Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Kiên định sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa hội qua tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020(1).

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng(2).

Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(3).

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mớiNước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.

Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ.

Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...(4). Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(5). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng…

Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội(7). Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(8).

Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về  thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động”(9) và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”(10). Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”(11). Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”(12)

Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”(13)...

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”(14). Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp.

Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(15). Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam.

Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”(16). Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”(17).

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(18)Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(19). Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(20), đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(21). Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(22).

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”(23), chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây  “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24). Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược(25). Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.

Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./.

----------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31
(2) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 166
(3) Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.31, 32
(4) Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 23-24
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 25-26
(6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 47
(7) Về vấn đề này, xem trong các tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (năm 1847), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848), Phê phán Cương lĩnh Gôta (năm 1875), Chống Đuy-rinh (1876-1877), Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học (năm 1880)…
(8) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999, t. 36, tr. 796
(9) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 20, tr. 103
(10) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 99
(11) V. I. Lê-nin: Toàn tậpSđd, t. 4, tr.232
(12) V. I. Lê-nin: Toàn tậpSđd, t. 41, tr. 96
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, hà Nội, 2011, t.1, tr.XXII
(14) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr.17
(15) Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr.35
(16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 264
(17) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 189
(18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 51
(19) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 22
(20) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 772
(21) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 25
(22) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 209
(23) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 29
(24) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 288
(25) Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamSđd, tr. 69

Nhận diện những biểu hiện cơ hội chính trị trong Đảng

 



Từ những nghiên cứu, luận giải trên cho thấy, cơ hội chính trị bao hàm nhiều đối tượng khác nhau ở trong và ngoài Đảng nhưng đều mang điểm chung là có nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong đó, những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nước ta hiện nay ngày càng phức tạp, tinh vi và nguy hiểm.

Hơn 90 năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, nhiều lần khẳng định trong các nghị quyết. Trong đó nhấn mạnh: “Hiện nay phải đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ Đảng, trước hết là bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng, cảnh giác và tỉnh táo không để cho những phần tử cơ hội về chính trị, phản động chui vào hàng ngũ Đảng”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định phải: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”.

Nhận diện những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng hiện nay qua 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đối tượng đấu tranh chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng là những cán bộ, đảng viên hiện đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, cơ quan đoàn thể hoặc đã nghỉ hưu được luật pháp quy định...

Biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nhiều cấp độ khác nhau, như: Nhóm đối tượng do hạn chế về nhận thức, thiếu thông tin hoặc tiếp nhận những nguồn tin không chính thống, bị kẻ xấu lợi dụng; nhóm đối tượng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, công thần, sống vụ lợi, ích kỷ; nhóm đối tượng công khai bộc lộ tư tưởng cực đoan, bất mãn, chống đối và đặc biệt nghiêm trọng là nhóm có khuynh hướng chống đối, tập hợp lực lượng, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá cách mạng Việt Nam, khi đó từ cơ hội về chính trị đến phản bội Đảng, Tổ quốc và nhân dân là rất gần. Biểu hiện chung nhất là phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; tham vọng chức quyền...

V3.

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

 


 Hiện nay, các thế lực chống đối và thù địch đang tăng cường sử dụng các phương tiện truyền thông, internet, blog, mạng xã hội, các đài phát thanh chương trình Việt ngữ, báo, tạp chí, nhà xuất bản tiếng Việt, các website; lập nên những “diễn đàn” (forum) hòng tập hợp những phần tử bất mãn, chống đối và cả những kẻ đã bị kỷ luật giờ quay lại chống phá… nhằm “tập hợp ý kiến”, nhân danh “đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”, “phản biện xã hội”, “hiến kế cho Đảng”… Từ đó, trích dẫn, bình luận và  phát tán những thông tin xấu, độc nhằm chống phá, xuyên tạc về vai trò của công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể nhận diện luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch qua các nhóm vấn đề sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng công tác chính trị là nhằm mục đích biến quân đội thành “công cụ bạo lực tiêu diệt tất cả những ai chống lại Đảng”(!?). Họ sử dụng các kỹ thuật cắt xén, lắp ghép hình ảnh của các cuộc hành quân, tập trận, hình ảnh hỗ trợ lực lượng an ninh trong công tác phòng, chống bạo loạn, trấn áp tội phạm… để rồi dựng lên câu chuyện quân đội “được Đảng điều đi để dập tắt một cuộc biểu tình của nhân dân”(!?) và “sẵn sàng dùng lực lượng đó để đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến”(1).

Lịch sử gần 80 năm với những chiến công mang tầm vóc thời đại của Quân đội nhân dân Việt Nam đã cho thấy: Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của Quân đội ta đó chính là nhờ có công tác lý luận chính trị trong quân đội. Có thể khẳng định, ngay từ khi được thành lập, những chiến công, những thành quả các mạng mà quân đội Nhân dân Việt Nam có được thì ngoài về con người và vũ khí còn phải kể đến vai trò của công tác lý luận chính trị. Việc Đảng ta đã ban hành Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) để từ đó hình thành nên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay) đã cho thấy công tác lý luận chính trị “không chỉ có giá trị định hướng dẫn dắt mọi hoạt động của Đội mà nó còn đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam”(4). Đây cũng là cơ sở đầu tiên dẫn đến hai chiến thắng liên tiếp là Phai Khắt và Nà Ngần vào ngày 24 và 25/12/1944. Chiến thắng này đã tác động mạnh mẽ, gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong hàng ngũ quân địch, đồng thời cổ vũ tinh thần cách mạng của quân chúng nhân dân, gấp rút chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ vùng dậy đạp đổ xiềng xích của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua thời gian, từ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) cho đến các văn kiện ở các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc sau này đều đã khẳng định: Công tác chính trị với nền tảng là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp cho cán bộ và chiến sĩ trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, niềm tin cộng sản; ngày càng nêu cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”... Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Công tác này đã kịp thời định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp; xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.

Là đội quân từ “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”, nếu trong thời chiến, những chiến thắng hiển hách của quân đội ta đều là những chiến thắng trước kẻ thù xâm lược và phá hoại (thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Khơ-me Đỏ ở biên giới Tây Nam; Trung Quốc ở biên giới phía Bắc…) thì trong thời bình, đó là sự dũng cảm, mưu lược đầy trí tuệ và khoa học trước những nhiệm vụ mới. Đó là Dự báo và nắm chắc đúng tình hình liên quan đến quốc phòng - an ninh, trong quan hệ đối nội và đối ngoại; luôn chủ động để đất nước không bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; luôn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững; luôn là lực lượng xung kích đi đầu và thể hiện trách nhiệm cao trong việc giúp dân, giúp nước trong phòng chống đại dịch Covid-19, thiên tai, bão lũ... Đặc biệt, trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế với mục tiêu hòa bình, ổn định để cùng phát triển, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cao cả, như: giúp nhân dân Campuchia, nhân dân Lào trong sự nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược, giải phóng dân tộc; cử các đội tình nguyện thực thi các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi (thông qua các Bệnh viện dã chiến các cấp) và gần đây nhất là cử Đoàn cứu hộ, cứu nạn gồm 76 cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã đến Thổ Nhĩ Kỳ làm nhiệm vụ hỗ trợ nước bạn khắc phục hậu quả thảm họa động đất... Những việc làm này đã góp phần khẳng định uy tín, vị thế, tinh thần trách nhiệm, năng lực tác chiến của Quân đội ta và khẳng định với thế giới: Quân đội Nhân dân Việt Nam là đội quân không chỉ bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc mà còn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Do đó, cái gọi là “công cụ” để “tiêu diệt tất cả những ai chống lại Đảng” chỉ là những chiêu trò vu khống, xuyên tạc mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành.

Thứ hai, hoàn toàn ấu trĩ và sai lầm khi cho rằng: vì được trang bị công tác chính trị của Đảng nên quân đội Việt Nam đã mất đi vai trò “trung lập” cũng như mất đi sức mạnh, sức chiến đấu

Theo Từ điển Tiếng Việt, “trung lập” có nghĩa là một tổ chức, một tập thể hoặc cá nhân nào đó “đứng ở giữa hai bên đối lập, không theo hoặc không phụ thuộc vào bên nào”. Chiếu theo nghĩa này thì “quân đội trung lập” là khi “không theo hoặc không phụ thuộc” vào một trong “hai bên đối lập”, và quân đội của một quốc gia chỉ “trung lập” khi quốc gia đó đang có sự tồn tại của “các bên đối lập” tranh giành nhau về quyền lực, lợi ích, vị thế xã hội…

Xét trong bối cảnh tổng thể hiện nay, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử, kinh tế... Hệ thống chính trị của Việt Nam gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, do Đảng Cộng sản lãnh đạo: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”(5)… Như vậy, ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không có cái gọi là “hai bên đối lập”!

Ở Việt Nam, trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng: “Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng Quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và chịu sự lãnh đạo của giai cấp đã tổ chức ra nó; đó là cơ sở để xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ của Quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tỉnh nhân dân sâu sắc, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân”(6) … Như vậy, quân đội xét ở bất kỳ góc độ nào cũng không thể có cái gọi là “quân đội trung lập”! Điều này, đã từng được Lênin chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị, đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ, giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản…”(7).

Rõ ràng là “Quân đội không thể và không nên trung lập”. Vậy thì, sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội có phụ thuộc vào yếu tố “trung lập” hay là phụ thuộc vào các yếu tố khác? Khi bàn về sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội, Ph.Ăngghen cho rằng: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi hay thất bại rõ ràng là phụ thuộc vào các điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế”(8)Như vậy, sức mạnh, sức chiến đấu cho quân đội được hình thành trước hết là do “điều kiện kinh tế” và sau đó là nhiều yếu tố khác gắn với từng hoàn cảnh lịch sử và từng quốc gia riêng biệt. Từ lý luận của Ăngghen, đối chiếu vào lịch sử và thực tiễn hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chúng ta thấy: Sức mạnh của quân đội cách mạng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật, cách đánh, truyền thống dân tộc… trong đó, con người và vũ khí là yếu tố cơ bản nhất. Đặc biệt, yếu tố giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội là yếu tố chính trị tinh thần: “Quân đội muốn nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới thì phải lấy vững mạnh về chính trị và chuẩn mực “Bộ đội cụ Hồ” làm cơ sở”(9).

 

Thứ ba, chỉ là chiêu trò đánh tráo khái niệm khi cho rằng một số cán bộ, sĩ quan trong quân đội vi phạm kỷ luật là “sai phạm của cả hệ thống”, là “căn bệnh chung do quy trình đào tạo bổ nhiệm cán bộ tạo ra”.

Thời gian qua, đã có một số sĩ quan cấp tướng và nhiều cán bộ khác của quân đội được giao trọng trách nhưng đã mắc những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng; làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng đến kỷ luật, kỷ cương quân đội và gây bức xúc trong xã hội.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những sai phạm này, tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất đó là do ý định chủ quan của chính những người vi phạm. Cụ thể: Những người vi phạm này, hoặc là họ lợi dụng việc được nhà nước, quân đội giao nhiệm vụ để cấu kết, sai phạm; hoặc là mắc bệnh công thần, kiêu ngạo, đến chủ nghĩa cá nhân, xa rời tổ chức, coi thường kỷ luật Đảng, kỷ cương phép nước. Họ không ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mình, đòi hỏi thái quá ở tổ chức, tự cao, tự đại nên đã nảy sinh tiêu cực. Những người này là những người suy thoái về tư tưởng chính trị, lối sống; thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu thường xuyên rèn luyện đạo đức... và hoàn toàn không phải là đại diện cho cho quân đội, cho hệ thống chính trị Việt Nam!

Thực tế đã cho thấy: lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội và các cựu chiến binh, cựu quân nhân vẫn luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; luôn giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Những trường hợp sai phạm như trên chỉ là cá biệt, là “con sâu làm rầu nồi canh” và đã phải nhận những hình thức kỷ luật đích đáng. Điều này đã cho thấy quan điểm nhất quán của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và rộng hơn là của Đảng và Nhà nước ta: Vừa kiên quyết xử lý sai phạm một cách công khai, nghiêm minh để giữ cho được lòng tin của nhân dân, giữ cho được bản chất trong sạch của chế độ, vừa giữ vững những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của quân đội.

Như vậy, việc một số cán bộ, sĩ quan trong quân đội vi phạm kỷ luật  hoàn toàn không phải là sai phạm của “cả hệ thống” mà chỉ là sai phạm của cá nhân. Việc đổ thừa cho quy trình đào tạo bổ nhiệm cán bộ mà Đảng, Quân ủy trung ương, thực chất chỉ là chiêu trò lèo lái dư luận, đánh tráo khái niệm nhằm chia rẽ và phá hoại của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, việc các thế lực thù địch, phản động lấy hình thức/nguyên cớ để quy chụp, phủ nhận còn cho thấy rằng, họ hoặc cố tình, hoặc rất kém hiểu biết về thực tiễn sinh động đang diễn ra. Bởi lẽ, trước hoặc cùng một sự vật sự việc nhưng lại mang một tư duy hẹp hòi, định kiến thì hẳn nhiên những người này sẽ không hoặc khó có thể nhìn thấy điểm tốt, điểm tích cực của sự vật, sự việc ấy.

*          *

*

Rõ ràng, các quan điểm sai trái, xuyên tạc về vai trò của công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam mà các thế lực thù địch đang tiến hành, về bản chất đó là sự chia rẽ và phá hoại nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, để đập tan âm mưu phản động này, chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác chính trị trong quân đội: Kịp thời định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp; xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động; giữ vững được bản lĩnh chính trị, giữ vững kỷ cương, kỷ luật một cách nghiêm minh… và hơn hết: “Bất luận trong hoàn cảnh nào cũng luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân; tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta sẽ mất phương hướng chiến đấu, phân rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không còn sức mạnh để chiến thắng quân thù. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây vẫn còn nguyên giá trị”(10). Đây cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng để góp phần vào việc xây dựng một nước Việt Nam “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” như mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đặt trong bối cảnh lịch sử gần 80 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặt trong mối quan hệ biện chứng “cá – nước” giữa Quân đội và Nhân dân Việt Nam, và xét trong mối quan hệ với thế giới, chúng ta hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng: Công tác lý luận chính trị trong Quân đội không phải là hoạt động giáo lý khiến cho người chiến sĩ u mê, chỉ biết có mỗi việc cầm vũ khí; cũng không phải là sự ràng buộc để làm cho quân nhân sợ sệt… như những luận điệu xuyên tạc và xảo trá của các thế lực thù địch, chống đối "nhai đi nhai lại"; mà ngược lại: “Bản chất công tác đảng, công tác chính trị là hoạt động lãnh đạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, ứng tác chính trị chính là giữ vững và phát huy sự lãnh đạo của tặng đối với các mặt hoạt động, các nhiệm vụ của Quân đội, góp phần xây dựng tổ chức, con người vững mạnh, thiết thực xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị”(11)”./.

V3.

NHẬN DIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỚI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI

 


Ngay từ khi ra đời, Quân đội Nhân dân Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “kim chỉ nam” trong quá trình xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng là cơ sở để xây đắp, tăng cường, củng cố đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Quân đội sẽ trực tiếp góp phần củng cố, bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Một trong những nội dung trong hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội Trong cuốn sách mới công bố ngày 18/6/2023 với tên gọi “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Thực chất, “phi chính trị hóa” Quân đội là thủ đoạn cực kỳ nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, tách rời Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước ta”(1). Sở dĩ Tổng Bí thư coi đây là “thủ đoạn cực kỳ nhan hiểm” vì các thế lực thù địch đã thực hiện thành công âm mưu này ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với Việt Nam, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội thực chất là mũi nhọn để phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam với Quân đội nhân dân Việt Nam, làm cho Quân đội thay đổi mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Trong thời gian gần đây, lợi dụng những thành tựu củaCuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo AI, các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam đã triệt để lợi dụng để tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả mạo, sai lệch, thật giả lẫn lộn gây hoang mang cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta. Các thủ đoạn của chúng là lập hàng loạt các trang web, blog, hàng loạt các nhà xuất bản và các đài phát thanh truyền hình có chương trình tiếng Việt như: Người đưa tin, Sự thật 24h…; xây dựng các chiêu trò như: Tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm tiếp xúc trực tiếp với các tổ chức, cá nhân phản động, bất mãn chính trị trong và ngoài nước để tuyên truyền, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng và tình hình đất nước. Với Quân đội, các phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng một số vi phạm, khuyết điểm của một số cán bộ, sĩ quân, chiến sĩ trong Quân đội để xuyên tạc, thổi phồng, thậm chí khoét sâu làm trầm trọng hóa thêm tình hình nhằm bôi nhọ, hạ thấp hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Qua đó, tấn công vào trận địa tư tưởng, văn hóa của Quân đội và tư tưởng chính trị, tình cảm, đạo đức, lối sống từng cán bộ, chiến sĩ. Đây là những chiêu trò chống phá rất nguy hiểm, chúng ta không thể lơ là, xem nhẹ.

          V3.

Kiên quyết và đồng bộ giải pháp phòng, chống biểu hiện cơ hội chính trị

 



Trong tình hình hiện nay phải đặc biệt quan tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tăng cường đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng với hệ thống các giải pháp. Trước hết, tập trung vào một số giải pháp như: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị ở nước ta hiện nay. Phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quản lý, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phát huy dân chủ, sức mạnh tổng hợp đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị, nhất là biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng với lộ trình, bước đi, hình thức, phương pháp, giải pháp phù hợp, thiết thực, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu, các bước trong tuyển chọn, bố trí sử dụng, không để những phần tử cơ hội về chính trị chui sâu, leo cao phá hoại Đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử có biểu hiện cơ hội về chính trị. Thực hiện tốt công tác chính sách cho các đối tượng đúng quy định của pháp luật, kịp thời tôn vinh, động viên, đãi ngộ thỏa đáng những người có công với cách mạng. Kiên quyết đấu tranh, đập tan những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.

V3.

Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

       Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị trường tồn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, việc bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

1- Giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định qua các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi.

Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”… Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn giáo dục, dìu dắt các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển. Dù thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn trường tồn cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo trên nền của một nhân cách vĩ đại, với trí tuệ uyên bác và luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ đòi hỏi của dân tộc với sự phát triển của thời đại. Người luôn nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “phương pháp làm việc biện chứng”. Trên tinh thần và cách tiếp cận đó, hệ thống các quan điểm của Người về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của dân, do dân, vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), xây dựng văn hóa, đạo đức, con người mới, về quân sự, ngoại giao… đều phản ánh sự kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin gắn với điều kiện lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

Ngoài ra, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam còn là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân”. Điều đó cho thấy giá trị tư tưởng của Người thông qua các luận điểm về quyền sống tự do, độc lập - một trong những giá trị vĩnh hằng trong quyền tự nhiên của con người và cũng là quyền căn bản của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó, các luận điểm mang dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự lực cánh sinh, về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, về xây dựng nền văn hóa mới, giáo dục mới, con người mới, gắn với thể chế chính trị mới; xây dựng quân đội nhân dân và nền ngoại giao nhân dân dựa trên nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… cũng là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú lý luận Mác - Lê-nin gắn với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Quá trình cách mạng Việt Nam 94 năm qua đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Mặc dù đến Đại hội VII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta trang trọng ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, song trên thực tế, cùng với học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam” cho Đảng ta ngay từ khi Đảng mới ra đời vào mùa Xuân năm 1930, với những văn kiện đầu tiên của Đảng mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với lý luận Mác - Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.

Với vai trò, uy tín và tầm ảnh hưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ tiêu biểu cho khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của toàn dân tộc. Tư tưởng của Người về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam không chỉ chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, mà còn hàm chứa tư duy lý luận khoa học. Cùng với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Đảng ta để xác định đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo cách mạng, nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm thực hiện thành công tầm nhìn chiến lược của Đảng được xác định tại Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).

Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 94 năm qua. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận, điều đó không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"(2).

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được hiện thực hóa đã cổ vũ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Một trong những đóng góp nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc, là đã tìm ra con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam - con đường “cách mạng vô sản”. Tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh nhân dân Việt Nam - những người bị áp bức tàn bạo dưới chế độ thực dân. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, gắn cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản. Thông qua các quan điểm và hoạt động thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nhờ sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã được thức tỉnh, nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(3). Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4).

Trong 38 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo theo định hướng phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự, an toàn và an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(5).

2- Để bảo vệ các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cũng như của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây là định hướng quan trọng, là tiền đề tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của các chủ thể. Bởi vì, nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng và nhận thức đúng sẽ không vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(6). Theo đó, cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, làm cho cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về các nội dung khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại(7).

Ngoài ra, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8). Để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là các nhà trường giảng dạy về lý luận chính trị cần thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; các quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận.

Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.

Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.

Theo đó, cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các học viện, nhà trường; tập trung truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi, cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung, giá trị mới, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, làm cơ sở định hướng cho việc vận dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trong các nhà trường, đổi mới, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người học nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, tích cực, chủ động, nhạy bén trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, nhất là cơ quan báo chí, tuyên truyền, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cần chủ động, tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cấp, các ngành phải tích cực, chủ động thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời những bức xúc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sự nhất trí trong nội bộ, củng cố và nâng cao niềm tin vào giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, đi đôi với tăng cường quản lý chặt chẽ báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường thông tin đối ngoại và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Trong quá trình tìm đến chân lý cách mạng, ngay từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(9). Do vậy, để tiếp tục khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, phải tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và tìm ra các giá trị mới của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn. Vì thế, trước hết phải nghiên cứu, vận dụng và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần mác-xít nhằm cải tạo thực tiễn; tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, luận điểm toàn diện và sâu sắc của Người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước.

Để thực hiện tốt các nội dung trên, đòi hỏi phải phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt Quy định số 285-QĐ/TW, của Bộ Chính trị khóa XI, về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu. Thông qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học, nhằm góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo, nâng tầm lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng chuyên trách trong đấu tranh bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận, của việc bảo vệ, vận dụng, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng chuyên trách. Hơn ai hết, đội ngũ này phải là lực lượng thật sự kiên định về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong các học viện, nhà trường về nội dung, giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được chú trọng, đổi mới; đồng thời, làm tốt việc lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng những người có tâm huyết, có trình độ cao, năng lực, phong cách công tác tốt để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ tuyên giáo và lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, phát huy vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng chuyên sâu, lực lượng 47 trong quân đội... để nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên internet và các phương tiện truyền thông xã hội. Thường xuyên quan tâm, động viên và phát huy hiệu quả các trang website, blog cá nhân, nhóm của lực lượng nòng cốt và ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật để kịp thời ngăn chặn, lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta./.

----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 112
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 99
(3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 633
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103 - 104
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 360
(7) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn sách Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr. 912
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 113
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509