Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2024

Hồ Chí Minh kết tinh, tỏa sáng những giá trị thời đại

Giá trị thời đại ở đây trước hết là học thuyết Mác - Lênin, ánh sáng soi đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, là tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều mặt, trên cơ sở đó không chỉ mở đường cho dân tộc mình mà còn mở đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh từng bước xác lập một hệ thống tư tưởng với những luận điểm sáng tạo, đúc kết thành quy luật giải phóng và phát triển ở các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Cống hiến lớn lao của C.Mác, Ph.Ăngghen là xác lập CNXH khoa học, vạch ra quy luật tiến hóa của lịch sử loài người, chỉ ra con đường cách mạng, giải phóng những người bị áp bức trên thế giới. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác, cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin là lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên ở nước Nga và tiên đoán làn sóng cách mạng diễn ra ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười rọi chiếu ánh sáng tới triệu triệu người trên trái đất. Hồ Chí Minh là số ít trong những “nhân vật huyền thoại” tiếp thu được ánh sáng Tháng Mười, hưởng ứng lời kêu gọi của V.I.Lênin, đưa CNXH khoa học về cho dân tộc mình.

Trong khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định, Việt Nam không làm cách mạng vô sản kiểu Nga mà làm cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đây là con đường duy nhất đúng để cứu nước và giải phóng dân tộc. Người rút ra, muốn thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người thì phải thành lập Đảng kiểu mới theo học thuyết Mác - Lênin. Đảng đó không phải chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, mà phải kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó chính là quy luật ra đời của Đảng Cộng sản đối với các nước như Việt Nam.

Cống hiến của Hồ Chí Minh mà quốc tế ghi nhận là để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nếu V.I.Lênin là bậc thầy trong lên án mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi thế giới, thì Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng sản viết nhiều, tố cáo sâu sắc tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân. Trăn trở về số phận của các dân tộc thuộc địa, Người đưa ra bản án đối với chế độ thực dân Pháp. Đây là tư duy và cách làm cần thiết để thức tỉnh các dân tộc thuộc địa chìm đắm trong áp bức, bóc lột, đè nén của chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh nêu cao ngọn cờ và tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Đặt ra cho mình sứ mệnh giải phóng dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào sự nghiệp vẻ vang đó. Người đã hiện thực hóa giá trị về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, đồng thời mở rộng, nâng cao quyền con người thành quyền của các dân tộc. Quan điểm của Hồ Chí Minh đi trước nghị quyết của Liên hiệp quốc, khi năm 1960 tổ chức này mới tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.

Cách đây 100 năm, nhà thơ Liên Xô Ôxíp Manđenxtam qua cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc, cảm nhận từ phong cách, phong thái của Người, ông viết: “Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị... Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải là văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai... Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”. Nghị quyết của UNESCO khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân cho những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt xuất của lịch sử bởi những đóng góp của Người vào kiến tạo hòa bình, hòa giải, thúc đẩy và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Phát hiện và khai thác điểm chung mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội trong chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo là một tư duy hiếm thấy trong tư tưởng nhân loại. Theo Người, văn hóa Việt Nam là sự kết hợp có chọn lọc văn hóa phương Đông và phương Tây.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp nhận các trào lưu tư tưởng, là giao hòa sự đa dạng, tôn trọng các nền văn hóa, sự kết tinh các giá trị thời đại, mở ra xu hướng trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa, góp phần thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Trong Hội thảo quốc tế tổ chức tại Việt Nam Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một đại biểu phát biểu: “Chúng tôi đến đây, có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”. Tại Hội thảo quốc tế lớn với chủ đề “Hồ Chí Minh - Việt Nam - Hòa bình thế giới”, nhân dân Ấn Độ cảm ơn Việt Nam, ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, coi Người là lãnh tụ của Việt Nam và của cả chính họ. Dự hội thảo có khoảng 12.000 người xếp thành hình ảnh Hồ Chí Minh, thành khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”. Tổng thống Ấn Độ coi kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhiệm vụ quốc tế mà còn là nhiệm vụ của quốc gia Ấn Độ.

Hồ Chí Minh đã tạo nên “chất keo” gắn kết các dân tộc, sợi dây bền chặt nối liền các nền văn hóa. Chính những suy nghĩ, việc làm tiến bộ, tích cực của Người đã xóa bỏ những rào cản của các nền văn hóa khác nhau liên quan đến chủng tộc, màu da, tiếng nói, tôn giáo, thể chế chính trị. Theo Hồ Chí Minh, hòa bình là khát vọng của nhân loại tiến bộ. Chế độ chính trị khác nhau không ngăn cản việc chung sống hòa bình và phấn đấu cho một nền hòa bình bền vững. Người “tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hòa bình; tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh chỉ ra giải pháp thiết lập một nền hòa bình bền vững trên thế giới là mỗi dân tộc cần có ý thức và trách nhiệm về giá trị cao quý của hòa bình và bằng mọi cách để có được hòa bình. Các nước, nhất là những nước lớn, cần có thái độ hợp tác chân thành, giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng hòa bình, không đe dọa và dùng vũ lực, không có thái độ “cá lớn nuốt cá bé”. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất, đề cao việc thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau. Trong trao đổi và đối thoại văn hóa, Hồ Chí Minh đã tạo ra một công cụ hữu hiệu để kiến tạo hòa bình. Câu nói nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” có giá trị toàn cầu vì nó khẳng định khát vọng về những giá trị chung của nhân loại; đoàn kết thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản, bốn biển đều là anh em”; là tình hữu nghị, hữu ái giữa nhân dân các nước; là thái độ và tấm lòng vị tha, nhân văn, nhân đạo cao cả, v.v..

Hồ Chí Minh yêu Tổ quốc và đồng bào mình, cũng yêu nhân dân và Tổ quốc các nước. Người quý trọng sinh mệnh của người Việt Nam cũng như sinh mệnh của người nước khác. Trong ngày thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, trở lại xâm lược Việt Nam (23-9-1945), cùng với việc phê phán một số người Pháp gây nên cuộc xung đột đổ máu giữa hai bên, Hồ Chí Minh “nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”. Người “cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”.

Khi Hồ Chí Minh qua đời, Đảng Cộng sản Mỹ trong điện chia buồn đã viết những lời hết sức cảm động: “Nhân loại đã mất một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người thầy mácxít - lêninnít xuất sắc mà tấm lòng ưu ái đầy thi vị mong muốn một thế giới tốt đẹp có hương hoa tươi thắm và tiếng cười náo nức của trẻ em đã thấm nhuần vào chủ nghĩa nhân đạo toàn diện của cuộc đời mà Người đã sống, thấm nhuần vào những việc kỳ diệu mà Người đã làm và sự nghiệp trọn đời Người đã phục vụ. Tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại nhằm thực hiện một khối cộng đồng anh em thực sự của nhân dân các nước được hưởng quyền bình đẳng và được thỏa mãn đầy đủ về những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới không có chiến tranh, không có sự tàn bạo, nghèo khổ và phân biệt đối xử”. Một đại biểu Mỹ phát biểu trong Hội thảo quốc tế Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được”.

Bạn bè thế giới, học giả quốc tế đã nói lên những điều chúng ta cần nói về Hồ Chí Minh - người kết tinh, tỏa sáng những giá trị trường tồn của thời đại. Đúng như ngài Rômét Chanđra, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới đã viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.

Sưu tầm

Hồ Chí Minh là sự kết tinh, tỏa sáng những giá trị dân tộc

Trên nền tảng một lãnh thổ chung, “một tiếng nói chung”, một lối sống mang sắc thái riêng, dân tộc Việt Nam đã tự khẳng định sự tồn tại của mình, bản lĩnh vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, vững vàng tiến lên. Trong hơn 1.000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc, qua “Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống” (Ngô Quyền xưng vương hiệu 939 sau chiến thắng Bạch Đằng), suốt thời kỳ Đại Việt, những lời thề và quốc hiệu Việt Nam chứa đựng biết bao giá trị về tinh thần quật cường, bất khuất, tự cường, tự chủ, tự lập, sáng tạo. Đó là khí phách “rửa sạch nước thù để nối lại nghiệp xưa họ Hùng”, khẳng định chủ quyền “Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” (Trưng Trắc). Đó là phụ nữ Lạc Hồng muốn “cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta” (Bà Triệu). “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo... lấy yếu chống mạnh...lấy ít địch nhiều” (Nguyễn Trãi). Lời vua Lê Thánh Tông: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện bỏ đi được”. Đó là sự khẳng khái “đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ nói với vua Trần); Trần Quốc Tuấn với nhiệt huyết “Sát Thát”; là đồng thanh “Quyết đánh” trong Hội nghị Diên Hồng (triều Trần với cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên); là lời nói đanh thép “nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã” (Trần Quốc Tuấn); “ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc (Trần Bình Trọng); là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” (nhà Trần). Đó là ý thức tự chủ với những quốc hiệu như: Vạn Xuân (năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tuyên bố dựng nước, đặt quốc hiệu Vạn Xuân), Đại Việt (năm 1054 thời vua Lý Thánh Tông)...

Việt Nam là trường hợp hiếm thấy trong lịch sử thế giới khi đã mất chủ quyền 1.000 năm vẫn giành lại được. Không nhiều nước như Việt Nam, dù kẻ thù quân đông, vũ khí mạnh, nhiều lần xâm lược nước ta nhưng bằng sức mạnh đoàn kết, cả nước chung sức, trí thông minh, sáng tạo, lòng hy sinh quả cảm, chúng ta đều giành thắng lợi: Lý Thường Kiệt hai lần chống Tống thắng lợi (1075, 1077); quân Mông - Nguyên ba lần xâm lược Đại Việt đều bị đánh bại (1285, 1287, 1288); ba trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, đánh tan giặc ngoại xâm, nhấn chìm dã tâm xâm lược của các thế lực bành trướng phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938; Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) đại thắng quân Tống năm 981; Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Mông - Nguyên năm 1288); v.v..

Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển các giá trị của dân tộc trong thời đại mới, Người cho rằng, việc cứu nước và giải phóng dân tộc mình không thể dựa vào bất kỳ nước nào, dù đó là Nhật, Anh hay Mỹ. Bởi dựa vào nước đế quốc này để đánh đổ chế độ thực dân kia là cách làm “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Phải đi ra nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá, xem xét các nước họ làm thế nào rồi tự mình tìm ra con “Đường cách mệnh” cho dân tộc mình. Khi bắt gặp lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Với Người, giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ phương pháp làm việc biện chứng, là cái cẩm nang thần kỳ, là “kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”.

Hồ Chí Minh là người “tìm đường” (1911-1920), “mở đường” (1920-1930), “dẫn đường” (1930-1945), “thiết kế tương lai” (1945-1969). Giá trị dân tộc được kết tinh ở Người với quyết tâm: Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập. Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do, v.v..

Sau khi “tìm đường đi cho dân tộc theo đi” - con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Người cùng cả dân tộc “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, “biến người nô lệ thành người tự do”, đem lại quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho mỗi người và cả dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Người vạch ra một lộ trình sau khi nước Việt Nam giành được độc lập sẽ đi theo con đường riêng của mình, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Luận điểm sáng tạo về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chưa có tiền lệ trong lịch sử là một kinh nghiệm quý cho các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo với hai điểm cốt yếu sau:

Thứ nhất, Người có cách nhìn “động” về xã hội, về thế giới, về tình hình khách quan, về nhân dân như là cơ sở cho tinh thần đổi mới, sáng tạo. Theo Người, xã hội ngày một phát triển, thế giới ngày càng đổi mới, tình hình khách quan thay đổi hằng giờ hằng phút, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên tư tưởng, hành động, chủ trương, năng lực, sáng kiến của ta cũng phải thay đổi cho kịp. Mặt khác, chủ trương hôm nay đúng đắn, nhưng vì tình hình khách quan thay đổi nhanh chóng nên có thể hôm sau không hợp thời, quá thời, sai hỏng. Vì vậy, phải tỉnh táo kiểm điểm, bỏ đi những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời để không bị bỏ rơi, không bị những người nhanh nhẹn vượt lên trước, để theo kịp tình thế. Còn “nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi tình thế đổi mới, ta đủ gan góc, đủ tinh thần phụ trách để quyết định phương hướng chính trị mới, thay đổi cách thức công tác và đấu tranh, dám bỏ những khẩu hiệu và những nghị quyết đã cũ, không hợp thời, đưa những nghị quyết và khẩu hiệu mới thay vào”.

Người dày công nghiên cứu thực tiễn, mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước và khả năng thích ứng của con người Việt Nam với từng giai đoạn phát triển. Xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người phải thích ứng và phát triển thuận chiều cùng với sự phát triển của xã hội. Người viết: “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến. Chúng ta phải kháng chiến thắng lợi, phải thực hiện dân chủ mới, phải tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”.

Thứ hai, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ hoàn cảnh đặc biệt của nước ta, đất nước hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, gần trăm năm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ vô cùng gian nan, phức tạp, khó hơn nhiều so với việc đánh giặc, thắng đế quốc và phong kiến. Đây là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức”.

Hồ Chí Minh nhìn nhận, khó khăn của cuộc cách mạng XHCN ở Việt Nam bắt đầu từ những đặc điểm, nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Không như cách mạng vô sản Nga, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền là bước ngay vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam phải qua chín năm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong hoàn cảnh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, chuẩn bị tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa để khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội dung, bước đi, biện pháp xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Vạch ra con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh bổ sung vào lý luận và thực tiễn CNXH những đặc điểm, bản sắc Việt Nam. Nghiên cứu CNXH trong di sản Hồ Chí Minh, chúng ta dễ dàng nhận ra tư tưởng của Người về đặc trưng, mục tiêu, động lực của CNXH Việt Nam, trong đó phản chiếu ánh sáng của CNXH khoa học theo học thuyết Mác - Lênin nhưng rất Việt Nam, đậm dấu ấn Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp cách mạng ba cuộc giải phóng của Việt Nam, từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con đường phát triển vô hạn của dân tộc, xã hội và con người”. Xây dựng CNXH theo bản sắc Việt Nam theo lý giải của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “là phương hướng, là ý nguyện, là mục tiêu mà Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Đối với con người Việt Nam ta, từ những năm 20 của thế kỷ này, ý chí độc lập dân tộc gắn liền với ý chí xã hội chủ nghĩa”.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tiến hành gần được 40 năm. Đảng đề ra mục tiêu của đổi mới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Thực chất quan điểm của Đảng chính là chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam. Phạm Văn Đồng cho rằng: “kết quả cuối cùng của công cuộc đổi mới là tạo ra một xã hội xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Việt Nam, mang đậm dấu ấn thiên tài và cốt cách dân tộc, trong mục tiêu và động lực, trong con đường, bước đi và cách làm”.

Sưu tầm

Xây dựng các đơn vị cơ sở trong Quân đội vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, qua đó góp phần xây dựng Quân đội trưởng thành về mọi mặt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Hiện nay, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội trong tình hình mới đòi hỏi cần xây dựng các đơn vị cơ sở - tổ chức nền tảng của Quân đội ngày càng vững mạnh về chính trị, góp phần xây dựng các đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trung thành, vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng Quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng Quân đội về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở xây dựng các mặt khác. Với quan điểm “chính trị trọng hơn quân sự”, Người khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương, chính sách. Đã là quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng”.

Người đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc cho Quân đội, xem đó là nội dung cốt lõi, công cụ chắc chắn nhất để xây dựng thành công và bảo đảm cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng; xứng đáng là Quân đội của dân, do dân và vì dân. Người cho rằng, muốn cho Quân đội trở thành một đội quân vô địch thì Đảng phải đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, làm cho cán bộ, chiến sĩ “có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát cô đọng, đầy đủ nhất những vấn đề có tính nguyên tắc và nội dung cơ bản xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Quân đội ta có tinh thần yêu nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vô sản cao cả”.

Theo Bác, để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị cần phải củng cố, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cần phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ có lập trường kiên định, vững vàng, hoàn thành trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân. Người chỉ ra rằng: “Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải bảo đảm sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội”.

Người luôn coi trọng việc xây dựng sự đoàn kết, thống nhất, thực hành dân chủ và kỷ luật nghiêm minh trong Quân đội, coi đó là nguồn sức mạnh của mọi thành công. Bên cạnh đó, Người coi trọng việc xây dựng, củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó “máu thịt” giữa Quân đội với nhân dân, bảo đảm cho Quân đội là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người nhắc nhở: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu... Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân... Dân như nước, quân như cá”. Bên cạnh đó, Người yêu cầu cần chú trọng giáo dục tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, giữa quân đội ta với quân đội các nước anh em, xây dựng tinh thần quốc tế vô sản trong sáng cho cán bộ, chiến sĩ, tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc tế với tinh thần “giúp bạn tức là mình tự giúp mình”.

Xây dựng các đơn vị cơ sở trong Quân đội vững mạnh về chính trị đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới 

Suốt 80 năm qua, quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng với Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm nên những chiến thắng vẻ vang, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, khó lường; xung đột quân sự, tranh chấp biển đảo, chạy đua vũ trang ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “phi chính trị hóa quân đội”. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội đang đặt ra nhiều vấn đề mới. Mặt trái của kinh tế thị trường, sự tác động đa chiều của khoa học công nghệ, in-tơ-nét, mạng xã hội cùng những tiêu cực, tệ nạn xã hội tác động không nhỏ tới tư tưởng của các bộ, chiến sĩ ở các đơn vị trong Quân đội.

Ngày 24-11-2023, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”. Do đó, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng các đơn vị cơ sở trong quân đội vững mạnh về chính trị là một yêu cầu khách quan, là một đòi hỏi cấp bách đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của Quân đội.

Theo Hướng dẫn số 1773/HD-CT ngày 21-10-2022 của Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện tiêu chuẩn 1 “vững mạnh về chính trị” trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, nội dung, chỉ tiêu xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị bao gồm: (1) Về chính trị tư tưởng: Cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức, lối sống của người quân nhân cách mạng; có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. (2) Cấp ủy, tổ chức đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ. (3) Đội ngũ cán bộ bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cán bộ làm công tác cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. (4) Thực hiện tốt công tác bảo vệ an ninh, dân vận và chính sách. (5) Các tổ chức quần chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hội đồng quân nhân vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. (6) Thực hiện có hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; chấp hành nghiêm chế độ, nền nếp công tác đảng, công tác chính trị.

5 giải pháp trọng tâm

Một là, tăng cường sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của các cấp uỷ và tổ chức đảng đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội về chính trị ở đơn vị cơ sở. Toàn bộ hoạt động ở đơn vị đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất của cấp uỷ và tổ chức đảng. Do đó, cần thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đủ số lượng, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, phân công, phân cấp rõ ràng cho từng cấp uỷ viên, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp uỷ và tổ chức đảng. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội; đẩy mạnh phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở. 

Hai là, tiếp tục cụ thể hóa nội dung, đa dạng hóa hình thức, biện pháp xây dựng các đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Các đơn vị cần căn cứ vào các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của cấp trên, đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị, từ đó xây dựng kế hoạch xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”. Xác định cụ thể những nội dung, biện pháp tiến hành trên các mặt: chính trị tư tưởng; xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; công tác bảo vệ an ninh, dân vận, chính sách; xây dựng tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân; thực hiện chế độ, nền nếp công tác đảng, công tác chính trị... Các tổ chức, các lực lượng cần quán triệt, cụ thể hóa theo chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm thiết thực, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm, tạo được sự cuốn hút, hấp dẫn đối với mọi quân nhân trong đơn vị. 

Ba là, không ngừng nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị cơ sở. Thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng loại hình đơn vị. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thi đua khen thưởng. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện tốt Cuộc vận động với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các phong trào thi đua, các cuộc vận động bằng nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Xây dựng sự đoàn kết giữa cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị và xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế. Tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Các cấp ủy cần tiếp tục làm tốt các khâu, các bước trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của đơn vị. Đồng thời, cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp trong xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Chính ủy, chính trị viên cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Kịp thời biểu dương gương người tốt, việc tốt và nhắc nhở, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết của đảng ủy. 

Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân trong xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị hiện nay. Các cấp ủy, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cán bộ, đoàn viên, hội viên phát huy tốt năng lực, trách nhiệm của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, phát huy và mở rộng dân chủ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để họ tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các hoạt động của đơn vị, nhất là hoạt động xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. 

Sưu tầm

Phát triển đội ngũ nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho đội ngũ giáo viên và những người làm công tác giáo dục. Trong tư tưởng của Người, chúng ta luôn tìm thấy những trăn trở, những yêu cầu, những lời dặn dò và kỳ vọng đối với việc xây dựng đội ngũ những người thầy trong xã hội.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ giáo viên luôn giữ một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, họ là người quyết định thành công công cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục.Không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Người còn khẳng định vai trò không thể thay thế của người giáo viên trong sứ mệnh đào tạo thế hệ trẻ. Trong bài phát biểu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (10-1964), Bác đã nói: Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Vì vậy, nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sữa chữa”.

Với Người, sự nghiệp trồng người - giáo dục, đào tạo được xác định rõ là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Họ chính là lực lượng then chốt, quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo. Vì lẽ đó, Bác đã dày công xây dựng hệ thống quan điểm về những tiêu chuẩn, phẩm chất cần có của đội ngũ nhà giáo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, bao gồm:

Thứ nhất, mỗi một thầy giáo cần phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nhân cách, trau dồi đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đặc biệt chú trọng đến quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của Đảng, của từng cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ những người làm nghề giáo. Đó không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, mà còn là nỗi bận tâm đau đáu của Người. Cũng tại buổi nói chuyện tháng 10-1964, tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Bác đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường: “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng”. Với Người, việc luôn trau dồi đạo đức cách mạng đã trở thành một nhiệm vụ tất yếu, tối quan trọng, là điều kiện “cần” và “đủ” mà tất cả thầy cô giáo đều phải hướng đến.

Thứ hai, nhà giáo phải luôn là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thầy - một nhà giáo dục vĩ đại, cả cuộc đời, Người đã giáo dục, đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng... Sức mạnh giáo dục và cảm hóa của Người làm khuất phục cả những kẻ thù ở bên kia chiến tuyến, đưa họ trở về với chính nghĩa, với lương tri của con người. Để có được điều đó là do ở Bác hội tụ đầy đủ tri thức, bản lĩnh và một nhân cách cao đẹp về tư tưởng, đạo đức và lối sống, là một tấm gương cao cả để lớp lớp cán bộ học tập và noi theo. Bác thành công trong sự nghiệp giáo dục vĩ đại của mình là vì trước hết Bác là một con người chân chính, một người yêu nước, một người cộng sản, một nhà cách mạng, một nhà nhân văn đích thực, một con người xứng đáng nhất với danh hiệu con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Người có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đối với đội ngũ nhà giáo, tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn của người thầy, đức là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm của người thầy đối với nghề, với các em học sinh… Chính vì thế, Người nhắc các nhà giáo, dạy cũng như học đều phải biết chú trọng cả tài và đức. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc (19-2-1959), Người nhấn mạnh: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách, v.v., phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Nếu các cô, các chú bảo: “Các em phải siêng làm” nhưng các cô, các chú lại đi ngủ, hoặc dạy “các em phải thật thà”, nhưng các cô, các chú lại nói sai, hay bảo “các em phải giữ vệ sinh chung”, nhưng các cô, các chú bẩn, như thế là không được. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”. Người dặn dò: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Các cô, các chú phải nhận rõ trách nhiệm của mình”, vì vậy “thầy giáo phải gương mẫu, trực tiếp làm nhiệm vụ: Đào tạo những công dân tốt, những cán bộ tốt sau này, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Thứ bathầy cô giáo phải thật sự yêu nghề, gắn bó với nghề; tất cả vì học sinh thân yêu. Trong tư tưởng, Bác đặc biệt nhấn mạnh sự “yêu nghề” trong hoạt động giáo dục: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?”. Ngoài ra, Người đặc biệt chú trọng đến tinh thần trách nhiệm, dám đối mặt với khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ mà xã hội, Đảng và nhân dân giao cho các thầy, cô giáo. Người luôn căn dặn: “Thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”. Đó là tinh thần trách nhiệm dành cho sự nghiệp giáo dục, mang tri thức tới cho các em học sinh, các thế hệ sinh viên; là nghĩa cử cao đẹp và sự dấn thân vì mục tiêu “trăm năm trồng người”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nghề, yêu người là cơ sở để các thầy, cô yên tâm công tác, say mê, toàn tâm, toàn ý với công việc; biết vươn lên, nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp; nâng cao tinh thần trách nhiệm, yêu thương học sinh như con, em ruột của mình, không thiên tư, thiên vị. Chỉ như vậy, các thầy, cô giáo mới đi tới sự đoàn kết thực sự, chung lòng, dốc sức vì tương lai của con em ta, dân tộc ta. Người viết: yêu nghề, yêu trường thôi chưa đủ mà phải yêu chủ nghĩa xã hội bởi chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà dân tộc đang hướng tới. Khi thầy, cô giáo có tri thức, niềm tin và tình yêu thật sự vào chế độ mới thì đứng trên bục giảng họ mới có thể truyền lại được cho lớp lớp học trò niềm tin, tình yêu và góp sức mình vào xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, quá trình giáo dục mỗi thầy giáo, cô giáo cần đặc biệt chú trọng tới nội dung và phương pháp truyền thụ. Theo Bác, quá trình giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tuy vậy Người đặc biệt chú trọng đến tác phong, tư duy, cách truyền đạt tri thức cho học trò, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều.

Người nhấn mạnh: “Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”. Chất lượng và hiệu quả giáo dục không phải ở chỗ học nhiều, học vẹt, học thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà là giáo dục người học trở nên “những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”.

Người cũng khuyên rằng “chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”.

Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Người về vai trò của người thầy trong sự nghiệp giáo dục, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến giáo dục, đào tạo, luôn xác định là “quốc sách hàng đầu”, trở thành tư tưởng chỉ đạo mang tính chiến lược. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng đặt ra yêu cầu việc xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội cũng xác định cần: “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”, trong đó nhấn mạnh: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cái thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.

Những quan điểm trên của Đảng chính là trở về với triết lý giáo dục của Người nhằm thực hiện thành công chiến lược trồng người - “những người hữu ích cho nước Việt Nam” như Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng mong ước.

Sưu tầm 

Cần tỉnh táo nhìn nhận trước thông tin sai trái, kích động chống phá sau vụ cháy ở Hà Nội

Vụ hỏa hoạn xảy ra tại nhà trọ tại địa chỉ số 1, hẻm 31, ngách 98, ngõ 43, phố Trung Kính, Hà Nội gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, thu hút sự quan tâm lớn từ dư luận.

Vào 0h46 đêm 24/5/2024, tổng đài 114 - Trung tâm Thông tin chỉ huy Công an TP Hà Nội nhận được tin báo cháy nhà dân tại địa chỉ số 1, hẻm 31, ngách 98, ngõ 43, phố Trung Kính. Các lực lượng chức năng đã nhanh chóng tiếp cận hiện trường để dập lửa và cứu nạn cứu hộ. Đến 1h26 cùng ngày, đám cháy được dập tắt. Qua tìm kiếm, lực lượng chức năng phát hiện 14 người tử vong, 6 người bị thương.

Bên cạnh các hoạt động tích cực, khẩn trương của cơ quan chức năng trong việc cứu nạn, cứu hộ, điều tra, khắc phục hậu quả và cứu chữa các nạn nhân. Sau khi vụ hỏa hoạn xảy ra, trên không gian mạng xã hội đã lan truyền nhiều thông tin, bài viết, cả video xuyên tạc sự thật, hướng lái dư luận, lợi dụng vụ việc để tiến hành câu like, câu view gây hoang mang dư luận và nhiễu loạn thông tin, sai lệch bản chất vụ việc. Đặc biệt, các đối tượng xấu lợi dụng vụ việc để xuyên tạc, kích động chống phá hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội. Các đối tượng tung ra luận điệu sai lệch như: “chính quyền bỏ mặc người dân nên mới để xảy ra vụ hoả hoạn thương tâm”; “lực lượng chức năng ở đâu khi người dân phải tự cứu mình”; “đau đớn từ những cái chết được báo trước”… Các đối tượng còn vu cáo chính quyền bỏ mặc, không quan tâm, không đầu tư các trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn dẫn đến hậu quả đau lòng.

Có đối tượng còn gài các sự kiện khác không liên quan vào vụ cháy để gây hiểu nhầm như: “Hà Nội còn đang mê mải với dự án mua cờ tặng cho hàng triệu hộ gia đình, để mặc dân chết cháy”; “quan lo “ăn dự án”, mặc dân chết trong lửa”… Có bài viết so sánh vụ việc này với sai phạm của một số tổ chức, cá nhân trong các vụ án tham nhũng đang được điều tra, xét xử hiện nay rồi quy kết “lỗi do chế độ, cán bộ tham lam, dân mãi kiếp lầm than”! Từ đó suy diễn, vu cáo nhằm mục đích kích động chống phá, gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Nhiều đối tượng lợi dụng sự việc để “té nước theo mưa”, lấy cớ xuyên tạc Đảng, Nhà nước, chính quyền “lo vơ vét, bỏ mặc dân”, quy nguyên nhân để xảy ra những vụ cháy nghiêm trọng là do “bản chất chế độ”, “dân mãi chịu cảnh chết cháy”, kích động người dân, nhất là số trẻ “đứng lên đòi quyền lợi”…

Thực tế cho thấy, trái ngược hoàn toàn với những thông tin xuyên tạc, nhiễu loạn trên không gian mạng. Sáng 24/5/2024, ngay sau khi vụ hoả hoạn xảy ra, các đồng chí: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng, Thứ trưởng điều hành Bộ Công an Trần Quốc Tỏ, Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Văn Long, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội Nguyễn Thị Tuyến, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh cùng nhiều đồng chí lãnh đạo các bộ, ban, ngành và Hà Nội đã đến hiện trường vụ cháy để kiểm tra và chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả.  Dưới sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Bộ Công an, Thành ủy, UBND TP Hà Nội cùng sự đồng hành của người dân, công tác cứu chữa nạn nhân bị thương, lo tang gia cho người bị mất trong vụ cháy, khắc phục hậu quả vụ hỏa hoạn đã được triển khai hết sức khẩn trương, thể hiện sự chung sức, đồng lòng, trách nhiệm, tình cảm sâu sắc.

Những tin tức đó mang đến suy nghĩ tiêu cực, cần phải suy xét thận trọng, tránh việc ấn like hay chia sẻ, bình luận tạo hiệu ứng lan truyền tin giả, độc hại. Phải cẩn trọng khi tiếp nhận thông tin trên không gian mạng, nhất là thông tin được chia sẻ bởi mạng xã hội, chủ thể không rõ nguồn gốc, không xác thực. Đặc biệt, không chia sẻ nguồn tin phát ra từ trang mạng của những cá nhân, tổ chức thường xuyên đưa tin có nội dung tiêu cực, sai trái gây hoang mang cho quần chúng nhân dân.

Sưu tầm

Cảnh giác với các luận điệu xuyên tạc sau khi ông Thích Minh Tuệ dừng đi bộ khất thực

Từ chỗ là một người bộ hành thầm lặng kể từ năm 2017, ông Thích Minh Tuệ qua hình ảnh một khất sĩ đầu trần chân đất, mặc tấm y chắp vá từ nhiều mảnh vải, đi khất thực dọc theo các tuyến đường từ Nam ra Bắc và ngược lại đã nhận được sự quan tâm của các youtuber, tiktoker, facebooker… thổi lên thành “hiện tượng mạng”. Lợi dụng vấn đề này, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, các phần tử chống đối trong nước đã lấy hình ảnh trên để lồng ghép, tạo dựng, đưa thông tin sai sự thật về cá nhân ông Thích Minh Tuệ, xuyên tạc tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, chống phá chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.

Bắt đầu từ năm 2017 đến năm 2023, ông Thích Minh Tuệ (tên thật là Lê Anh Tú, 43 tuổi, quê ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) tự tu, thực hành hạnh nguyện khất thực và đã 3 lần đi bộ từ Nam ra Bắc và ngược lại. Năm 2024 là lần thứ tư ông Tú đi bộ xuất phát từ tỉnh Khánh Hòa, theo trục đường chính lên Cao Bằng - Hà Giang và sau đó đi chiều ngược trở lại. Việc “tự tu” theo cách thức hạnh đầu đà (khổ hạnh) là quyền tự do của mỗi cá nhân, không có đúng, sai, hơn, kém mà đơn giản là một cá nhân trong xã hội thực hiện quyền cơ bản của mình theo Hiến pháp. 

Thế nhưng, điều đáng nói ở đây là khi hình ảnh của sư Minh Tuệ xôn xao trên mạng, cũng là lúc bùng nổ một làn sóng truyền thông của các thế lực thù địch, phản động nhằm mục đích xuyên tạc về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam với vô số video clip được cắt ghép, đăng tải những thông tin mang tính chất so sánh phiến diện, tiêu cực nhằm chỉ trích, phỉ báng, làm xói mòn niềm tin, chia rẽ cộng đồng phật tử và hạ uy tín Phật giáo. Qua đó gieo rắc hoài nghi, phân biệt giữa người tu trong các tổ chức tôn giáo với người tu khổ hạnh, cho rằng khổ hạnh mới là chính pháp nhằm tạo ra mâu thuẫn bên trong tôn giáo.

Ngoài ra, các thế lực thù địch còn lợi dụng hình ảnh Thích Minh Tuệ để so sánh với những hình ảnh, phát ngôn chưa chuẩn mực của một số tăng sĩ, cố tình tạo ra một sự đối lập, tương phản hòng bôi xấu, “nhuộm đen” cộng đồng tu sĩ Phật giáo nói chung, từ đó chia rẽ, gây mất niềm tin của người dân với tổ chức Phật giáo. Đây là một sự so sánh nguy hiểm khi họ cố tình lấy một số hiện tượng sai lệch để đánh đồng, bôi xấu hình ảnh Phật giáo, tăng sĩ Phật giáo nước ta.

Trước những sự việc nêu trên, các cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với ông Thích Minh Tuệ về việc Nhà nước nhất quán chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; chính quyền các địa phương đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để ông Thích Minh Tuệ được đi bộ và hành trình theo ý nguyện, song cần phải bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người dân và sự ổn định xã hội. Ông Thích Minh Tuệ đã nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực.

Ngay khi Ban Tôn giáo Chính phủ thông tin ông Thích Minh Tuệ tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực, các tổ chức như Việt Tân, Đài Á Châu Tự do, Chân trời mời media, Thời báo.de… liên tiếp công kích xuyên tạc rằng, việc ông Thích Minh Tuệ dừng khất thực do bị “trấn áp”, xuyên tạc chính quyền đang “vùi dập một người chân tu chân chính”, “áp đặt người dân không được sống đúng với tín ngưỡng, tự do tôn giáo”. Từ đó, các tổ chức này kêu gọi người dân lên tiếng phản đối chính quyền, cổ súy người dân tiếp tục xuống đường “khai phóng” đi theo Thích Minh Tuệ để đi tìm “thế giới của riêng mình”!, thậm chí bắt chước cách ăn mặc màu áo chắp vá, ôm lõi nồi cơm điện, đi chân đất từ Nam chí Bắc và ngược lại, kêu gọi mọi người bỏ công việc, nhà cửa ruộng vườn đi theo, hệ quả lâu dài là biến xã hội thành rối ren, kinh tế đình trệ, đời sống hỗn loạn. Để gia tăng các mâu thuẫn, hạ uy tín Phật giáo, họ đã bịa đặt, miệt thị đường hướng phục vụ “Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, xuyên tạc rằng, đó là tinh thần lệ thuộc Nhà nước của Giáo hội. Dựa vào thông tin trên mạng xã hội về việc cán bộ tại một địa phương ngăn cản đám đông bộ hành gây lộn xộn tại một nghĩa trang khi ông Thích Minh Tuệ đi qua thì trang fanpage Việt Tân đã giật tiêu đề “chính quyền không cho thầy Minh Tuệ dừng chân qua đêm”, vu cáo việc “đàn áp”, kích động nhiều người vào bình luận chống phá.

Bên cạnh đó, không ít facebooker, youtuber, tiktoker, hay influencer (người có ảnh hưởng) trên không gian mạng đã bất chấp sự thật, kiếm tiền bằng cách tung nhiều bài, nhiều video clip phỉ báng, miệt thị chư tăng ở các “chùa to Phật lớn”, kèm theo luận điệu rằng tu hành kiểu không chùa, không cúng dường, từ bỏ vật chất như ông Minh Tuệ mới là “thanh tịnh”, là “chân tu”.  Điều này gây khó khăn cho các lực lượng chức năng phải căng mình để bảo đảm an ninh trật tự, nhất là vấn đề trật tự an toàn giao thông trên quốc lộ 1A, nhiều đoạn ùn tắc và làm phiền toái, ảnh hưởng đến công việc làm ăn, buôn bán của rất nhiều người dân.

Từ trước đến nay, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, việc tung tin chính quyền địa phương, lực lượng Công an cấm cản hay “trấn áp” ông Minh Tuệ, “vây ráp người dân”… là  những thủ đoạn xuyên tạc nhằm tạo làn sóng dư luận phẫn nộ, chống đối Đảng, Nhà nước. Hiện nay, thủ đoạn lợi dụng chống phá của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lại được che đậy bởi vỏ bọc tôn giáo nên nhiều người khó phân biệt. Tính chất nguy hiểm ngày càng cao khi thủ đoạn này đã tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng của nhiều người theo đạo. Đây sẽ là tiền đề để khi có điều kiện, thời cơ, các đối tượng sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, kích động, lôi kéo quần chúng tín đồ tham gia vào các hoạt động chống đối, gây mất ổn định chính trị, xã hội.

Đến nay, cơ quan Công an đã hỗ trợ ông Thích Minh Tuệ làm căn cước công dân để đảm bảo quyền công dân của mình. Đó là cách để chính quyền bảo vệ ông với tư cách là một công dân Việt Nam. Nay ông Minh Tuệ ngừng đi bộ khất thực nhưng ông vẫn là một công dân tu học theo lời dạy của Đức Phật, đơn giản chỉ là sự thay đổi phương thức, cách thức, hình thức tu tập. Đây cũng là cách để ông Thích Minh Tuệ có được không gian bình yên, an lành, tập trung cho việc tu tập của mình.

Sưu tầm

Tổ chức Theo dõi nhân quyền lại “tung hoả mù” về quyền của người lao động tại Việt Nam

Nhắc đến tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), chúng ta "nhẵn mặt" với những thủ đoạn đưa ra thông tin sai trái, xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Họ đã làm méo mó, sai lệch thực tiễn, ảnh hưởng vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thông cáo của HRW đưa ra khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa có phiên điều trần công khai về hiện trạng thương mại với Việt Nam vào ngày 8/5. Thông cáo này lộ rõ ý đồ "tung hoả mù", tác động xấu tới dư luận khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ thực hiện phiên điều trần nói trên. Vì thế, trong thông cáo của HRW đã đưa ra những nhận định sai trái, thể hiện cách nhìn tiêu cực, xa rời thực tế. Ông John Sifton, Giám đốc vận động Ban Á Châu của HRW đã có những phát biểu rất lố bịch như: "Nói rằng người lao động Việt Nam có thể thành lập công đoàn hay mức lương của họ là kết quả của sự thỏa thuận tự nguyện giữa người lao động và người sử dụng lao động là lời tuyên bố sai lạc trắng trợn"; "Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình". 

Ông Sifton viện dẫn rằng: "Xét về văn bản pháp luật và thực tế thực thi, Việt Nam hiện không cho phép các công đoàn độc lập được đại diện cho người lao động. Chương 13 của Bộ luật Lao động Việt Nam có hiệu lực vào năm 2021 đưa ra quy định về "tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở" và Luật Công đoàn Việt Nam quy định về "công đoàn" cũng như "tổ chức đại diện người lao động", một thuật ngữ hiện diện trong cả hai bộ luật. Tuy nhiên, Luật Công đoàn Việt Nam chỉ cho phép có các "công đoàn" do chính phủ kiểm soát. Luật Lao động vẫn đòi hỏi phải có các văn bản hướng dẫn được ban hành mới có hiệu lực thực thi. Và ở Việt Nam không hề có các tổ chức đại diện cho người lao động ở cấp cơ sở"… Từ việc viện dẫn sai lệch trên, ông Sifton quy kết: "Lời tuyên bố tôn trọng quyền của người lao động của Việt Nam chỉ dựa trên các ngôn từ và lời hứa sáo rỗng, các văn bản luật pháp và quy định xa rời thực tế về hiện trạng quyền của người lao động ở quốc gia này"! 

Rõ ràng, việc lấy lý do "Ở Việt Nam không cho phép các công đoàn độc lập được đại diện cho người lao động" rồi quy kết hiện trạng quyền lợi người lao động không bảo đảm, chính quyền chỉ "hứa sáo rỗng", "văn bản xa rời thực tế" là sự đánh giá quy chụp nhằm lấy cớ vu cáo, gây sức ép tới Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong vấn đề đánh giá hiện trạng thương mại, quyền lợi người lao động ở Việt Nam.

Sưu tầm

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa song Người để lại cho hậu thế những di sản vô cùng quý giá, Di sản Hồ Chí Minh mang tính phổ quát, bền vững, vượt thời đại và vẹn nguyên tính thời sự. Chính vì thế, các thế lực thù địch luôn xem di dản của Người là một mục tiêu, trọng tâm chống phá. 

Số tổ chức, cá nhân chống phá thường khoác áo “khách quan khoa học”, đội lốt “phản biện xã hội”, thậm chí họ mượn danh nghĩa “nhà nghiên cứu lý luận” hay núp bóng “nhà dân chủ”, “nhà nhân quyền” để ngụy biện tuyên truyền, đánh tráo học thuật, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong di sản Hồ Chí Minh. Họ chống phá di sản Hồ Chí Minh cả về tư tưởng, đạo đức, phong cách, thân thế, sự nghiệp cách mạng của Người.  Về tư tưởng, họ coi những luận điểm về chính trị, cách mạng của Người chỉ là bản sao của chủ nghĩa Mác - Lênin, vay mượn, cộng gộp các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Về đạo đức, số đối tượng xấu coi đạo đức của Người chỉ là “chủ nghĩa khổ hạnh” không thể học tập, làm theo. Về phong cách, họ phớt lờ tác phong, lề lối, phương pháp cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh. Về thân thế, các đối tượng xấu bịa đặt, tung tin sai lệch, bôi nhọ đời tư của Người.  

Họ ra sức phủ nhận sự tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải nhà tư tưởng để hạ thấp di sản của Người. Một số đối tượng chống phá lại giả vờ “tôn vinh”, “tuyệt đối hóa” di sản văn hóa Hồ Chí Minh bằng cách so sánh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, hiện chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là có giá trị. Từ đó, đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất đây chính là thủ đoạn vờ “đề cao” bên này để “hạ bệ” bên kia nhằm đả kích, chống phá bởi chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ đạo làm nên bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn cố tình cắt xén những câu nói, phát biểu, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra khỏi bối cảnh lịch sử để làm sai lệch tư tưởng của Người. Họ đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phần tử chống phá cũng phủ nhận sự cần thiết, tính hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngoài ra, họ còn đưa ra yêu sách vô lý, trắng trợn đòi từ bỏ việc bảo tồn di tích, bảo tàng có liên quan đến Người.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt của Internet, mạng xã hội với tốc độ chia sẻ nhanh, độ tương tác rộng hay sử dụng hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài biến thành công cụ đắc lực phục vụ cho mưu đồ chống phá. Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn chống phá ở chỗ: các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng chiêu bài “thao túng tâm lý”; tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi về lãnh tụ của cách mạng Việt Nam hòng gây hoang mang, dao động, làm lung lay niềm tin, giảm sút tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; tìm cách triệt tiêu động lực, khí thế, quyết tâm của hệ thống chính trị, toàn xã hội trong đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thấy rõ di sản văn hóa Hồ Chí Minh là linh hồn, là tài sản vô giá của Đảng, của dân tộc và nhân dân Việt Nam nên các các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị muốn phá hủy tận gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ biểu tượng Hồ Chí Minh trong trái tim, khối óc của nhân dân Việt Nam. Nhưng dù có dùng mọi chiêu trò chống phá vẫn không thể phủ nhận giá trị to lớn, sức sống trường tồn của di sản Hồ Chí Minh.

Sưu tầm