Đề cập đến hậu quả của các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai xâm nhập vào nước ta, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” đã cảnh báo: “Nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc”.

Không thờ ơ với nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc từ gốc rễ

Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đi đôi với việc kiên quyết ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa, xâm nhập các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai và thông tin độc hại”.

Điều đó thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng về vấn đề văn hóa là phải kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đại hội XIII nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam”; đồng thời “bảo vệ nền văn hóa, lợi ích quốc gia-dân tộc; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin xấu độc, các văn hóa phẩm ngoại lai, độc hại, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Để giữ gìn, bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đồng thời đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa-nghệ thuật để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau.

Một là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.

Bảo đảm các hoạt động văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trên lĩnh vực văn hóa. Các cấp, các ngành, địa phương cần quan tâm chỉ đạo, giám sát nội dung tư tưởng chính trị trong các hoạt động văn hóa, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa hòng làm thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam.

Cùng với đó, cần quản lý chặt chẽ lĩnh vực hoạt động báo chí, truyền thông, xuất bản; chủ động ngăn chặn, thanh lọc, không để các loại ấn phẩm, văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài, thông tin xấu độc, xuyên tạc thẩm lậu vào Việt Nam.

Hai là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của văn hóa và mối nguy “xâm lăng văn hóa”.

Đã có lúc lĩnh vực văn hóa chỉ được nhận thức đơn giản, phiến diện là bề nổi, là “cờ đèn kèn trống”, mà không phải là nhu cầu thiết yếu của con người và là sức mạnh nội sinh của sự phát triển bền vững. Do vậy, cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức đúng đắn về lĩnh vực văn hóa, coi đó vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội trong chiến lược phát triển đất nước. Đó là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng quan tâm chăm lo phát triển lĩnh vực văn hóa một cách thiết thực, hiệu quả.

Thông qua hệ thống giáo dục quốc gia, các kênh thông tin để tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi công dân đối với mối nguy xâm lăng văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, từ đó nêu cao cảnh giác, nhận diện và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, hành vi phản cảm, trái thuần phong mỹ tục, đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Ba là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị để bảo vệ những giá trị truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.

UNESCO đã cảnh báo cho cả thế giới, hễ ở đâu phát triển kinh tế mà không quan tâm tới yếu tố văn hóa thì ở đó phát triển không bền vững và những hệ lụy đặt ra cho xã hội lớn hơn nhiều so với kinh tế. Mặc dù được cảnh báo từ lâu nhưng để vượt qua điều này không hề dễ dàng, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc rất dễ bị tổn thương.

Muốn giữ được gốc gác cội nguồn dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn hóa và những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, do đó cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Bốn là, tăng cường sức mạnh nội sinh, tạo “sức đề kháng” để phòng, chống xâm lăng văn hóa.

“Sức đề kháng” văn hóa là thứ vaccine để phòng, chống các loại “virus văn hóa” xấu độc. Sức đề kháng mạnh sẽ là tấm khiên chắn vững vàng trước các luồng văn hóa “đen”, thông tin “bẩn” xâm nhập vào nước ta. Ngược lại, sức đề kháng yếu kém sẽ là điều kiện thuận lợi cho các loại “virus văn hóa” độc hại lây lan phát triển, làm băng hoại các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Một trong những giải pháp căn cơ trong phòng, chống xâm lăng văn hóa hiện nay là chúng ta phải quan tâm xây dựng nền công nghiệp văn hóa, coi đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong quá trình hội nhập quốc tế. Việc chú trọng xây dựng công nghiệp văn hóa không những góp phần mang lại nhiều sản phẩm văn hóa tốt đẹp, lành mạnh để phục vụ, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong nước, mà thông qua xuất khẩu những sản phẩm văn hóa đặc trưng của dân tộc ra thế giới, chúng ta còn thu được nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Hơn thế, việc mở rộng thị trường xuất khẩu văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa ra nước ngoài còn góp phần khẳng định, nâng cao vị thế quốc gia, hình ảnh dân tộc trên trường quốc tế.

Theo khuyến cáo của UNESCO, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dù có mang lại nhiều tiện ích văn minh cho cuộc sống con người và cộng đồng, song cũng dễ làm tâm hồn con người trở nên xơ cứng, văn hóa các dân tộc trở nên đơn điệu, nghèo nàn, thậm chí có nguy cơ lụi bại trước sự xâm lăng ngấm ngầm của nền công nghiệp văn hóa nghe nhìn phương Tây đang “tung hoành” hầu như khắp nơi mọi chốn trên thế giới.

Do đó, điều cốt tử để bảo tồn được bản sắc dân tộc là phải vừa chú trọng giữ gìn, vừa bồi đắp, nâng tầm bản lĩnh văn hóa, trí tuệ dân tộc để có đủ khả năng nhận diện, lọc bỏ những “virus văn hóa” lai căng độc hại đang hằng ngày, hằng giờ tác động, thẩm thấu vào xã hội. Nói cách khác, để văn hóa dân tộc Việt Nam trường tồn và phát triển thì vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là đừng để bị cuốn theo những làn sóng văn hóa nước ngoài mà thực chất là bị cuốn vào dòng xoáy xâm lăng văn hóa hết sức tinh vi, nguy hại bởi các thế lực thù địch và những tư tưởng sô vanh, bá quyền về văn hóa.

Với tư cách là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải là lực lượng tiên phong, xung kích, mũi nhọn trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh lực văn hóa, chủ động ngăn chặn các hiện tượng xâm lăng văn hóa từ sớm, từ xa, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không gian văn hóa, non sông gấm vóc của tổ tiên để lại, để dân tộc Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam mãi trường tồn./.

Sưu tầm

VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG LÊNIN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Nghị quyết 37-NQ/TW ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” xác định: Công tác nghiên cứu lý luận có nhiệm vụ “kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc”. Trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”.

Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; phân biệt rõ quan điểm khác, quan điểm lệch lạc với quan điểm sai trái, thù địch…

Trước đây, sự hình thành chủ nghĩa cơ hội tả khuynh một phần cũng chính từ sự non kém về lý luận và thiếu bản lĩnh về chính trị, khiến cho một số đảng viên là lãnh đạo rơi vào chủ quan, duy ý chí, không nắm vững quy luật khách quan... Do vậy, trang bị và nắm vững lý luận chính trị là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay để không bị hoang mang, dao động. Việc không ngừng bổ sung, phát triển lý luận cần gắn liền với việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bởi lẽ sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì “vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt” từ các nhà tư tưởng. Và hơn ai hết, chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa Mác - Lênin mà các nhà kinh điển đã xây dựng “chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Vậy nên cần “nâng cao năng lực khoa học phục vụ phát triển công tác lý luận, đảm bảo cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Với những quan điểm lệch lạc do chưa nhận thức đầy đủ thì cần có biện pháp thuyết phục, trao đổi, chỉ ra những lỗ hổng, thiếu tính khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn trong lập luận của họ, tránh áp đặt ý muốn chủ quan và cũng không nên “đao to búa lớn”. Với những những quan điểm sai trái do cố tình “không hiểu” hay là “đánh tráo khái niệm” thì cần kiên quyết bác bỏ, lên án và đấu tranh không khoan nhượng bằng cơ sở, căn cứ vững chắc về lý luận, thực tiễn và chính trị, pháp lý. Đặc biệt, trong quần chúng nhân dân hay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đôi khi cũng có những quan điểm khác, nhận thức khác với quan điểm của Đảng và Nhà nước - điều này cũng không phải khó hiểu bởi vì nhận thức là một quá trình, cần “đối thoại thẳng thắn... trên tinh thần khoa học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau”.

Phòng chống suy thoái về chính trị tư tưởng, nghiêm khắc xử lý với những sai phạm trong nội bộ.

Nếu như trước đây, nguồn gốc của sự suy thoái, cơ hội diễn ra trong đội ngũ những người cộng sản được V.I. Lênin chỉ ra là “các lãnh tụ  tầng lớp trên của giai cấp công nhân bị hủ hóa, bị mua chuộc, chạy theo giai cấp tư sản” và sự “thỏa mãn với tình thế nhất thời, ánh sáng chói lọi” của CNTB thì hiện nay, dù cách diễn đạt có khác nhưng chung quy vẫn như 27 biểu hiện mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra. Bởi vậy, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng” cùng với đó là những “hạn chế, khuyết điểm mà Đảng ta đã tự đánh giá” nhằm gây sự hoài nghi, bất bình trong nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Từ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có thể xác định những phần tử cơ hội thuộc các “nhóm” sau: Thứ nhất, là những kẻ ra mặt chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, dễ nhận biết và phát hiện; Thứ hai, là những kẻ không ra mặt chống đối nhưng lại có ý đồ rất xa, rất dài, mưu đồ “chui sâu, leo cao” để thực hiện tham vọng; Thứ ba, là những cán bộ, đảng viên thiếu hiểu biết về lý luận chính trị, phai nhạt lý tưởng, dễ ngả nghiêng, dao động, thiếu niềm tin. Theo đó, cần nhận diện đúng các “cấp độ” của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ đảng viên để có biện pháp thuyết phục, đấu tranh phù hợp, hiệu quả, tránh “vơ đũa cả nắm”; chú trọng kết hợp “xây” và “chống”.

Trong đấu tranh, có những trường hợp và thời điểm phải kiên quyết thực hiện giải pháp như V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh là đuổi bọn thoái hóa, biến chất, cơ hội, thù địch, tham ô, không trung thực, xu nịnh... ra khỏi hàng ngũ của Đảng để làm cho uy tín của Đảng được tăng lên, chấp nhận “thà ít mà tốt”. Dù đau xót nhưng phải kiên quyết “cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cây”, “xử một số người để cứu muôn người”, dù người đó là ai, giữ chức vụ gì, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ đạo.

Tiếp tục đẩy mạnh việc “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hàng ngày” như cách nói của Lênin, “đưa chính trị vào giữa dân gian” như cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong tình hình mới, mọi đường lối, chính sách của chúng ta đều nhằm thực hiện 8 phương hướng để hiện thực hóa 8 đặc trưng mà mục tiêu cao nhất và toàn diện là Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn và những nhu cầu chính đáng, hợp pháp, thiết thực của nhân dân. Giá trị đích thực của CNXH ở Việt Nam, mục tiêu tối thượng mà Đảng và Nhà nước ta hướng đến là đời sống của nhân dân, để nhân dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển và đây cũng là bản chất ưu việt của chế độ XHCN.

Được thụ hưởng, được thỏa mãn lợi ích hợp pháp, chính đáng sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy người dân cống hiến, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Đây là cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải kiên quyết phê phán, đấu tranh.

Thường xuyên củng cố, xây dựng đội ngũ chuyên gia sâu sắc về lý luận, am tường thực tiễn; không ngừng nâng cao nhận thức của quần chúng.

Cần có cơ chế để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới là “lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, bảo đảm hài hòa giữa trước mắt với lâu dài, giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng”. Xây dựng “đội ngũ cán bộ đầu đàn và các lớp cán bộ kế tiếp, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” và “có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của các nhà khoa học” theo tinh thần Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ.

Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân, để nhân dân biết rõ các hành vi, hình thức chống phá của các thế lực thù địch; có bản lĩnh vững vàng để không bị lôi kéo vào những hoạt động chống phá, đồng thời có trách nhiệm hơn khi tham gia sử dụng mạng xã hội. Với sức đề kháng của hàng triệu quần chúng thì mọi sự lừa mị, xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch đều trở nên vô nghĩa, lạc lõng. 

Sưu tầm

Lời Bác dạy

“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”..

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương, ngày 18 tháng 6 năm 1968, để bàn về cách thực hiện điều mà Bác đã đề nghị với Ban Bí thư Trung ương Đảng làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”. Đây là thời điểm mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta ở miền Nam thu được nhiều thắng lợi quan trọng, nhưng cũng đặt ra những khó khăn thách thức mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao truyền thống hào hùng của dân tộc, thành tích vẻ vang của Đảng và mỗi con người trong sự nghiệp kiến quốc và đấu tranh giải phóng dân tộc; mà còn nhắc nhở các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ phải triệt để đấu tranh khắc phục tư tưởng sống thỏa mãn trong hào quang, chiến thắng của ngày hôm qua, phải luôn tiến về phía trước, đấu tranh loại trừ ra khỏi hàng ngũ của Đảng, bộ máy nhà nước những người “sa vào chủ nghĩa cá nhân” không còn đủ tư cách, tha hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Thực hiện lời dạy của Bác, toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đã đem hết tài năng và sức lực cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thành tựu hơn 30 năm đổi mới, lời dạy của Bác năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị, là tư tưởng chỉ đạo, bài học thực tiễn sâu sắc để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trưởng thành về mọi mặt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự là lực lượng chính trị, lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong hai cuộc kháng chiến trước đây. Tư tưởng của Bác tiếp tục là ánh sáng soi đường xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở nền tảng, bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; không mơ hồ, mất cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ kiên quyết đấu tranh trên mặt trận lý luận tư tưởng, loại trừ chủ nghĩa cá nhân; khơi dậy tinh thần thi đua sáng tạo, phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Sưu tầm

“Bất cứ công việc gì, thiếu cán bộ khó thực hiện”.

Bất cứ công việc gì, thiếu cán bộ khó thực hiện”.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Tại sao hợp tác xã chưa thấy xuất hiện ở thôn quê?” đăng trên Báo Cứu quốc số 270, ngày 19 tháng 6 năm 1946, với bút danh Q.Th.

Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chúng ta tập trung củng cố chính quyền, quan tâm đến đời sống của nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng, chủ động đối phó với thù trong giặc ngoài. Lúc này ở miền Bắc đang đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác xã kiểu mới theo chủ chương của Chính phủ; song đội ngũ cán bộ của ta còn mỏng về số lượng, phần lớn chưa qua đào tạo, kinh nghiệm về xây dựng hợp tác xã kiểu mới còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những khó khăn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến công tác cán bộ, Người luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ trong mọi công việc; đồng thời, Bác luôn căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải là người tiên phong đưa đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, đi vào quần chúng nhân dân lao động. Biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, do đó: “Cán bộ quyết định mọi việc”.

Hơn 70 năm qua, lời chỉ dẫn của Bác kính yêu về vai trò của cán bộ trong phát triển kinh tế hợp tác xã vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Thấm nhuần tư tưởng ấy, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai các chính sách, cơ chế khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa các loại hình kinh tế, các kiểu hợp tác xã mới với các chương trình đào tạo cán bộ nông nghiệp, đào tạo nghề, hướng dẫn cho nông dân ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật cao vào trong nôi trồng, sản xuất các sản phẩn nông nghiệp chất lượng cao, đã và đang phát huy hiệu quả thiết thực nhằm đưa kinh tế nước ta ngày càng phát triển; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Bác về vị trí, vai trò quan trọng của công tác cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân luôn coi trọng và tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của quân đội trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; tích cực, tự giác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, đội ngũ cán bộ đều giữ vững lập trường, quan điểm, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung thực thẳng thắn, không cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc khoa học, cách mạng, chính quy, dân chủ, kỷ luật, tôn trọng tập thể, đoàn kết thống nhất, gắn bó với quần chúng, tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề thuộc về nguyên tắc, năng động, sáng tạo, nhạy bén, có tính quyết đoán, dám nghĩa, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có tri thức, trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao; có tinh thần trách nhiệm tốt, gương mẫu trong hành động, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, làm có hiệu quả; kiểm tra sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể… đã trực tiếp góp phần nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của Quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Sưu tầm

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói chuyện trước Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 1960. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc đã tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta có một nền công nghiệp, nông nghiệp phát triển, một nền vǎn hóa và khoa học tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ xã hội, người chủ của nước nhà.                                           

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng, không những thể hiện tư tưởng chỉ đạo về mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của con người mới xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo lời dạy của Bác năm xưa để xây dựng văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng cho đội ngũ cán bộ, chiến toàn quân luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tích cực xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc. Chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân không ngừng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Sưu tầm

ĐỘNG CƠ SAI TRÁI, LÀM SAO ĐÁNH GIA ĐƯỢC NHÂN QUYỀN!

Những ngày đầu năm 2024, vẫn theo thông lệ đánh giá tình hình nhân quyền năm cũ và “hướng tới năm mới”, một số tổ chức quốc tế danh xưng theo dõi nhân quyền, tự do dân chủ, báo chí… lại đưa ra các báo cáo, phán xét rồi tung lên mạng internet. Mốc thời gian thì thay đổi, tên nhân vật cũng có những trường hợp bổ sung mới, còn lại ngôn từ, thủ đoạn chống phá ẩn sau các chữ báo cáo, đánh giá, kiến nghị… thì không có gì khác.

Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) hôm 11/1 đưa bài viết vu cáo rằng, Chính phủ Việt Nam trong năm 2023 “đã đàn áp rộng rãi các quyền dân sự và chính trị căn bản, đồng thời trừng phạt nghiêm khắc những người thách thức sự độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam”. HRW viết “2023 là năm u ám về nhân quyền tại Việt Nam”, dùng những lời lẽ phê phán, chỉ trích Đảng, Nhà nước Việt Nam và đưa ra dẫn chứng kiểu “bổn cũ soạn lại”, vẫn là những đối tượng bị cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam bắt, truy tố, xét xử về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ. Đài RFA tung bài viết “Ba tổ chức phi chính phủ đề nghị Liên hợp quốc chất vấn Việt Nam về vi phạm tự do internet”, trong đó chiêu trò vẫn chỉ là sự tung hứng nhằm làm nóng vấn đề nhân quyền, tự do intenet ở Việt Nam, lấy cớ để can thiệp, gây sức ép.

Đây chỉ là sự tiếp diễn các thủ đoạn chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa “báo cáo, kiến nghị, rà soát…” của các tổ chức thù địch, phản động. Cuối năm 2023, tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) - một trong những tổ chức phi chính phủ luôn có cách nhìn thù địch, sai trái đối với Việt Nam đã đưa ra phán xét mang tính quy chụp, vu cáo khi cho rằng “Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới”! RSF dùng những lời có cánh công khai bênh vực cho những đối tượng lấy danh nghĩa báo chí để thực hiện các hành vi phạm tội, đã bị xử lý hình sự như Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng… RSF gắn cho họ cái mác “nhà báo độc lập” để qua đó chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam, tìm cách hạ uy tín và kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc RSF lấy mục đích bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ để kêu gọi tự do cho các đối tượng chống đối, phạm tội hình sự là một hành động sai trái và thể hiện sự thiếu tôn trọng tới tính nghiêm minh của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Tháng 12/2023, trong dịp kỷ niệm ngày Nhân quyền quốc tế, tổ chức Giám sát nhân quyền (HRW) cũng ra “kêu gọi”, đòi Việt Nam “cải tổ gấp quyền con người trước kỳ kiểm định phổ quát sắp đến”. Mặc dù mang cái tên rất mỹ miều là “Giám sát nhân quyền” nhưng mọi hoạt động của tổ chức này đều thể hiện rõ mưu đồ và động cơ chính trị sai trái, thấp hèn. Dù không có mặt ở Việt Nam, không khảo sát thực tiễn, không có những tài liệu chính thống, không hiểu được tình hình nhân quyền ở nước ta nhưng HRW lại luôn tự cho mình quyền phán xét về nhân quyền Việt Nam, kêu gọi Việt Nam “cần khẩn cấp cải tổ quyền con người”. Các thông tin mà HRW có được thực chất từ một vài tổ chức, cá nhân bất mãn, cơ hội chính trị cung cấp. Điều này cho thấy rõ âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ hình ảnh đất nước, con người Việt Nam của HRW. Lần này, HRW lại viết “2023 là năm u ám về nhân quyền tại Việt Nam”! Thực là, khi cái nhìn của họ u ám thì làm sao có thể nhìn thấy được tình hình xung quanh, huống gì ở góc độ nhân quyền vốn đòi hỏi người nhìn phải có tấm lòng ngay thẳng, phải có được chữ “nhân”!

HRW cũng luôn giở trò trao giải thưởng nhân quyền cho các đối tượng có hoạt động chống phá Việt Nam. Đều đặn hằng năm, mạng lưới này tiến hành xét họp, bình chọn, công bố “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” để “tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam”. Đối tượng nào có “thành tích” chống phá đất nước càng nhiều thì tỷ lệ được trao giải thưởng càng cao. Bởi thế, các đối tượng Trần Văn Bang, Y Wô Niê, Lê Trọng Hùng – những kẻ đang phải chấp hành án phạt tù về các hoạt động chống phá đất nước được tổ chức này “vinh danh”, tán dương. Tương tự, cùng với tổ chức ngoại vi của mình là VHRN, tổ chức phản động Việt Tân cũng tiến hành trao giải thưởng nhân quyền với tên gọi “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” để ca ngợi, cổ súy cho các hoạt động chống phá Việt Nam. Năm nay Việt Tân đã tổ chức bình chọn, trao giải và xướng tên đối tượng Trương Văn Dũng.

Điểm chung của trò lố “Giải thưởng nhân quyền” là các đối tượng được các tổ chức này trao giải đều có các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc nhằm gây hoang mang trong nhân dân, thể hiện thái độ thù ghét, bất mãn đối với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đằng sau trò lố đó là tìm kiếm nguồn tài chính hỗ trợ, đồng thời để cho các đối tượng trong nước bấu víu, tiếp tục tiến hành các hoạt động phá hoại.

Trong khi đó, bức tranh nhân quyền và tiếng nói, vị thế của Việt Nam được thế giới khẳng định, ghi nhận. Tại buổi tiếp báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về quyền phát triển Surya Deva (nhân chuyến thăm làm việc tại Việt Nam từ 6-15/11/2023), Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt chia sẻ cách tiếp cận của Việt Nam là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người; khẳng định Việt Nam luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, là chủ thể và động lực của quá trình phát triển. Hiện nay, Việt Nam đang đặt ưu tiên cao cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, với nhiều nỗ lực trong giảm nghèo đa chiều, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, hướng tới thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Ông Deva đánh giá cao các dấu ấn, sáng kiến của Việt Nam trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và sự tham gia trách nhiệm, tích cực trong Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát về quyền con người (UPR). Chia sẻ thông tin về các ưu tiên trong nhiệm kỳ công tác, ông Deva khẳng định sẽ tiếp tục duy trì cách tiếp cận tổng thể, cân bằng, minh bạch, thúc đẩy hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm và tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng, triển khai và giám sát chính sách phát triển.

Ngày 4/12/1986, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết A/RES/41/128 Tuyên bố về quyền phát triển, trong đó khẳng định: “Quyền phát triển là một quyền con người không thể chia cắt. Xuất phát từ ý nghĩa của quyền đó, mọi người và mọi dân tộc đều có quyền được tham gia vào, đóng góp cho và hưởng thụ thành quả từ sự phát triển về kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị, trong đó mọi quyền con người và các tự do cơ bản cần phải được thực hiện một cách đầy đủ”. Tại Nghị quyết 33/14 (2016) của Hội đồng Nhân quyền thành lập cơ chế báo cáo viên đặc biệt về quyền phát triển, báo cáo viên đặc biệt được yêu cầu phải “đóng góp vào sự bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện quyền phát triển trong bối cảnh thực hiện một cách đồng bộ Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và các văn kiện quốc tế khác”.

Trong hai ngày 11 và 12/12/2023, sự kiện cấp cao kỷ niệm 75 năm thông qua Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền đã diễn ra thành công tại trụ sở Văn phòng Liên hợp quốc ở Geneva với nhiều hoạt động, nội dung thảo luận quan trọng và cam kết mạnh mẽ. Đoàn Việt Nam do Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai (Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva) dẫn đầu đã tích cực tham dự sự kiện cấp cao này. Phát biểu tại sự kiện, Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai tái khẳng định các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam thúc đẩy Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền với nhiều nỗ lực và hành động hơn nữa để đảm bảo tốt hơn các quyền con người cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong đó có các ưu tiên trọng tâm gồm tăng cường Nhà nước pháp quyền với việc tiếp tục cải cách tư pháp nhằm nâng cao nền tảng thể chế, tư pháp và chính sách liên quan đến nhân quyền, đồng thời chuyển các quy định của các điều ước quốc tế về nhân quyền vào luật pháp quốc gia. Việt Nam cam kết thúc đẩy các biện pháp hiệu quả và phân bổ đủ nguồn lực để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và chính trị; tham gia có trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và phát huy vai trò cũng như hiệu quả của hội đồng, đặc biệt quan tâm đến quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.

Tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (tổ chức ngày 4/12/2023), Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết có 4 quan điểm được Đảng, Nhà nước ta tiếp cận đầy đủ, toàn diện, hệ thống, trong đó khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc. Về phương thức để phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết, trong Nghị quyết số 43-NQ/TW nêu rõ: “Đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ XHCN, tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển”.

Thành tựu về nhân quyền là hiện thực khách quan, điều đó được Liên hợp quốc và các nước công nhận. Vậy mà những tổ chức xưng theo dõi nhân quyền hay tự do báo chí như HRW, RSF… lại không nhìn ra, ấy là bởi động cơ sai trái thì làm sao thấy hiện thực khách quan!

Sưu tầm

THỰC TIỄN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG LÊNIN TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LOẠI CƠ HỘI, THÙ ĐỊCH Ở NƯỚC TA

Mặc dù ở Việt Nam chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách là một lực lượng hay một phong trào có khả năng ảnh hưởng đến cách mạng, nhưng vẫn còn tồn tại những tư tưởng hay những biểu hiện hữu khuynh và tả khuynh dưới những mức độ khác nhau. Ngoài ra, việc các thế lực thù địch phản động câu kết gia tăng sự chống phá đã khiến chúng ta phải thường xuyên, kiên quyết đấu tranh phản bác, ngăn chặn các loại cơ hội, các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, từ sau khi CNXH hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhiều luận điệu xảo trá đã được tung hô với những thủ đoạn, hình thức khác nhau nhằm tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Trước tình thế đó, việc đấu tranh trực diện, không khoan nhượng, thật sự kiên quyết được đặt ra cấp bách nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ và những thành quả của công cuộc đổi mới.

Một dấu mốc quan trọng trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái thù địch là ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đưa việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được thực hiện một cách bài bản, đồng bộ hơn với nhiều kết quả khả quan. Từ đó, làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn hòng việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”; làm thất bại các hoạt động lợi dụng đổi mới để gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng.

Công tác tổng kết, nghiên cứu lý luận được chú trọng, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN; công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều đổi mới, sáng tạo về nội dung, hình thức, phát huy tốt vai trò định hướng dư luận, nhất là trên mạng xã hội. Qua đó, kịp thời tuyên truyền, khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thông tin tích cực, thuyết phục, có sức lan tỏa, giáo dục, đẩy lùi các thông tin xấu, độc; góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch vẫn diễn ra với tính chất ngày càng tinh vi, thâm độc hơn; hệ thống internet, mạng xã hội phát triển đã trở thành công cụ hữu hiệu để chúng lợi dụng triệt để xuyên tạc, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gây nên sự hoài nghi trong xã hội...

Mặt khác, thực tiễn đổi mới, hội nhập đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu, giải đáp thấu đáo về lý luận. Công tác “đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”(5); việc lôi cuốn sự tham gia đông đảo của cán bộ, nhân dân chưa nhiều; đội ngũ làm công tác đấu tranh còn chưa đủ về số lượng và mạnh về chất lượng; tính chiến đấu, tính khoa học, tính sắc bén trong lập luận chưa cao nên tính thuyết phục còn hạn chế; công tác quản lý thông tin trên mạng chưa theo kịp tình hình... Đó là những khoảng trống cần sự bù đắp kịp thời để phát huy tốt hơn công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay.

Sưu tầm

TƯ TƯỞNG LÊNIN VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LOẠI CƠ HỘI, THÙ ĐỊCH

Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình tồn tại, học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác - Lênin, đã luôn bị các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội ra sức chống phá quyết liệt. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các chính đảng cũng như phong trào công nhân trên thế giới, đến việc hiện thực hóa khát vọng giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người của giới cần lao.

Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, Quốc tế II đứng trước những mối nguy lớn khi chủ nghĩa cơ hội hoành hành, đe dọa vai trò lãnh đạo, tập hợp và thống nhất các đảng. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc bấy giờ, đã có những người rời bỏ hàng ngũ cộng sản của mình để nhân nhượng, thỏa hiệp và thậm chí phản bội lại sứ mệnh của giai cấp công nhân. Những người này đã “khoác áo Mác để chống Mác”, mặc dù bên ngoài không công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng thực chất lại đang quay lưng với những nguyên lý cách mạng và linh hồn sống của chủ nghĩa Mác.

Khi chủ nghĩa cơ hội đã được hình thành và phát triển với những tư tưởng, quan điểm có tính hệ thống, thậm chí trở thành một học thuyết chính trị - xã hội thì ảnh hưởng rất tiêu cực đến phong trào công nhân, làm lung lay niềm tin, “làm hư hỏng phong trào công nhân”, “biến nhiệm vụ giành chính quyền từ quan trọng thành không quan trọng; biến hình thức đấu tranh nghị trường là thứ yếu sang hình thức đấu tranh chủ yếu; biến đấu tranh kinh tế từ thứ yếu thành chủ yếu dẫn tới quá coi trọng và đề cao đấu tranh kinh tế, hạ thấp vai trò đấu tranh chính trị”. Họ dễ dàng thỏa hiệp với giai cấp tư sản, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận cách mạng vô sản và cố gắng đưa phong trào công nhân nằm trong “giới hạn có thể chấp nhận được” đối với giai cấp tư sản, khiến cho phong trào công nhân chỉ như “giậm chân tại chỗ”. Điều này đã tạo nên tâm lý hoài nghi về thắng lợi của phong trào công nhân cũng như “làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng Cộng sản, kéo lùi phong trào công nhân ở các nước”.

Đến những năm 1914 - 1915, chủ nghĩa cơ hội biến thành chủ nghĩa cơ hội sôvanh phản động khi công khai ủng hộ giai cấp tư sản gây chiến tranh đế quốc để phân chia lại thị trường và thuộc địa, tiếp tay cho việc đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Những tác hại mà chủ nghĩa cơ hội cũng như các trào lưu tư tưởng cực đoan đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là rất lớn.

V.I.Lênin đã kiên quyết phê phán các luận điểm của chủ nghĩa cơ hội với các đại biểu như E. Bécxtanh, C. Cauxky, chủ nghĩa dân túy với những đại biểu tiêu biểu như Mikhailốpxki, Crivencô, Giacốp; quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái kinh tế với các gương mặt như Cuxcôva, A. Máctưnốp, X.N. Prôcôpôvích; quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái Mensêvích do Máctốp đứng đầu, hay đấu tranh chống bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản đem đến nguy cơ làm chệch hướng phong trào giải phóng của giai cấp vô sản.

Với thái độ kiên quyết, dứt khoát, triệt để, V.I.Lênin đã không chỉ công khai đấu tranh trên lĩnh vực lý luận mà còn thẳng thừng loại bỏ những đối tượng này ra khỏi hàng ngũ của Đảng và xem đó như việc “tẩy rửa chất mủ” trong chính “cơ thể” của phong trào cộng sản, mặc dù có chịu đau đớn nhưng “Điều rất cần thiết hiện nay, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân”. Đồng thời, V.I.Lênin còn luôn chú trọng việc giữ vững tính đảng, không nhân nhượng về mặt lý luận trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội và các loại hình thù địch. Muốn vậy, lý luận phải thật sự sắc bén, thật sự am tường và không còn cách nào khác là phải nâng cao trình độ, tăng cường hệ tư tưởng XHCN cho giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Người cũng đã chỉ ra cần xác định những nội dung, phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp, có hiệu quả.

Sưu tầm