Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng, hoàn thiện và tiến tới tự tiêu vong.


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một bước tiến lịch sử so với chuyên chế phong kiến, chế độ quân chủ và nền dân chủ tư sản. Con đường mở rộng dân chủ là sự phủ định biện chứng chế độ dân chủ tư sản; kế thừa và phát triển giá trị truyền thống văn hóa dân chủ của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Những nhân tố về quản lý nhà nước trong lịch sử được đúc rút, phát huy và bổ sung bằng các nhân tố mới, bằng thành quả đấu tranh, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là nền dân chủ mà: “trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, mới bắt đầu có một sự tiến lên mau chóng, thật sự, thực sự có tính chất quần chúng, lúc đầu được đa số dân cư tham gia, rồi về sau được toàn thể dân cư tham gia”[1]. Mở rộng dân chủ với nhân dân gắn liền với hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó ngày càng được hoàn thiện trong quá trình đất nước tiến dần lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng càng hoàn thiện bao nhiêu, nó càng tự tiêu vong bấy nhiêu. Như V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể đưa lại một chế độ dân chủ thật sự hoàn bị, và nó càng hoàn bị bao nhiêu thì lại càng mau trở nên thừa và tự tiêu vong bấy nhiêu”[2].

Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự quản). Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó. Xã hội lúc đó, là một xã hội: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đó là quá trình phát triển lâu dài từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 33, “Nhà nước và cách mạng” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.123.

[2] V.I.Lênin toàn tập, Tập 33, “Nhà nước và cách mạng” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.110. 

Dân chủ đi đối với chuyên chính.

 


 Dân chủ gắn liền và được bảo đảm bằng pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ mà quyền lực thuộc về nhân dân, không ngừng mở rộng quyền tự do dân chủ cho nhân dân, đồng thời chuyên chính với các loại kẻ thù của nhân dân. Dân chủ vô sản và chuyên chính vô sản là hai quá trình đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau; trong đó, chuyên chính vô sản là “hòn đá thử vàng” phân biệt người mácxít và kẻ cơ hội. Đặc điểm của nền dân chủ mới được Hồ Chí Minh chỉ rõ là: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến. Trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động”[1].



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8, “Thường thức chính trị” (1953), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.293.

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ - YẾU TỐ CĂN CỐT TRONG NHÂN CÁCH BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Bản lĩnh chính trị là yếu tố quan trọng góp phần làm nên nhân cách Bộ đội Cụ Hồ. Bản lĩnh chính trị đã góp phần tạo nên sức mạnh để Quân đội ta kiên cường vượt qua những khó khăn, thử thách, chấp nhận hy sinh, đúng như lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã khẳng định: “Càng trong khó khăn phức tạp, hình ảnh và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ càng được giữ vững, phát huy và tỏa sáng”.

Yếu tố nền tảng làm nên phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ
Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương đã khái quát 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới; trong đó, bản lĩnh chính trị được đặt lên hàng đầu, là yếu tố cơ bản, căn cốt, bao trùm để bồi đắp, giữ vững và lan tỏa phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.
Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là kết tinh những giá trị, chuẩn mực nhân cách người quân nhân cách mạng, được xây đắp từ truyền thống văn hóa dân tộc, quá trình giáo dục, rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự tin tưởng, giúp đỡ của nhân dân và từ những cống hiến, hy sinh của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ; được lưu giữ, kế thừa và phát triển qua thực tiễn chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta.
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội và mỗi cán bộ, chiến sĩ; biểu hiện ở nhận thức chính trị, lập trường, quan điểm, thái độ chính trị; là ý chí và niềm tin vào giai cấp, chế độ và sức mạnh của dân tộc. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta trước hết thể hiện ở lời thề thứ nhất trong 10 lời thề danh dự của quân nhân: “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, giữ vững lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, bản lĩnh chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Bản lĩnh chính trị được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ rèn luyện, củng cố và kiên định trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta.
Bản lĩnh chính trị vững vàng giúp Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, giữ vững trận địa tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc, của tập thể lên trên hết, trước hết. Bản lĩnh chính trị còn là ý chí, sức mạnh để mọi quân nhân luôn tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao để nâng cao sức mạnh tổng hợp chiến đấu của Quân đội.
Tiếp tục giữ vững và phát huy bản lĩnh chính trị Bộ đội Cụ Hồ
Trải qua 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội ta luôn tỏ rõ bản lĩnh của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp lập nên những chiến công hiển hách, xây đắp nên truyền thống vẻ vang, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Bản lĩnh chính trị là sức mạnh để Quân đội ta kiên cường vượt qua những khó khăn, thử thách, chấp nhận hy sinh, đúng như lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã khẳng định: “Càng trong khó khăn phức tạp, hình ảnh và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ càng được giữ vững, phát huy và tỏa sáng”.
Xác định đúng và luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu đã làm nên sức mạnh phi thường để cán bộ, chiến sĩ Quân đội “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, dù phải “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non” nhưng “Gan không núng/ Chí không mòn” để làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và “thiên sử vàng” của dân tộc. Cũng nhờ bản lĩnh chính trị, những người chiến sĩ “Vẫn đôi dép lội chiến trường/ Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, họ luôn động viên, nhắc nhở nhau “nhằm thẳng quân thù mà bắn”.
Với những bước chân “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng” để “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Bản lĩnh chính trị trong nhân cách Bộ đội Cụ Hồ cũng là sức mạnh để cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn giữ vững lời thề “Sống bám đá đánh giặc/ Chết hóa đá bất tử”, “Không được lùi bước trước quân thù. Phải để máu của mình tô thắm lá cờ và truyền thống vinh quang”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bản lĩnh chính trị càng đóng vai trò quan trọng để giữ vững và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Các thế lực thù địch, phản động vẫn đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội càng đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Xây dựng bản lĩnh chính vững vàng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ là yêu cầu đặc biệt quan trọng để xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Mặt khác, trau dồi bản lĩnh chính trị cũng có ý nghĩa quyết định để xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”: Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung.
Để cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định bản lĩnh chính trị cần giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội vững mạnh về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn; giải quyết tốt các mối quan hệ, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, củng cố sự đoàn kết thống nhất nội bộ.
Đây vừa là nguyên tắc để giữ vững bản lĩnh chính trị của Quân đội và cũng là giải pháp căn cơ để giữ vững, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng./.
ST

BỘ QUỐC PHÒNG: SỬA CHÍNH SÁCH, NGĂN HÀNH VI LỢI DỤNG HÌNH XĂM, CHỮ XĂM ĐỂ TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

 Bộ Quốc phòng tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các chính sách, đề xuất sửa đổi, bổ sung các nghị định, thông tư vào thời điểm phù hợp, bảo đảm khoa học, khả thi để pháp luật nghĩa vụ quân sự được thực hiện hiệu quả, thiết thực và nghiêm minh.

Ban Dân nguyện thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển kiến nghị của cử tri tỉnh Tây Ninh gửi Bộ Quốc phòng về việc tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cử tri viện dẫn Thông tư liên tịch số 50 của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, quy định tiêu chuẩn chính trị tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có quy định về việc công dân có hình xăm, chữ xăm trên cơ thể thì không được gọi nhập ngũ; dẫn đến thực tế nhiều trường hợp thanh niên lợi dụng, cố tình xăm hình tại những bộ phận trên cơ thể để không phải đi nghĩa vụ quân sự.
Từ đó, cử tri kiến nghị Bộ Quốc phòng có giải pháp chống lợi dụng việc xăm hình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời bảo đảm nguồn chất lượng công dân nhập ngũ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”.
Trả lời kiến nghị của cử tri, Bộ Quốc phòng cho biết, Quy định về hình xăm, chữ xăm khi xét duyệt tiêu chuẩn tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ vào phục vụ trong Quân đội được quy định tại Thông tư liên tịch số 50 ngày 15/4/2016 của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quy định tiêu chuẩn chính trị tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo đó, tại khoản 9, Điều 5 quy định không tuyển chọn vào phục vụ trong Quân đội những trường hợp: Trên cơ thể có hình xăm, chữ xăm có nội dung chống đối chế độ, chia rẽ dân tộc, mang tính kinh dị, kỳ quái, kích động tình dục, bạo lực. Hình xăm, chữ xăm gây phản cảm ở vị trí lộ diện, như: Mặt, đầu, cổ; từ 1/2 cánh tay trên trở xuống, từ 1/3 dưới đùi trở xuống. Hình xăm, chữ xăm chiếm diện tích từ 1/2 lưng, ngực, bụng trở lên.
Như vậy, quy định về hình xăm, chữ xăm trên cơ thể là một trong những nội dung thuộc tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức trong tuyển chọn công dân nhập ngũ. Vì vậy, quá trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, không để những công dân có hình xăm, chữ xăm với nội dung nêu trên nhập ngũ vào Quân đội, gây phản cảm, ảnh hưởng đến hình ảnh, lễ tiết tác phong của người quân nhân cách mạng, xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội.
“Những công dân trên cơ thể có hình xăm, chữ xăm không thuộc các quy định trên hoặc có thể tẩy xóa thì vẫn được xem xét, gọi nhập ngũ”, Bộ Quốc phòng nêu rõ.
Tuy nhiên, theo Bộ Quốc phòng, thực tế hiện nay, một số công dân đã lợi dụng quy định này cố tình xăm hình, xăm chữ lên cơ thể trước thời điểm khám tuyển, hoặc sau khi sơ tuyển biết đủ tiêu chuẩn gọi nhập ngũ để nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, gây dư luận bất bình trong nhân dân.
Để kịp thời góp phần ngăn chặn các hành vi lợi dụng, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, Bộ Quốc phòng đã có Công văn số 4142 về việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2020; hằng năm chỉ đạo Cục Bảo vệ an ninh Quân đội hướng dẫn chi tiết cụ thể về hình xăm, chữ xăm khi tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, góp phần hạn chế hành vi công dân lợi dụng hình xăm, chữ xăm trên cơ thể để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Quốc phòng khẳng định, tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các chính sách và tác động liên quan, báo cáo, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 27 của Chính phủ; phối hợp các bộ liên quan sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 50 vào thời điểm phù hợp khi có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn, bảo đảm khoa học, khả thi để pháp luật nghĩa vụ quân sự được thực hiện hiệu quả, thiết thực và nghiêm minh./.
St

TẦM NHÌN VƯỢT THỜI ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC

 Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vẫn còn nguyên tính thời sự, bởi tư tưởng đó đã thể hiện một tầm nhìn vượt thời đại, phản ánh những vấn đề cấp thiết về giáo dục mà hiện nay chúng ta đang tập trung giải quyết để phát triển nền giáo dục Việt Nam, sao cho nhanh chóng sánh kịp sự phát triển về giáo dục của các nước trong khu vực và thế giới.

Về vị trí, vai trò của giáo dục
Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, vai trò của giáo dục, Người khẳng định: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa...”. Sự nghiệp “trồng người” có vai trò quyết định sống còn, hưng thịnh đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, vì thế, phải ưu tiên đặc biệt cho giáo dục, phải coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đặc biệt là trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ. Hồ Chí Minh đã đặt niềm tin và kỳ vọng lớn lao vào thế hệ trẻ, những người được học tập, giáo dục theo một tư tưởng giáo dục của xã hội mới. Người nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Mục tiêu của giáo dục
Trong nền giáo dục mới, Hồ Chí Minh đặt ra rất nhiều mục tiêu, nhưng xét cho cùng thì tất cả đều là xoay quanh vấn đề con người, hướng tới con người, tất cả vì con người và do con người; con người phải được phát triển toàn diện. Việc phát triển con người toàn diện không chỉ vì mục đích tạo ra nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ để phát triển đất nước, mà còn là vấn đề đảm bảo quyền con người, đảm bảo các giá trị làm người, hướng tới một xã hội mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” - con người với tư cách là mục tiêu cho sự phát triển. Vì thế, ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã chú ý đặc biệt đến vấn đề “diệt giặc dốt” để nâng cao dân trí.
Quan điểm giáo dục toàn diện trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh đã có sự thay đổi về chất so với tư tưởng giáo dục của Nho học trước kia, khi không phải chỉ học kinh sách thánh hiền một cách máy móc nữa, không phải chỉ học để tạo mẫu người quân tử, học để làm quan... mà học để nâng cao trình độ học vấn, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, lịch sử, văn hóa, tổ chức quản lý... Giáo dục sẽ đem lại cho người dân có kiến thức mới về mọi mặt để làm chủ bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước. Vì thế, việc phát triển giáo dục toàn diện trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là bước tiến dài trong lịch sử tư tưởng giáo dục của Việt Nam, từ truyền thống đến hiện đại.
Hạt nhân và cũng là mục tiêu rất quan trọng trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là xây dựng một nền giáo dục mang tính nhân dân rộng lớn: “Ai cũng được học hành”. Quan điểm này thể hiện tư duy tiến bộ vượt bậc trong giáo dục so với các nền giáo dục trước đó, qua đó cũng cho thấy tính nhân văn, công bằng, dân chủ... vốn là mạch nguồn trong hệ tư tưởng và chi phối toàn bộ những cống hiến của Hồ Chí Minh cho cách mạng.
Ngay từ năm 1943, trong bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” đã mang đậm tư duy của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa có hai đặc trưng cơ bản là khoa học và đại chúng hóa. Tính khoa học luôn đi liền với tính đại chúng trong nền giáo dục cách mạng, đã thể hiện rõ tư duy lớn của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền văn hóa mang đậm tính đại chúng, dân tộc Việt Nam, nhưng chắt lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, những nét tiến bộ của nền giáo dục thế giới. Điều đó cũng cho thấy, nền giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục mở, sẵn sàng tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để bổ sung, làm giàu cho kho tàng tri thức của người Việt.
Về vai trò, vị trí của người thầy
Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao những cống hiến, hy sinh lớn lao mà thầm lặng của những người làm nghề giáo. Người đánh giá: “Anh chị em là những người "vô danh anh hùng". Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em”. Chính những người vô danh anh hùng ấy đã góp công, góp sức cho sự phát triển và vững mạnh của đất nước, đem ánh sáng văn minh chiếu rọi vào tâm hồn bao thế hệ trẻ của đất nước.
Giáo giục có sức mạnh lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Vì thế, Người đánh giá rất cao nghề dạy học: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh”.
Về phương pháp giáo dục
Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp giáo dục, bởi nó chính là con đường, cách thức để giáo dục có được kết quả tốt nhất trên thực tế. Theo Người, giáo dục phải khoa học, phù hợp với nhiều loại đối tượng khác nhau, không nên nhất nhất chỉ hạn hẹp gò bó trong nhà trường mà phải phát huy mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Với mỗi đối tượng, mỗi cấp học, mỗi lứa tuổi có tâm sinh lý khác nhau, vì thế người thầy cần phải có những phương pháp giáo dục phù hợp…
Điều đặc biệt trong phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh là từ rất sớm, Người đã đưa ra những quan niệm rất mới, rất hiện đại về cách học, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Một là, phải biết tự giác học tập “lấy tự giác làm cốt”. Với quan điểm này, Hồ Chí Minh đã chủ trương lấy người học làm trung tâm, nghĩa là người học phải biết tự giác, tự động học tập và nghiên cứu; sau đó tiến hành thảo luận tập thể, rồi kết hợp với bổ sung, nâng cao thêm của giảng viên mà hoàn thiện nhận thức của mình. Đây là cách học phổ biến, có nhiều ưu điểm, hiện nay đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
Hai là, “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách... Đối với bất cứ vấn đề gì, đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”. Ở đây, Người nhấn mạnh đến việc rèn luyện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của người học, tránh lối học kinh viện, máy móc, đã trở thành lối mòn trong phương pháp giáo dục của Nho học bấy lâu nay.
Ba là, liên tục phải học tập, trau dồi kiến thức. Người nhấn mạnh: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời… Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”. Hồ Chí Minh không chỉ nhắc nhở người khác về phương pháp và tinh thần học tập suốt đời, mà còn đồng thời tự nêu tấm gương tự học của bản thân: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học”. Tư tưởng giáo dục cho thế kỷ XXI của UNESCO, đến năm 1996 mới đề ra khẩu hiệu “học suốt đời”. Điều đó đã cho thấy tư duy, tầm nhìn vượt thời đại trong tư tưởng giáo dục của Người.
Năm 1996, UNESCO đã đề xuất bốn trụ cột của giáo dục trên toàn thế giới thế kỷ XXI, đó là “học để có kiến thức, học để làm việc, học để biết chung sống với nhau và học để làm người”. Bốn trụ cột này có thể được xem như là chân lý, tư tưởng giáo dục cho toàn thế giới trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, điều này đã được Hồ Chí Minh viết ra ngay từ tháng 9-1949 trên trang đầu của cuốn sổ vàng khi Người đến thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, tiền thân của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày nay: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại…” Điều đó cho thấy tầm nhìn và sự tiến bộ vượt thời đại trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta không ngừng nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh vào việc hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật về giáo dục ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước./.
St

VÌ LỢI ÍCH TOÀN DIỆN CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM

 1. Hơn 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng luôn đặt lên hàng đầu lợi ích toàn diện cả về vật chất, tinh thần của của nhân dân. Cùng với độc lập, tự do, đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của nhân dân được chăm lo toàn diện, góp phần không ngừng củng cố, tăng cường sự tin tưởng, mối quan hệ bền chặt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Trong khi đó, các thế lực thù địch, thế lực xấu xuyên tạc sự thật, cho rằng: Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước chỉ lo vơ vét cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân mà không chăm lo đến đời sống nhân dân, dẫn đến đời sống nhân dân lầm than, khổ cực. Chúng tung tin trên mạng xã hội: “… Từ nhiều năm qua, giới lãnh đạo Đảng chỉ lo vơ vét và tranh giành lẫn nhau. Số phận người dân thì bị thả nổi, đời sống cực khổ, doanh nghiệp khốn đốn”. Chúng xuyên tạc, vu khống: “Khi xưa họ tận dụng xương máu của dân để chiến thắng. Khi thành công họ tận dụng mồ hôi nước mắt của dân để làm giàu”. Chúng còn trắng trợn kích động, kêu gọi: “Đã đến lúc người dân đồng hành “giải thể chế độ Cộng sản” để điều hành đất nước, bảo vệ chủ quyền và quyền tự quyết của một quốc gia độc lập. Song song phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, mọi người được sống trong môi trường tự do và một xã hội công bằng”.
2. Thực tế tình hình ở Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn sự bịa đặt, xuyên tạc, vu khống, chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu. Ngay từ khi ra đời ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ thiêng liêng cao quý nhất là đấu tranh đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước cùng nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, nỗ lực không ngừng thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và cũng là bài học kinh nghiệm thành công hết sức quý báu: “Lấy con người là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất, là động lực và mục tiêu của sự phát triển; chú trọng ưu tiên bố trí nguồn lực cho phát triển văn hóa, xã hội; đẩy mạnh truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nhân dân”. Nhờ vậy, đất nước chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao. Năm 2023, quy mô GDP không ngừng được mở rộng, đạt khoảng 430 tỷ đô la Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới; GDP đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 đô la Mỹ. Cùng với đó, đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng cao với tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023, riêng chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng và Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Còn trong 6 tháng đầu năm 2024, kinh tế Việt Nam tiếp tục có sự khởi sắc với GDP tăng 6,42%, trong đó quý II-2024 ước tăng 6,93%. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục nâng cao cuộc sống mọi mặt của nhân dân.
3. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Sức mạnh của sự đoàn kết của Đảng, Nhà nước và nhân dân chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, của việc nâng cao toàn diện đời sống nhân dân, sự phồn vinh của đất nước. Trong đó, Đảng ta xác định: Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thực tế cho thấy: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng ta đều thực hiện nghiêm túc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà, mắm muối cần thiết cho đời sống của nhân dân”.
Vừa qua, Chính phủ luôn có những giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương của Đảng, thiết thực chăm lo đời sống nhân dân. Năm 2023, thành tựu lớn của Chính phủ là đã bám sát tình hình, quan tâm chỉ đạo kịp thời, thực hiện tốt các chính sách phát triển văn hóa, xã hội, người có công, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, trong đó hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta với con người.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, nhân dân cũng hăng hái gắng sức, đồng lòng, xây dựng đất nước giàu mạnh, trong đó có cuộc sống của mình. Đảng ta và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng, vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình, từ đó, xác định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển và chỉ đạo: Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân.
4. Trong tình hình cách mạng mới với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề chăm lo toàn diện đời sống nhân dân càng được quan tâm với những quan điểm, nội dung, giải pháp cao hơn, hoàn thiện và phong phú, sinh động hơn. Đảng ta và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phải chú trọng đến một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách cũng như trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Cụ thể là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay, nhiệm vụ, mục tiêu không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, lợi ích toàn diện của nhân dân được gắn chặt, vững chắc với an ninh xã hội, an ninh con người. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra giải pháp quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nghị quyết chỉ ra cần chú trọng xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển. Nghị quyết cũng yêu cầu phải chú trọng quan tâm đến mọi người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau, phải thường xuyên bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập và thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội./.
St

VIỆT NAM CHĂM LO NGƯờI LAO ĐỘNG BẰNG CHÍNH THỰC LỰC

 Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...

Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.
Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.
Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...
Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.
Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.
Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...
St

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG THỜI KỲ MỚI

 Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.

1. Quyền con người là giá trị thiêng liêng, cao quý của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, không phải chờ đến khi Liên hợp quốc thành lập năm 1945, thông qua bản Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 và thiết lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội, Đảng ta mới có quan điểm về quyền con người; mà ngay từ ngày đầu thành lập, trong văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930 (Chánh cương vắn tắt của Đảng), đã đề ra chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, về phương diện xã hội thì dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa(1).
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, các tư tưởng, giá trị cốt lõi về quyền con người, như quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, được nêu trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Các giá trị cốt lõi của quyền con người đã được đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước kiểu mới - Hiến pháp năm 1946.
Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI của Đảng (năm 1986), đánh dấu bước ngoặt lịch sử, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách. Mặc dù trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng chưa sử dụng khái niệm quyền con người nhưng với quan điểm “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”(2) và “…bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”(3).
Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được hệ thống quan điểm lý luận cơ bản, toàn diện về vấn đề quyền con người, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Những quan điểm lý luận về quyền con người của Đảng ta được xây dựng, phát triển và hoàn thiện như ngày nay có sự đóng góp to lớn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
2. Trên cương vị là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (2011 - 2024), đồng chí là người tham gia trực tiếp chỉ đạo tổng kết 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Tổ trưởng Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XI và trưởng tiểu ban các văn kiện của Đảng (Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng).
Trong các văn kiện của Đảng được thông qua trong thời kỳ đổi mới, quan điểm về quyền con người được thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhất đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng. Cùng với các quan điểm trước đó của Đảng về quyền con người được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” và trong Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện về quyền con người trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(4). Tiếp nối quan điểm này, Đại hội XIII của Đảng làm rõ hơn, khi xác định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(5).
Thứ hai, “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và luật quy định. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”(6).
Thứ ba, gắn tôn trọng, bảo vệ quyền con người với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước hoạt động là vì con người, bảo đảm và thực hiện quyền con người”(7).
Thứ tư, “Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết”(
😎
.
Thứ năm, “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp 2013 (...) hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”(9).
Thứ sáu, “xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”(10) đến “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(11).
Thứ bảy, “sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”(12).
Thứ tám, bảo đảm quyền con người trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng cho rằng, chủ nghĩa xã hội là mô hình tốt nhất để bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(13).
Tổng Bí thư nhấn mạnh, “xã hội trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(14). Như vậy, mục tiêu, khát vọng xây dựng một xã hội vì tự do, vì quyền con người được tôn trọng, bảo đảm thực hiện chỉ có thể dưới chủ nghĩa xã hội. Do đó, bảo đảm quyền con người được hiện thực hóa trong đời sống xã hội, con đường đúng đắn hiện nay là đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Quán triệt và thực hiện đầy đủ các quan điểm của Đảng và của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trước hết, đó là quan điểm lấy con người/nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực phát triển đất nước.
Cần quán triệt và thực hiện thật tốt quan điểm này trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; đòi hỏi các chương trình, chính sách phát triển, đều phải hướng trọng tâm vào chủ thể hưởng quyền, đó là người dân/nhân dân. Lấy quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể hưởng quyền là cơ sở xây dựng và hoạch định chính sách phát triển quốc gia; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu cao nhất trong toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình cao và tầm nhìn 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao với quyết tâm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là dân nghèo, đồng bào sống ở vùng sâu, vùng xa. Để đạt được mục tiêu và tầm nhìn này, cần ưu tiên phát triển con người, phát huy cao nhất yếu tố con người trong hoạch định các chiến lược phát triển đất nước; đòi hỏi nâng cao hiệu quả tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với Quốc hội, với vai trò là cơ quan lập pháp, có nhiệm vụ cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về quyền con người thành các quy định của pháp luật; tiếp tục ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đối với Chính phủ, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền con người ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Theo quan điểm của Tổng Bí thư, đó là: “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn(15). Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, bảo đảm thực hiện tốt an sinh xã hội, an ninh con người, chú trọng các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc, đất đai, lao động...; đặc biệt chính sách đối với nhóm người dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm gắn phát triển kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Đẩy mạnh tuyên tuyền để mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ quan điểm của Đảng, của Tổng Bí thư về chính sách xã hội, thực hiện chính sách xã hội bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Bảo đảm mối quan hệ không thể tách rời giữa con người với tư cách là cá nhân với con người trong cộng đồng, nhóm, tập thể: Mỗi cá nhân con người phải được bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của họ; phải coi mỗi cá nhân, công dân là chủ thể, là động lực trung tâm của chính sách xã hội.
Việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, cần có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tiếp cận quyền con người, bảo đảm quyền con người trong từng chính sách phát triển, từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến tổ chức, triển khai thực hiện chính sách.
Thứ ba, gắn tôn trọng, bảo vệ quyền con người với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” tiếp tục quan điểm lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đề ra mục tiêu tổng quát của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; mục tiêu đến năm 2030 hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân để tiếp tục xây dựng thể chế pháp quyền vì quyền con người, quyền công dân, bảo đảm bình đẳng, tương ứng với thẩm quyền của bộ máy nhà nước nhằm tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Qua đó thúc đẩy và buộc cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong quan hệ với người dân bằng thể chế pháp quyền, đồng thời từng bước triệt tiêu những quan hệ lệch lạc kiểu “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể”, “lợi ích nhóm” và tính bao cấp, hay tư tưởng ban phát, ban ơn quyền, lợi ích.
Cùng với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong các thiết chế nhà nước, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến năm 2030 và tầm nhìn 2045. Hệ thống pháp luật phải đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trọng tâm, đề cao hiệu quả phòng ngừa, bảo đảm tính nhân đạo, tính hướng thiện cần được thẩm thấu trong từng quy định của pháp luật. Như vậy, hệ thống pháp luật được xây dựng, tồn tại phải vì con người và bảo vệ quyền con người; tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, quan tâm xây dựng pháp luật bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như quyền trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, dân tộc thiểu số…
Tiếp tục thể chế hóa việc mở rộng cơ chế bảo đảm dân chủ, quyền dân chủ, “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”(16), gắn quyền tham gia với quyền thụ hưởng thành quả phát triển, thành quả của công cuộc đổi mới. Đây là giải pháp trực tiếp để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người và bảo đảm sự thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Cần tuyên truyền và quán triệt các cấp, các ngành và mọi người dân về tầm quan trọng của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; tiến tới xây dựng đạo luật thực hiện dân chủ, mà không chỉ là dân chủ ở cơ sở; nghiên cứu xây dựng Luật Minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.
Thứ năm, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đòi hỏi trong tố tụng hình sự phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không được làm oan người vô tội và không được bỏ lọt tội phạm.
Trong hoạt động tư pháp, cần chú trọng hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó nghiên cứu sớm hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp. Nghiên cứu có thể sớm ban hành Luật Cấm can thiệp hoạt động xét xử; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp.
Với bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đòi hỏi tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện để bảo đảm nền công lý thực sự vì dân, không ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ sáu, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Vận dụng tiếp cận quyền con người với quan điểm phát triển bao trùm trong xây dựng và thực hiện quyền con người, là để bảo đảm tính thống nhất, liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người, để người dân được thụ hưởng các quyền của mình trong quá trình phát triển. Đồng thời khẳng định, người dân là chủ thể của quyền con người, được hưởng thành quả của quá trình phát triển do chính họ tạo ra, và đó là thụ hưởng quyền, chứ không phải là từ thiện, nhân đạo, hay ban phát của bất kỳ ai. Trong hoạch định chính sách bảo đảm quyền con người nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Chính sách bảo đảm quyền con người phải bảo đảm gắn phát triển kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người. Tính đến nay (năm 2024), Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các điều ước quốc tế về quyền con người như, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (UNCRC), Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); các công ước của ILO, các tiêu chuẩn về lao động, quyền lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới... Cần xây dựng kế hoạch, chương trình hành động quốc gia về quyền con người; có tiêu chí đánh giá tác động quyền con người, nhất là quyền của các đối tượng bị tác động trực tiếp của dự luật, trước khi thông qua; đưa nội dung cách tiếp cận quyền con người vào quản lý phát triển xã hội; việc hoạch định và thực thi các chính sách, chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải sử dụng hiệu quả cách tiếp cận quyền con người; bảo đảm thực hiện tốt các quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ bảy, Việt Nam sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Với quan điểm của Đảng là: “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(17), trong những năm gần đây, với chủ trương tích cực, chủ động hội nhập, quan điểm “ngoại giao cây tre”, Việt Nam không chỉ nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế, mà còn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và thế giới. Điều này thể hiện rõ thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng ‎thuận rất cao những lần Việt Nam gia nhập Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam tích cực tham gia đối thoại song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, như duy trì các kênh đối thoại với Mỹ, Ốt-xtrây-li-a, Na Uy, Thụy Sỹ và Liên minh châu Âu (EU); đồng thời thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước(18).
Là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2023 - 2025), Việt Nam đã có nhiều sáng kiến cùng với Băng-la-đét, Phi-líp-pin xây dựng thành công Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc về quyền con người và biến đổi khí hậu; Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người và 30 năm Tuyên bố và Chương trình Hành động Viên; sáng kiến về quyền con người và tiêm chủng; tích cực bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển; quyền của các nhóm yếu thế… được các nước đánh giá cao(19)./.
St

TỰ HÀO 94 NĂM NGÀNH TUYÊN GIÁO!

 Trải qua 94 năm, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tuyên giáo đã thể hiện rõ vai trò “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết”, có những cống hiến xuất sắc và trưởng thành vượt bậc qua các thời kỳ, đóng góp to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất và xây dựng đất nước.

Cách đây 94 năm, ngày 01/8/1930, nhân kỷ niệm ngày quốc tế đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình, Ban Cổ động và Tuyên truyền đã xuất bản tài liệu mang tên “Ngày quốc tế đỏ 1/8”. Đây là tài liệu duy nhất và sớm nhất còn lưu giữ đến nay đề rõ “Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ấn hành”. Ngay sau khi phát hành, Tài liệu đã tạo được tiếng vang lớn, có sức cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng nước ta đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống áp bức, bóc lột, phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Từ đó, ngày 01/8 trở thành một mốc son lịch sử, đánh dấu hoạt động rất có ý nghĩa đối với công tác tuyên giáo của Đảng.
Đánh giá cao sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị (Khóa VIII) quyết định lấy ngày 01/8 hàng năm làm Ngày truyền thống công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng. Năm 2007, sau khi hợp nhất Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) quyết định lấy ngày 01/8 hằng năm làm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng.
Trải qua 94 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (01/8/1930 - 01/8/2024), dù tên gọi, cơ cấu, tổ chức và đội ngũ những người làm công tác Tuyên giáo có những thay đổi phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, ngành Tuyên giáo và công tác Tuyên giáo đã trở thành bộ phận không thể tách rời, luôn gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, góp phần xây dựng nền tảng chính trị của chế độ, nền tảng tinh thần của xã hội, hoạch định hệ thống quan điểm lý luận, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với vai trò “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết”, 94 năm qua, Tuyên giáo đã trở thành niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khi tiếp tục đảm nhận vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng, góp phần bảo vệ vững chắc, bổ sung, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong Đảng và xã hội, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Những đóng góp to lớn của ngành Tuyên giáo và công tác Tuyên giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng đã phần nào khẳng định, những thắng lợi vĩ đại mà Đảng và Nhân dân ta đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều có sự đóng góp to lớn của ngành Tuyên giáo và công tác Tuyên giáo của Đảng. Những thành quả mà các thế hệ cha anh đã dày công gây dựng suốt 94 năm qua luôn là động lực để đội ngũ cán bộ Tuyên giáo hôm nay tiếp tục vững bước đi lên, viết tiếp những trang sử vẻ vang của Ngành, của Ban trong giai đoạn mới và không ngừng phấn đấu trở thành trở thành những chiến sĩ kiên trung trên mặt trận tư tưởng, tuyên giáo của Đảng, đoàn kết, sáng tạo, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Dù còn nhiều khó khăn, thử thách, nhất là trong tình hình thế giới và khu vực đang tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng để hoàn thành trọng trách mà Đảng và Nhân dân tin tưởng, giao phó, trong suốt những năm qua, những người làm công tác Tuyên giáo cũng như các “binh chủng” thuộc ngành Tuyên giáo luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng và thấm nhuần sâu sắc sứ mệnh của mình, không ngừng đổi mới và sáng tạo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
94 năm qua, công tác Tuyên giáo của Đảng tích cực, chủ động tham mưu kịp thời, hiệu quả cho Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư qua các thời kỳ đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; về chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh vực Tuyên giáo. Qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, công tác Tuyên giáo đã góp phần từng bước hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của đất nước; định hình, định hướng, nhận diện được những mâu thuẫn, bất cập, những động lực, khát vọng phát triển, các mối quan hệ trong từng giai đoạn cách mạng; hoàn thiện mô hình hệ thống chính trị; phát triển tư duy lý luận mới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Công tác Tuyên giáo đã thực hiện tốt vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia tích cực, có hiệu quả vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống của ngành Tuyên giáo là dịp để chúng ta cùng ôn lại và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của ngành Tuyên giáo; bồi đắp thêm niềm tự hào về những đóng góp to lớn, có ý nghĩa lịch sử của ngành Tuyên giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; củng cố và tăng cường niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây cũng là dịp để cán bộ ngành Tuyên giáo và đông đảo cán bộ, chiến sĩ hoạt động trên lĩnh vực Tuyên giáo phấn đấu rèn luyện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
St