Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
1. Quyền con người là giá trị thiêng liêng, cao quý của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, không phải chờ đến khi Liên hợp quốc thành lập năm 1945, thông qua bản Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 và thiết lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội, Đảng ta mới có quan điểm về quyền con người; mà ngay từ ngày đầu thành lập, trong văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930 (Chánh cương vắn tắt của Đảng), đã đề ra chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, về phương diện xã hội thì dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa(1). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, các tư tưởng, giá trị cốt lõi về quyền con người, như quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, được nêu trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Các giá trị cốt lõi của quyền con người đã được đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước kiểu mới - Hiến pháp năm 1946.
Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI của Đảng (năm 1986), đánh dấu bước ngoặt lịch sử, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách. Mặc dù trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng chưa sử dụng khái niệm quyền con người nhưng với quan điểm “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”(2) và “…bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”(3).
Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được hệ thống quan điểm lý luận cơ bản, toàn diện về vấn đề quyền con người, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Những quan điểm lý luận về quyền con người của Đảng ta được xây dựng, phát triển và hoàn thiện như ngày nay có sự đóng góp to lớn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
2. Trên cương vị là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (2011 - 2024), đồng chí là người tham gia trực tiếp chỉ đạo tổng kết 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Tổ trưởng Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XI và trưởng tiểu ban các văn kiện của Đảng (Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng).
Trong các văn kiện của Đảng được thông qua trong thời kỳ đổi mới, quan điểm về quyền con người được thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhất đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng. Cùng với các quan điểm trước đó của Đảng về quyền con người được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” và trong Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện về quyền con người trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(4). Tiếp nối quan điểm này, Đại hội XIII của Đảng làm rõ hơn, khi xác định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(5).
Thứ hai, “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và luật quy định. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”(6).
Thứ ba, gắn tôn trọng, bảo vệ quyền con người với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước hoạt động là vì con người, bảo đảm và thực hiện quyền con người”(7).
Thứ tư, “Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết”(
.
Thứ năm, “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp 2013 (...) hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”(9).
Thứ sáu, “xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”(10) đến “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(11).
Thứ bảy, “sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”(12).
Thứ tám, bảo đảm quyền con người trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng cho rằng, chủ nghĩa xã hội là mô hình tốt nhất để bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(13).
Tổng Bí thư nhấn mạnh, “xã hội trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(14). Như vậy, mục tiêu, khát vọng xây dựng một xã hội vì tự do, vì quyền con người được tôn trọng, bảo đảm thực hiện chỉ có thể dưới chủ nghĩa xã hội. Do đó, bảo đảm quyền con người được hiện thực hóa trong đời sống xã hội, con đường đúng đắn hiện nay là đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Quán triệt và thực hiện đầy đủ các quan điểm của Đảng và của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trước hết, đó là quan điểm lấy con người/nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực phát triển đất nước.
Cần quán triệt và thực hiện thật tốt quan điểm này trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; đòi hỏi các chương trình, chính sách phát triển, đều phải hướng trọng tâm vào chủ thể hưởng quyền, đó là người dân/nhân dân. Lấy quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể hưởng quyền là cơ sở xây dựng và hoạch định chính sách phát triển quốc gia; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu cao nhất trong toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình cao và tầm nhìn 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao với quyết tâm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là dân nghèo, đồng bào sống ở vùng sâu, vùng xa. Để đạt được mục tiêu và tầm nhìn này, cần ưu tiên phát triển con người, phát huy cao nhất yếu tố con người trong hoạch định các chiến lược phát triển đất nước; đòi hỏi nâng cao hiệu quả tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với Quốc hội, với vai trò là cơ quan lập pháp, có nhiệm vụ cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về quyền con người thành các quy định của pháp luật; tiếp tục ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đối với Chính phủ, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền con người ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Theo quan điểm của Tổng Bí thư, đó là: “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn(15). Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, bảo đảm thực hiện tốt an sinh xã hội, an ninh con người, chú trọng các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc, đất đai, lao động...; đặc biệt chính sách đối với nhóm người dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm gắn phát triển kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Đẩy mạnh tuyên tuyền để mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ quan điểm của Đảng, của Tổng Bí thư về chính sách xã hội, thực hiện chính sách xã hội bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Bảo đảm mối quan hệ không thể tách rời giữa con người với tư cách là cá nhân với con người trong cộng đồng, nhóm, tập thể: Mỗi cá nhân con người phải được bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của họ; phải coi mỗi cá nhân, công dân là chủ thể, là động lực trung tâm của chính sách xã hội.
Việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, cần có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tiếp cận quyền con người, bảo đảm quyền con người trong từng chính sách phát triển, từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến tổ chức, triển khai thực hiện chính sách.
Thứ ba, gắn tôn trọng, bảo vệ quyền con người với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” tiếp tục quan điểm lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đề ra mục tiêu tổng quát của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; mục tiêu đến năm 2030 hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân để tiếp tục xây dựng thể chế pháp quyền vì quyền con người, quyền công dân, bảo đảm bình đẳng, tương ứng với thẩm quyền của bộ máy nhà nước nhằm tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Qua đó thúc đẩy và buộc cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong quan hệ với người dân bằng thể chế pháp quyền, đồng thời từng bước triệt tiêu những quan hệ lệch lạc kiểu “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể”, “lợi ích nhóm” và tính bao cấp, hay tư tưởng ban phát, ban ơn quyền, lợi ích.
Cùng với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong các thiết chế nhà nước, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến năm 2030 và tầm nhìn 2045. Hệ thống pháp luật phải đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trọng tâm, đề cao hiệu quả phòng ngừa, bảo đảm tính nhân đạo, tính hướng thiện cần được thẩm thấu trong từng quy định của pháp luật. Như vậy, hệ thống pháp luật được xây dựng, tồn tại phải vì con người và bảo vệ quyền con người; tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, quan tâm xây dựng pháp luật bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như quyền trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, dân tộc thiểu số…
Tiếp tục thể chế hóa việc mở rộng cơ chế bảo đảm dân chủ, quyền dân chủ, “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”(16), gắn quyền tham gia với quyền thụ hưởng thành quả phát triển, thành quả của công cuộc đổi mới. Đây là giải pháp trực tiếp để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người và bảo đảm sự thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Cần tuyên truyền và quán triệt các cấp, các ngành và mọi người dân về tầm quan trọng của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; tiến tới xây dựng đạo luật thực hiện dân chủ, mà không chỉ là dân chủ ở cơ sở; nghiên cứu xây dựng Luật Minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.
Thứ năm, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đòi hỏi trong tố tụng hình sự phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không được làm oan người vô tội và không được bỏ lọt tội phạm.
Trong hoạt động tư pháp, cần chú trọng hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó nghiên cứu sớm hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp. Nghiên cứu có thể sớm ban hành Luật Cấm can thiệp hoạt động xét xử; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp.
Với bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đòi hỏi tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện để bảo đảm nền công lý thực sự vì dân, không ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ sáu, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Vận dụng tiếp cận quyền con người với quan điểm phát triển bao trùm trong xây dựng và thực hiện quyền con người, là để bảo đảm tính thống nhất, liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người, để người dân được thụ hưởng các quyền của mình trong quá trình phát triển. Đồng thời khẳng định, người dân là chủ thể của quyền con người, được hưởng thành quả của quá trình phát triển do chính họ tạo ra, và đó là thụ hưởng quyền, chứ không phải là từ thiện, nhân đạo, hay ban phát của bất kỳ ai. Trong hoạch định chính sách bảo đảm quyền con người nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Chính sách bảo đảm quyền con người phải bảo đảm gắn phát triển kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người. Tính đến nay (năm 2024), Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các điều ước quốc tế về quyền con người như, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (UNCRC), Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); các công ước của ILO, các tiêu chuẩn về lao động, quyền lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới... Cần xây dựng kế hoạch, chương trình hành động quốc gia về quyền con người; có tiêu chí đánh giá tác động quyền con người, nhất là quyền của các đối tượng bị tác động trực tiếp của dự luật, trước khi thông qua; đưa nội dung cách tiếp cận quyền con người vào quản lý phát triển xã hội; việc hoạch định và thực thi các chính sách, chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải sử dụng hiệu quả cách tiếp cận quyền con người; bảo đảm thực hiện tốt các quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ bảy, Việt Nam sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Với quan điểm của Đảng là: “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(17), trong những năm gần đây, với chủ trương tích cực, chủ động hội nhập, quan điểm “ngoại giao cây tre”, Việt Nam không chỉ nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế, mà còn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và thế giới. Điều này thể hiện rõ thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao những lần Việt Nam gia nhập Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam tích cực tham gia đối thoại song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, như duy trì các kênh đối thoại với Mỹ, Ốt-xtrây-li-a, Na Uy, Thụy Sỹ và Liên minh châu Âu (EU); đồng thời thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước(18).
Là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2023 - 2025), Việt Nam đã có nhiều sáng kiến cùng với Băng-la-đét, Phi-líp-pin xây dựng thành công Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc về quyền con người và biến đổi khí hậu; Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người và 30 năm Tuyên bố và Chương trình Hành động Viên; sáng kiến về quyền con người và tiêm chủng; tích cực bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển; quyền của các nhóm yếu thế… được các nước đánh giá cao(19)./.
St