Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình ở chi bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến tự phê bình và phê bình trong Đảng. Theo Người, tự phê bình và phê bình giúp xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gột rửa, lọc bỏ những sai lệch. Qua đó, tạo chất kết dính trong nội bộ, là phương thuốc hay nhất để chữa nhiều chứng bệnh, bồi bổ cơ thể của Đảng ngày thêm cường tráng. 

Mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt của mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu dần bị mất đi. Mọi người học tập ưu điểm của nhau, sửa chữa những khuyết điểm, giúp nhau cùng tiến bộ. Nêu ưu điểm trước, vạch khuyết điểm sau và phải tiến hành đồng thời, không được coi nhẹ một mặt nào, “phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau” .

Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Vì vậy, phải kiên trì, thường xuyên, liên tục, mạnh dạn thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc phục. Bác đã dạy: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (2). Mỗi người cần phải có thái độ, phương pháp đúng, trên tình thương yêu giai cấp, tự phê bình mình cũng như phê bình người, phải triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt, đồng thời không dùng những lời mỉa mai, chua cay, thâm độc. Phê bình việc chứ không phê bình người, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, ba hoa, phải thực hành khẩu hiệu “chí công vô tư”. Người được phê bình phải cầu thị, nghiêm túc tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình, phải có ý chí quyết tâm khắc phục sai lầm, khuyết điểm.

Các cấp ủy thường xuyên chăm lo xây dựng chi bộ trực thuộc trong sạch vững mạnh, trong đó có lãnh đạo, chỉ đạo và thường xuyên tiến hành bồi dưỡng chi ủy, chi bộ các nội dung liên quan đến tự phê bình và phê bình. Nhất là việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nhờ vậy, tự phê bình và phê bình trở thành hoạt động thường xuyên góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, việc tiến hành tự phê bình ở nhiều cấp ủy, chi bộ vẫn còn những hạn chế, nhất là kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng tự phê bình và phê bình nhiều nơi còn mang tính hình thức; còn nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao... Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, nhất là ở cấp chi bộ đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các chi bộ phải nâng cao hơn nữa chất lượng tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những giải pháp sau:

Một là, nâng cao trách nhiệm bí thư chi bộ, mở rộng dân chủ, duy trì chặt chẽ chế độ tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình và phê bình là một quy định, nội dung quan trọng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức Đảng nói chung và chi bộ nói riêng. Bí thư, phó bí thư chi bộ nhất thiết phải duy trì có hiệu quả hoạt động này. Song song với tự phê bình và phê bình xoay quanh thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, các chi bộ và từng đảng viên cần phải tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Nắm vững 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra. Người chủ trì sinh hoạt phải khéo léo gợi mở vấn đề, khuyến khích các đảng viên mạnh dạn thảo luận, trình bày ý kiến của bản thân, phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình. Các ý kiến phải được tôn trọng, tổng hợp, xem xét trước khi đưa ra quyết định. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dân chủ phải đặt trong tổ chức, có kỷ luật, kỷ cương. Tuyệt đối không được lợi dụng dân chủ trong sinh hoạt để đả kích, nói xấu nhau, hoặc dân chủ hình thức, mang tính chất xuôi chiều.

Hai là, tự phê bình và phê bình phải trung thực, thẳng thắn, khách quan gắn với xử lý kỷ luật nghiêm minh.

Thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức, biện pháp xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Tự phê bình và phê bình phải gắn liền với xử lý nghiêm vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, không nể nang, né tránh, không có vùng cấm.

Ba là, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình.

Công tác kiểm tra, giám sát thuộc chức năng lãnh đạo của Đảng, là nội dung quan trọng bảo đảm nghị quyết của Đảng thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Để thực hiện tốt nội dung này, các cấp ủy chi bộ cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ thể đối với từng chi bộ trong Đảng bộ mình. Nội dung cần gắn chặt kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình với phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trước tổ chức Đảng và quần chúng. Việc duy trì nền nếp chế độ, nguyên tắc, thủ tục, nội dung và thực hiện dân chủ trong tự phê bình và phê bình, nhận thức thái độ, động cơ trách nhiệm trong tự phê bình và phê bình, tính đấu tranh để xây dựng chi bộ… Qua kiểm tra đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, kịp khắc phục những khâu yếu, mặt yếu và đề ra các giải pháp giúp cấp ủy, chi bộ và đảng viên tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, góp phần nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt và hoạt động của chi bộ.

Quán triệt và thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình ở chi bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực cầm quyền của Đảng ở cơ sở; giữ gìn phẩm chất, đạo đức, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng, đem lại niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa./.
ST.

Tư duy mới của Đảng về tăng cường mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc

Quốc phòng, an ninh, đối ngoại là những lĩnh vực cơ bản, quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia - dân tộc và được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Vì thế, việc tăng cường mối quan hệ giữa các lĩnh vực này trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là vấn đề rất quan trọng, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, cần được nghiên cứu làm rõ, quán triệt sâu sắc, tạo cơ sở để triển khai thực hiện.

Trong những năm qua, trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của quốc phòng, an ninh, đối ngoại và sự cần thiết phải gắn kết các lĩnh vực đó trong tổng thể hoạt động của đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường mối quan hệ giữa các lĩnh vực này, tạo chỉnh thể thống nhất, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc góp phần tạo vị thế, vai trò của Việt Nam đối với an ninh, hòa bình, ổn định của thế giới. Ảnh: TTXVN

Trên thực tế, các lĩnh vực: quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tuy có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền đề của nhau, cùng góp phần tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đề cập đến vấn đề này, Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn”. Cũng với tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng chặt chẽ, hiệu quả”3, góp phần quan trọng tạo tiềm lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

Bên cạnh mặt tích cực, mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại còn một số hạn chế, bất cập. Trong nhận thức và tư duy, chúng ta thường mới đề cập mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, an ninh mà ít đề cập riêng hoặc đề cập chưa sâu, chưa đầy đủ, thường xuyên về mối quan hệ giữa ba lĩnh này. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo kịp diễn biến của tình hình. Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng và đối ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ”4. Đại hội XI, XII, XIII của Đảng tuy không đánh giá sâu hạn chế, khuyết điểm trong sự phối hợp giữa ba lĩnh vực, tuy nhiên, đều chỉ ra việc phối hợp giữa các cấp, ngành, địa phương trong kết hợp giữa các lĩnh vực nói chung, đối ngoại nói riêng vẫn còn hạn chế, chưa chặt chẽ, thường xuyên, v.v. Vì vậy, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (gọi tắt là Chiến lược), trong đó đánh giá: “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả, chưa quan tâm đúng mức về quốc phòng, an ninh. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại có mặt còn hạn chế”. Từ đó, đặt ra yêu cầu phải tăng cường mối quan hệ quốc phòng, an ninh, đối ngoại để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây là vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết, bởi đó chính là mối quan hệ biện chứng, gắn kết lẫn nhau giữa an ninh và phát triển.

Kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương trước đó của Đảng, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định rõ mục tiêu: bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh quốc gia,... an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội;... giữ vững củng cố môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Như vậy, Chiến lược đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới; trong đó, đã nhấn mạnh vai trò của đối ngoại, nhất là trong tạo vành đai an ninh, an toàn, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ bên ngoài lãnh thổ. Điều đó thể hiện tư duy mới của Đảng trong khẳng định vị trí, vai trò và mối quan hệ ngày càng chặt chẽ của đối ngoại đối với quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Tư duy mới của Đảng về tăng cường mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại còn được thể hiện sâu sắc hơn khi Chiến lược xác định rõ hơn về vai trò, lợi thế, chủ thể, lực lượng của công tác đối ngoại trong mối quan hệ rường cột này; đó là triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; trong đó, cần nâng cao hiệu quả, phát huy vai trò, thế mạnh đặc thù của từng trụ cột đối ngoại và các chủ thể, lực lượng tham gia công tác đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Không chỉ vậy, nếu trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta mới đề cập việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại thì Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó có nghĩa là Đảng ta đã xếp đối ngoại cùng vế với kinh tế, văn hóa, xã hội trong mối quan hệ tương hỗ với quốc phòng, an ninh và coi đối ngoại là một lĩnh vực có quan hệ đồng đẳng, trực tiếp với quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Trong phương châm chỉ đạo, Chiến lược cũng chỉ rõ: thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”; trong đó, lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, linh hoạt về sách lược; thực hiện không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, cân bằng hài hòa lợi ích trong quan hệ với các nước; tuân thủ luật pháp quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không để rơi vào thế cô lập, bị động, lệ thuộc, đối đầu hoặc không phải “chọn bên”, “chọn phe”; không để nước ngoài lợi dụng, thỏa hiệp với nhau hoặc với các thế lực thù địch, phản động làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc; không để nước ta trở thành chiến trường, địa bàn xung đột lợi ích chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Điều này vừa kế thừa văn bản trước đó, vừa cụ thể hơn nhiệm vụ của cả quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong tình hình mới. Phương châm còn yêu cầu phải nắm chắc tình hình, phát hiện từ sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả những yếu tố bất lợi, nhất là nguy cơ gây đột biến, thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống từ cơ sở. Chủ động thiết lập tuyến phòng thủ, tạo vành đai an ninh từ ngoài lãnh thổ, biên giới hành chính quốc gia để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đây là sự phát triển mới trong tư duy của Đảng về xác định vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ bên trong mà cả từ bên ngoài lãnh thổ, biên giới hành chính quốc gia; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, v.v.

Trong nhiệm vụ, giải pháp, Chiến lược đã xác định rõ hơn, sâu hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh. Kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; thúc đẩy đa dạng hóa đối tác hợp tác về kỹ thuật quân sự và thương mại quốc phòng. Tích cực tham gia hiệu quả các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh. Đẩy mạnh hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, v.v.

Nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa ba lĩnh vực trong điều kiện mới, Chiến lược nhấn mạnh vai trò của đối ngoại trong chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương khu vực và quốc tế, như: ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông và hợp tác khu vực khác. Tích cực tham gia củng cố, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, luật pháp quốc tế; các cơ chế đa phương chính đảng, nghị viện, v.v. Chủ động tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, đối ngoại theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Điều này cho thấy, Đảng ta rất quan tâm phát huy vai trò cơ chế đa phương và các trụ cột, các mặt trận trong công tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại về quốc phòng, an ninh “củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy trụ cột quan trọng về hợp tác quốc phòng, an ninh”. Từ những bất cập nảy sinh trong giải quyết các mối quan hệ giữa các lĩnh vực, Chiến lược chỉ rõ: chú trọng bổ sung, kiện toàn cơ chế, quy định, nhất là sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương trong xử lý các tình huống bảo vệ Tổ quốc.

Một điểm mới nữa trong tăng cường mối quan hệ quốc phòng, an ninh, đối ngoại là, lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về quốc phòng, an ninh, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới”. Nếu Văn kiện Đại hội XIII mới chỉ ra: “Chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh”, thì Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã cụ thể hơn: tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh, phù hợp với lợi ích của ta; coi trọng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, tăng cường đan xen lợi ích, tạo sự đồng thuận và ủng hộ rộng rãi của các nước trên các vấn đề liên quan đến lợi ích của ta.

Trong bối cảnh mới, nước ta hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, việc tăng cường quan hệ quốc phòng, an ninh, đối ngoại là yêu cầu khách quan, cấp thiết, bảo đảm quốc phòng, an ninh luôn song hành cùng đối ngoại trong việc dự báo, phát hiện sớm, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, thách thức, dập tắt nguy cơ xung đột, chiến tranh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng phát triển đất nước; đồng thời, đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình của khu vực và thế giới.

Tư duy mới của Đảng về tăng cường mối quan hệ quốc phòng, an ninh và đối ngoại là đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trong đó, quốc phòng, an ninh là nền tảng và là chỗ dựa cho đối ngoại phát huy vai trò để nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Mặt khác, hoạt động đối ngoại cũng góp phần vào việc nâng cao tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Bản chất mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại là mối quan hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực cơ bản trong vận hành của một quốc gia. Nó thống nhất về mục tiêu, định hướng, nhưng cũng có sự khác nhau về nội dung, nhiệm vụ và phương thức tiến hành. Tùy hoàn cảnh, phương diện, đối tác, đối tượng mà quốc phòng, an ninh hay đối ngoại giữ vai trò chủ đạo, nhưng tất cả đều hướng vào mục tiêu cao nhất là tạo dựng và huy động mọi nguồn lực, điều kiện thuận lợi, sức mạnh tổng thể quốc gia cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định, mở rộng quan hệ, nâng cao thế và lực, uy tín của ta trên trường quốc tế.

Đây là chủ trương lớn, rất quan trọng cần được nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, tạo cơ sở triển khai thực hiện./.

ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ mở lối, chỉ đường giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn là cơ sở, nền tảng để dân tộc ta, đất nước ta phát triển, trường tồn. Vì vậy, vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thấu hiểu cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong lầm than, nô lệ, ngày 05/ 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thay vì ngồi chờ ngoại viện như các vị tiền bối. Và đích đến đầu tiên của Người là mẫu quốc để “... xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về để giúp đồng bào chúng ta”.


Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, năm 1920. Ảnh tư liệu

Với hành trình đó, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, lấy tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi “Bản yêu sách 8 điểm” tới Hội nghị Versailles, đòi những quyền dân tộc tự quyết, nhưng không được chấp nhận. Người hiểu rằng: “... muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi, nghiên cứu, tìm hiểu nhiều trào lưu, nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, như: cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),... và Người phát hiện đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, chỉ phục vụ lợi ích cho thiểu số người giàu, còn giai cấp công nhân và các giai tầng khác vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.

Sau gần 10 năm tìm kiếm, khảo nghiệm, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Điều này làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đây lý luận cách mạng, khoa học - con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất.

Với trải nghiệm thực tế và tư duy độc lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1921 - 1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Xô-viết - quê hương của V.I.Lênin vĩ đại. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên - tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người được tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh có giá trị lý luận sâu sắc, đem đến cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn, đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi chuẩn bị cẩn trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba trở về nước, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Kế thừa, vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng nước ta cũng như trong từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện trên một số vấn đề cốt lõi.

Thứ nhất, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo cách mạng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Khi Đảng ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập” để đi tới xã hội cộng sản. Với tư tưởng xuyên suốt là độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1939 - 1945, các hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Từ đó đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cách mạng Tháng Tám bằng tinh thần, ý chí “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.


Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định bảo vệ vững chắc nền độc lập mới giành được, tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trực tiếp, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ tối cao, huy động mọi giai cấp, tầng lớp để thực hiện với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,... bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đất nước hoàn toàn được độc lập, thống nhất. Từ năm 1975 đến nay, nhiệm vụ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, Đảng ta đổi mới tư duy, từng bước xác định đúng mô hình đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và 8 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển (2011). Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;...”. Như vậy, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngay trong đường lối lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thấm nhuần sâu sắc giá trị của lý luận cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị, ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại các nhiệm kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đồng thời, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Những quy định của Đảng được thực hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng. Có thể khẳng định rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong công tác quốc phòng, an ninh. Quán triệt sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, làm cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”9. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; luôn kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, thực hiện “bốn không”, được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản, như: Luật Quốc phòng, Sách Trắng quốc phòng Việt Nam 2019, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng với tất cả các nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc./.

ST.

Tư tưởng của Ph.Ăng-ghen soi sáng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Ph.Ăng-ghen (1820-1895) là một nhà khoa học, triết học và một nhà lý luận chính trị người Đức. Với trí tuệ uyên bác, tinh thần khoa học cần mẫn và phẩm chất nhân văn cao đẹp, luôn mong muốn đem đến những điều tốt đẹp cho nhân loại, Ph.Ăng-ghen đã luôn sát cánh cùng C.Mác nghiên cứu, chỉ ra quy luật tất yếu khách quan của quá trình vận động, biến đổi, phát triển xã hội loài người, từ đó khẳng định tiến trình phát triển của nhân loại sẽ đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc.

Ph.Ăng-ghen (1820 - 1895) 

 Đặc biệt, Ph.Ăng-ghen đã có những luận giải sâu sắc về bản chất ưu việt, dân chủ, tiến bộ của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng có giá trị thời đại ấy của Ph.Ăng-ghen đã, đang và sẽ mãi soi đường, chỉ lối cho Việt Nam trên con đường xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.

Không chỉ có những tác phẩm viết chung cùng C.Mác, Ph.Ăng-ghen còn có rất nhiều tác phẩm riêng nghiên cứu sâu về vấn đề nhà nước (“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “Bàn về quyền uy”,…) và là người có công lớn trong việc hoàn thiện lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác. Những tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về nhà nước, đặc biệt là về bản chất của nhà nước, bản chất ưu việt của nhà nước vô sản đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Ph.Ăng-ghen khẳng định nhà nước xuất hiện và tồn tại trong giai đoạn xã hội có sự phân chia thành giai cấp. Nguồn gốc trực tiếp nảy sinh nhà nước là do những giai cấp có quyền lợi kinh tế đối lập, mâu thuẫn, xung đột với nhau ở mức không thể điều hòa được, “nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp…, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”,“nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp không có của”.

Ph.Ăng-ghen cũng chỉ rõ, dù trong bất kỳ chế độ xã hội nào, nhà nước luôn luôn “vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về thực chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”. Ngay cả đối với nhà nước tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa, dù luôn được các học giả tư sản tuyên bố rằng đó là chính quyền của nhân dân, là một chế độ dân chủ, song thực chất “nhà nước đại nghị hiện đại là công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao động làm thuê”, “giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn” đối với người lao động. Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh:

“Người ta tưởng tượng là đã tiến được một bước táo bạo phi thường, nếu họ tự giải thoát khỏi lòng tôn sùng chế độ quân chủ thế tập và trở thành những người theo chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng thực ra, nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”.

Khi bàn về nhà nước vô sản, Ph.Ăng-ghen đồng tình với quan điểm của C.Mác về tính tất yếu của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.

Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”, và “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”.

Đặc biệt, Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra bản chất ưu việt khác biệt của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa so với các nhà nước đã có trong lịch sử. Nhà nước vô sản là nhà nước dân chủ, là chính quyền của số đông người dân lao động, là một chế độ dân chủ thật sự. Ph.Ăng-ghen viết: “Dân chủ ngày nay là chủ nghĩa cộng sản. Bất cứ thứ dân chủ nào khác đều chỉ có thể tồn tại trong đầu óc của những nhà lý luận uyên bác không cần biết gì đến những sự kiện thực tế”.

Tính dân chủ, mục tiêu dân chủ của nhà nước vô sản đã được thể hiện ngay từ khi giai cấp vô sản tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản: “trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Chính cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đã “tạo ra một chế độ dân chủ”, một chính quyền dân chủ, một nhà nước dân chủ. Và, “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.

Chính từ những luận giải khoa học ấy của Ph.Ăng-ghen cùng với Mác và sau này là V.I.Lênin về vấn đề nhà nước, nhất là lý luận về bản chất ưu việt của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thấy được chân lý, tìm ra con đường đúng đắn lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, giành được độc lập tự do cho dân tộc, đồng thời lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ chức xây dựng nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đạt những thành tựu phát triển to lớn, đem lại cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh cho đông đảo tầng lớp nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở những phân tích của Ph.Ăng-ghen về bản chất dân chủ ưu việt của nhà nước vô sản, nhiều năm qua Việt Nam luôn nhất quán kiên định và nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng ngay từ đầu đã luôn xác định, đó phải là chế độ xã hội tốt đẹp dân chủ, tiến bộ, văn minh thật sự:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Bao năm qua, nhờ luôn kiên định theo những chỉ dạy của Ph.Ăng-ghen, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng được hoàn thiện và chứng minh trong thực tế là nhà nước của nhân dân, là chính quyền của nhân dân. Nhà nước Việt Nam ngay từ đầu đã luôn nỗ lực để trở thành một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự, phấn đấu không ngừng để thực hiện những mục tiêu tốt đẹp vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân.

Mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước đều “xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”; “Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Nhà nước luôn đồng hành cùng mọi tầng lớp nhân dân nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu cao đẹp của cả dân tộc, “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn”.

Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để kịp thời có sự điều chỉnh, đổi mới trong cách thức tổ chức và phương thức hoạt động, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường hiệu quả phân công, phối hợp thực thi nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước,… để ngày càng hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Mặc dù thực lực nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, song với quyết tâm xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa ưu việt, dân chủ thật sự trong thực tế theo tư tưởng của Ph.Ăng-ghen, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn cố gắng thực hiện tốt nhất vai trò của mình, điều hành, chỉ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường thực hiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, luôn chú trọng chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm công bằng, dân chủ xã hội,... kể cả trong những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng của nền kinh tế hay trong những bối cảnh đại dịch, thiên tai,... trên tinh thần không để người dân phải chịu khổ, chịu đói... hay bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển của đất nước.

Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được đến nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN, chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm nước cao của thế giới.

“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng sống động cho những nỗ lực và bản chất dân chủ ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc điều hành, chỉ đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trên tinh thần luôn kiên định theo chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, Ph.Ăng-ghen nói riêng đã chỉ dạy, với mục tiêu duy nhất là đem lại cuộc sống ngày càng ấm no, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, tiến bộ, văn minh cho mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam./.

ST.

Chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc” - kẻ thù của những người cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, nếu cán bộ, đảng viên không được giáo dục, không tự rèn luyện thì dễ “sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Đặc biệt, đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, để giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, việc đấu tranh, phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo chỉ dẫn của Người  là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hiện nay.

Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là giá trị văn hóa quân sự đặc sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam; sự kết tinh những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc với bản chất cách mạng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; được xây đắp nên từ quá trình tu dưỡng, rèn luyện, kiên trì, bền bỉ, chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân của lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ. Những giá trị đó thấm sâu, lan tỏa trong mỗi cán bộ, chiến sĩ, trở thành sức mạnh tinh thần, ý chí, bản lĩnh và trí tuệ, để trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.


Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu. Nguồn: mod.gov.vn

Mặc dù vậy, việc giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn hiện nay đang đứng trước những thách thức không nhỏ; bên cạnh sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường,… thì chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù hung ác, thứ giặc “nội xâm; nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự suy thoái, biến chất, làm xói mòn phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và suy giảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta đang len lỏi, chờ cơ hội trỗi dậy trong một bộ phận quân nhân. Vì vậy, phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cấp bách. Để làm tốt vấn đề này, chúng ta cần tiếp tục kiên định, vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống chủ nghĩa cá nhân vào thực tiễn hiện nay với những nội dung, giải pháp chủ yếu sau.

Một là, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân đội; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng về đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Do vậy, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân đội về công tác quan trọng này. Trên cơ sở nhận thức rõ biểu hiện, bản chất, sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sự đoàn kết, thống nhất, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết đấu tranh với biểu hiện chủ nghĩa cá nhân. Điều quan trọng là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng, thực hiện nghiêm các quy chế làm việc và quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu của cấp ủy, tổ chức đảng. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa biểu hiện vi phạm của cán bộ, đảng viên. Quán triệt quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; trong đó, xây là cơ bản, chống phải quyết liệt, hiệu quả, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, ra nghị quyết chuyên đề hoặc đưa vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, kế hoạch, chương trình hành động sát thực, hiệu quả. Đồng thời, xây dựng quy chế, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên, quần chúng kiên quyết đấu tranh với biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.

Hai là, phát huy tính tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, quần chúng. Thực tiễn cho thấy, sự suy thoái của cán bộ, đảng viên thường bắt nguồn từ những biểu hiện không lành mạnh trong đạo đức, lối sống. Vì vậy, biện pháp tốt nhất để phòng, chống chủ nghĩa cá nhân là mỗi người phải thường xuyên tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, giản dị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Điều đó đòi hỏi từng quân nhân phải nêu cao ý thức tự học, tự rèn, tự nhận thức và thực hành có hiệu quả 05 đặc trưng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với 10 biểu hiện chủ nghĩa cá nhân được xác định trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW. Mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tự giác, chủ động khắc phục những nhận thức mơ hồ, phiến diện, lệch lạc về bản chất, truyền thống của Quân đội và các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, về những nhu cầu vật chất, lợi ích tầm thường, như lời dặn dò của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mỗi cán bộ, chiến sĩ cần luôn luôn ghi nhớ, Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Hằng năm, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ, từng quân nhân cần xây dựng kế hoạch phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện. Có thái độ và hành động kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, thực thiện tốt tự phê bình và phê bình, “tự soi, tự sửa” của cán bộ, đảng viên. Đây được coi là vũ khí sắc bén, một trong những biện pháp quan trọng trong đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, “tự soi, tự sửa” không chỉ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên trong sạch mà còn giúp cho mỗi tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao khả năng đề kháng trước sự xâm nhập của những thói hư, tật xấu vào trong mỗi cơ quan, đơn vị và từng quân nhân. Để đạt hiệu quả, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần “tự soi, tự sửa”, luôn trung thực, thẳng thắn trong nhìn nhận, đánh giá những ưu, khuyết điểm của bản thân và thực sự cầu thị để tiếp thu những ý kiến đóng góp phê bình của đồng chí, đồng đội; gắn kiểm điểm cá nhân với kiểm điểm tập thể ở các cấp một cách nghiêm túc, thận trọng, “phải lấy phê bình và tự phê bình mà tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân và bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể”. Đồng thời, phát huy dân chủ trong sinh hoạt, mạnh dạn phê bình, góp ý đồng chí, đồng đội khi họ có những hạn chế, khuyết điểm, nhất là khi có những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đối với cán bộ, đảng viên có những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, các cấp ủy đảng cần phải kiên quyết đấu tranh, xử lý kịp thời nhằm đảm bảo sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng và kỷ luật Quân đội. Tránh tình trạng bao che, giấu giếm khuyết điểm, không tạo được sự răn đe đối với người vi phạm, không có tác dụng ngăn ngừa, phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Việc đấu tranh tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, “như rửa mặt hàng ngày”, với thái độ thân ái, chân thành để cùng nhau khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm, không ngừng hoàn thiện bản thân. Bên cạnh đó, cần khắc phục tình trạng nể nang, né tránh hoặc lợi dụng phê bình, “tự soi, tự sửa” để thực hiện mưu đồ cá nhân.

Bốn là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp trong đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Sự gương mẫu, chuẩn mực trong lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ các cấp là mệnh lệnh không lời, có sức thuyết phục cao đối với bộ đội, làm cho họ tin tưởng vào cán bộ, chỉ huy các cấp, yêu mến đơn vị, yên tâm công tác. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ là tiền đề quan trọng để cụ thể hóa phương châm “Trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”. Thực tế cho thấy, đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân để giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì các cấp phải đồng thời làm tốt việc giáo dục đạo đức và nêu gương về đạo đức, gương mẫu rèn luyện, phấn đấu theo các đặc trưng, chuẩn mực phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì cần quán triệt và thực hiện tốt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, trong đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác của chủ nghĩa cá nhân. Đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp cần chủ động phát huy vai trò nêu gương, gương mẫu trong tự soi, tự sửa những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân; công tâm, nghiêm khắc trong xem xét ưu điểm, khuyết điểm của cấp dưới. Bên cạnh đó, cũng cần cảnh giác, sáng suốt phát hiện và kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng, nhận thức sai trái và hành vi nêu gương không tốt của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong học tập, sinh hoạt đời thường và trong công tác.

Phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” là tài sản tinh thần vô giá của Quân đội ta, cần được giữ gìn, phát huy trong thời kỳ mới. Để làm được điều đó, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, chiến sĩ phải thực hiện đồng bộ các giải pháp; trong đó, đề cao ý thức, trách nhiệm kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân là nhiệm vụ quan trọng. Qua đó, làm cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” không ngừng tỏa sáng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy, của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao./.

ST.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái về quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Quyền con người hay nhân quyền là vấn đề luôn được quan tâm và bàn luận từ rất sớm. Đồng thời, quyền con người là vấn đề nhạy cảm mà nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam luôn chú trọng thực hiện nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của đất nước, đồng thời qua đó cũng nhằm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận đầu tiên tại Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau khi giành được độc lập năm 1945. Sau đó, quyền con người, quyền công dân tiếp tục được khẳng định và mở rộng tại các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Cùng với đó Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn xác định con người là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các quan điểm này được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011); Chỉ thị số 12-CT ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Đến Đại hội khóa XIII của Đảng trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã nhất quán tiếp cận vấn đề quyền con người gắn với quyền dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu. (Ảnh: Tùng Phương).

Mặc dù luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đặt mục tiêu nhưng các vấn đề về quyền con người vẫn thường xuyên bị các tổ chức, nhóm, hội phản động lợi dụng, chống phá nhằm tạo làn sóng dư luận không tốt. Theo dõi, đấu tranh trên nhiều phương tiện báo, đài, mạng xã hội… có thể thấy một số phương thức được các tổ chức, nhóm, hội phản động sử dụng để lôi kéo nhân dân của chúng ta tin là đúng và làm theo gây bất ổn dư luận xã hội. Các thủ đoạn này thường được biểu hiện dưới các hình thức sau:

Thứ nhấtđánh tráo khái niệm. Đây là hành động thay thế khái niệm này bằng khái niệm khác, khiến người ta hiểu sai về sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan nhằm đạt một mục đích nào đó. Những khái niệm được đánh tráo nhằm phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của Việt Nam, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi trong nhân dân và cán bộ, quy chụp nguyên nhân là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ. Những luận điệu thường được tung ra, truyền bá vào từng thời điểm cụ thể như những ngày lễ lớn của đất nước, trước và trong các kỳ đại hội của Đảng… đánh vào tâm lý một bộ phận nhân dân, nhất là những người dân dễ bị kích động, trình độ nhận thức chưa cao, từ đó gieo rắc hoang mang, nghi ngờ trong lòng dân, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thứ haixuyên tạc mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra định hướng phát triển đất nước giải đoạn 2021 - 2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Chính vì vậy, càng ngày Đảng và Nhà nước ta càng có nhiều chính sách, chủ trương nhằm dành sự quan tâm đến nhân dân, đảm bảo quyền con người và sự phát triển con người đồng đều, toàn diện. Song, các thế lực thù địch, phản động lại luôn tìm mọi cách xuyên tạc mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Thứ balợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo.Về vấn đề này, các tổ chức, nhóm, hội phản động cố tình cho rằng Việt Nam có hai chính sách tôn giáo: (1) Chính sách bảo đảm trên hình thức và “chính sách” không bảo vệ, không bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong thực tế thông qua “cơ chế xin - cho”; (2) Tạo lập các “tôn giáo quốc doanh”. Đồng thời chúng xuyên tạc, vu cáo, chỉ trích các văn bản, chính sách, pháp luật về tôn giáo và lợi dụng các vụ việc và việc Nhà nước xử lý các đối tượng, vụ việc phức tạp liên quan tới tôn giáo. Các thế lực phản động xuyên tạc rằng: nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về dân tộc không tương đồng với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng còn lợi dụng niềm tin tôn giáo của một bộ phận nhân dân theo đạo để xuyên tạc, lợi dụng các quyền đã có của họ biến thành không có để đòi quyền tự do tạo dư luận như một bài trên Youtube với tiêu đề “Chúng ta có quyền tự do mặc áo nâu, tự tu, cạo đầu”. Hay chúng còn lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số đấu tranh đòi thành lập “Vương quốc Mông”, “Nhà nước Đêga”.

Ngoài những phương thức trên, các tổ chức, nhóm, hội phản động, chống phá còn sử dụng nhiều cách thức khác nhau một cách tinh vi như lồng ghép một số nội dung không đúng vào các bài viết, tin bài bàn luận về một vấn đề nào đó trên mạng xã hội nhằm định hướng dư luận.

Để đấu tranh với các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về quyền con người bên cạnh việc nhận diện đúng thông tin đưa ra thì chúng ta cần có các biện pháp để ngăn chặn sự lan tỏa thông tin, xóa bỏ triệt để thông tin và cung cấp thông tin đúng sự thật cho nhân dân.

Trước hết phải luôn nâng cao tinh thần học tập chính trị, giữ vững lập trường, tư tưởng. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện giải pháp này, trước hết các tổ chức trong hệ thống chính trị cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về hệ tư tưởng của Đảng, về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch bệnh.

Bên cạnh đó cần nhận diện chính xác và tuyên truyền đến mọi cán bộ, đảng viên, và tầng lớp Nhân dân về những đối tượng, nhóm đối tượng, thủ đoạn, phương thức và những luận điệu xuyên tạc mà chúng sử dụng nhằm ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta hiện nay. Tăng cường hoạt động quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, ngăn chặn sớm các tin tức xấu độc trên các trang mạng xã hội.

Cùng với đó, luôn luôn cảnh giác trước các thông tin từ những nguồn không chính thống, đặc biệt là các thông tin được chia sẻ trên mạng xã hội. Tuyệt đối không chia sẻ những thông tin từ nguồn không chính thống, chưa được kiểm chứng. Nếu biết rõ thông tin đó là không đúng thông qua các trang mạng xã hội có thể báo cáo bài viết, video đó trên trang chủ. Phổ biến tới toàn thể cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân cũng cần thực hiện 5K để phòng tránh (không tin ngay, không vội bấm “thích”, không thêm thắt, không kích động, không vội chia sẻ). Đính chính ngay những thông tin không đúng bằng nguồn tin chính xác, chỉ rõ luận điểm, thông tin không đúng đã được đăng tải.

Có thể thấy, việc đấu tranh, phản bác những luận điểm xuyên tạc, không đúng về quyền con người là một quá trình dài, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta mà nguồn lực lượng chính là đảng viên, nhân dân. Qua từng thời kỳ cùng với sự phát triển của xã hội đã phát triển nhiều hình thức tinh vi xuyên tạc của các thế lực thù địch về quyền con người nhằm vào chính quyền ta. Các thế lực thù địch không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào khi có thể để chống phá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Do đó để bảo vệ quyền con người mà nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã cùng đấu tranh, gìn giữ, bảo vệ và phát triển mỗi đảng viên cần nêu cao hơn nữa tinh thần yêu nước, đề cao tinh thần cảnh giác và luôn giữ vững niềm tin vào Đảng và đường lối, chính sách của Đảng đã đề ra./.

ST.