Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2024

Bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh


Bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở sự hình thành tư tưởng của Người. Đó là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc: Truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường, đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo; là sự tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ, kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng thế giới... vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và trở thành tư tưởng của mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là kết quả của sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế; là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một

Hai là, Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận và phương pháp luận để đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Quán triệt, cụ thể hóa Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để quyết định đúng đắn, sáng tạo đường lối, quan điểm cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; Kiên định nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Quá trình đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng, chủ trương, giải pháp lãnh đạo của Đảng, nhất quyết phải căn cứ, lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận, phương pháp luận, nhưng không được dập khuôn, máy móc, giáo điều, kinh viện; phải trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, quán triệt sâu sắc quan điểm “Nước lấy dân làm gốc”; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước; thực hiện đúng nguyên tắc: Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Ba là, Đảng tuyên truyền giáo dục Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, làm cho hệ tư tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống văn hóa, tinh thần của toàn xã hội.

 Căn cứ vào đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị để xác định rõ nội dung, hình thức và phương pháp tiến hành tổ chức nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với từng đối tượng. Nội dung tuyên truyền, giáo dục, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống và chuyên sâu gắn với tình hình thực tiễn. Đồng thời, đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới hình thức, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đặc biệt, cần “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị” [7].

Bốn là, đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hiện nay, “bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm” trong bối cảnh quốc tế, khu vực còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định; các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam… là mảnh đất màu mỡ để những kẻ xét lại có điều kiện trỗi dậy như “nấm độc sau mưa”.

Để đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phản kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin và đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Chỉ kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới có thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, nhân sinh quan cách mạng để xem xét, nhận định, phân tích một cách khách quan, toàn diện các hiện tượng chính trị - xã hội đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên thế giới, khu vực và trong nước để có thái độ, trách nhiệm và đề ra quyết sách chính trị đúng đắn, giải quyết hợp lý, hợp tình mọi vấn đề chính trị - xã hội.

Thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Phải vận dụng một cách khoa học, sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng vào những điều kiện lịch sử, cụ thể, từng thời điểm thích hợp. Đồng thời, phải làm tốt công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ, để toàn Đảng tạo thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, thực sự là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, của cả dân tộc Việt Nam. “Tăng cường nền tảng tư tưởng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”[8]; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh với quan điểm, tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Sở dĩ như vậy, bởi hai đối tượng đấu tranh này thường cấu kết với nhau, dựa vào nhau để chống phá Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cách mạng thế giới. Trong đó, việc đấu tranh với quan điểm, tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội phải kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Nhưng đối với chủ nghĩa cơ hội, xét lại phải hết sức thận trọng, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, biết tôn trọng, chờ đợi và không can thiệp vào công việc nội bộ từng đảng để tránh đẩy bạn thành thù, tạo ra mâu thuẫn trong nội bộ phong trào Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.

Hơn 94 năm lãnh đạo và trưởng thành, 38 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta, nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tuyệt đối trung thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Song, chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng phẳng, mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được hiện thực hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ sớm bị vạch trần bởi tính chất phản khoa học, phản cách mạng của chúng.

Trong tình hình hiện nay, công tác nghiên cứu lý luận, cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao tính khoa học, tính tư tưởng và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo. Xây dựng môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn.  Phát huy hơn nữa trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong việc bổ sung, phát triển làm phong phú thêm kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện Đảng cầm quyền.

Bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin

Bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở cơ sở hình thành Chủ nghĩa Mác, bao gồm: Tiền đề kinh tế, chính trị  - xã hội, đó là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản - giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẫn chủ yếu của xã hội. Giữa thế kỷ XIX, giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị chống chủ nghĩa tư bản ở nhiều nước: Pháp, Đức, Anh, Bỉ…, điển hình là Công xã Paris năm 1871, song đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu do thiếu một lý luận cách mạng, khoa học dẫn đường và một lực lượng tiên phong lãnh đạo phong trào của giai cấp công nhân.

C.Mác đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận để sáng tạo ra học thuyết cách mạng, khoa học cho giai cấp vô sản. Với Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa Mác (1848) với ba bộ phận hợp thành: Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. 

Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Trong điều kiện đó, V.I.Lênin nhận định: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển. Do sự xâm chiếm và đô hộ các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh chống đế quốc giành lại nền độc lập ở các nước thuộc địa. Vì vậy, cách mạng vô sản ở các nước đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng chống một kẻ thù chung.

Trong hoàn cảnh đó, bằng hoạt động lý luận sắc bén của mình, V.I.Lênin đã viết một loạt tác phẩm, tiêu biểu như: “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao”; “Làm gì”; “Một bước tiến, hai bước lùi”; “Nhà nước và cách mạng”... Với những tác phẩm đó, V.I.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, tả khuynh, hữu khuynh, giáo điều, bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác; vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đặc biệt, V.I.Lênin đã kế thừa Chủ nghĩa Mác, sáng tạo học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik Nga, đứng đầu là V.I.Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917) thành công rực rỡ.

Những cống hiến lý luận của V.I.Lênin trong việc phát triển sáng tạo học thuyết Mác đã tạo nên một hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, một giai đoạn mới trong sự phát triển của Chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi và cống hiến của V.I.Lênin, cũng từ đây, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản được gọi là Chủ nghĩa Mác Lênin.

Chúng ta cần khẳng định, Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong toàn bộ các nguyên lý cấu thành học thuyết, trước hết là các nguyên lý cơ bản; là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mác-xít; là học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người với con đường, lực lượng, phương thức đạt mục tiêu đó; là một học thuyết mở, không ngừng được đổi mới, được phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại. Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, Chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng, thành vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Như một tất yếu lịch sử, vào một ngày tháng 7-1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút bởi tính chất cách mạng triệt để của nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay Nguyễn Ái Quốc hằng mong ước, đợi chờ. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [1], cách mạng vô sản phải do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [2]. Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng học thuyết chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” [3]; từ đó Người khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"[4].


Người đứng đầu hứa thật, làm thật để giữ gìn danh dự đảng viê


Để có được danh dự và lòng tự trọng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thường xuyên nỗ lực phấn đấu kiên trì, bền bỉ, nêu cao tinh thần dũng cảm và đức hy sinh trọn đời mình cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân dân. Đây là “cuộc đấu tranh nội tâm” trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên mà cốt lõi là phải biết chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.

1. Danh dự và lòng tự trọng là một trong những phẩm chất cao quý của mỗi con người. Khi bàn về danh dự và lòng tự trọng, người xưa thường nói: “Đói cho sạch rách cho thơm”, "Chết trong còn hơn sống đục” để giáo dục con người phải giữ gìn phẩm giá trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đây cũng chính là thể hiện ý chí, khí phách, bản lĩnh cao cả của người cách mạng. Điều ấy rất đúng với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong giai đoạn hiện nay. Bởi danh dự và lòng tự trọng là phẩm chất cao đẹp để người đứng đầu luôn giữ được đức liêm chính trong thực thi công vụ; không bị gục ngã trước những cám dỗ vật chất, tiền tài, danh vọng; khẳng định được niềm tin, sự kỳ vọng của nhân dân khi họ quyết định lựa chọn lá phiếu để bầu mình vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước.

Danh dự và lòng tự trọng của người đứng đầu là một trong những phẩm chất cao quý, nền tảng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Người có danh dự và lòng tự trọng tự ý thức được giá trị của bản thân, vị trí công việc mình đang làm, luôn đề cao trách nhiệm, tận tâm, tận lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không tham lam, tham nhũng, không đam mê quyền lực, không lấy của công làm của riêng, không lợi dụng chức vụ và quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân; biết tôn trọng cấp dưới, quý trọng nhân dân, nhờ vậy mà nhận được sự tin tưởng, yêu mến từ mọi người.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của việc nêu cao danh dự và lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên. Người coi đây là một phẩm chất cao đẹp của đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, danh dự và lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên được Người chỉ rõ ở “tư cách của người kách mệnh”, tập trung ở các mối quan hệ và chuẩn mực ứng xử “với mình, với người và với việc”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, danh dự và lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên được Bác nêu ra ở “tư cách của cán bộ, đảng viên”. Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, Bác chỉ ra các chuẩn mực, cũng là yêu cầu về danh dự và lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Có thể khẳng định, xuyên suốt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh khi đề cập về danh dự và lòng tự trọng chính là đức tính nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính và phòng, chống chủ nghĩa cá nhân.

2. Kinh nghiệm lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới đất nước cho thấy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, người đứng đầu và chính quyền các cấp có tâm, có tầm, có trí tuệ, biết đề cao danh dự và lòng tự trọng để hiện thực hóa đường lối chính trị đã đề ra là nhân tố quan trọng để sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi tới thắng lợi. Thực tế đã có rất nhiều cán bộ, đảng viên khi được nhân dân tin tưởng, lựa chọn bầu vào các vị trí cơ quan quyền lực của Nhà nước ở Trung ương và địa phương luôn chú trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, nêu cao danh dự và lòng tự trọng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương ngày càng vững mạnh, tạo được niềm tin và sự mến phục của nhân dân.

Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương coi thường danh dự và lòng tự trọng, không giữ gìn được lời hứa hẹn, cam kết của mình với nhân dân, không chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân cho nên đã tha hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng tạo dư luận không tốt trong xã hội, làm tổn thương niềm tin của nhân dân khi tin tưởng bầu họ vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước.

Trong thời gian qua, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, qua đó góp phần sàng lọc và loại bỏ những cán bộ, đảng viên không giữ gìn danh dự và lòng tự trọng, coi thường pháp luật Nhà nước, kỷ luật Đảng, suy thoái, thoái hóa, biến chất. Trong giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; 50 sĩ quan cấp tướng trong LLVT. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 1-2024, Đảng đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Đáng chú ý là 2/3 đảng viên bị xử lý kỷ luật là do sai phạm từ nhiệm kỳ trước đó, nhưng đến nhiệm kỳ này, sau khi bổ nhiệm mới phát hiện ra. Điều đó cho thấy, phát hiện và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên trước khi tiến hành đại hội là việc làm quan trọng để những lá phiếu của nhân dân thực sự có ý nghĩa khi tín nhiệm lựa chọn những người thực sự tin cậy để gánh vác công việc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

3. Danh dự và lòng tự trọng của người đứng đầu không phải được “đánh bóng” bằng những mỹ từ hô hào, khẩu hiệu, đăng đàn, mà phải được thể hiện qua sự nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng của họ.

Muốn vậy, trước hết người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp bất luận trong tình huống nào cũng phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nói và làm theo nghị quyết của Đảng; chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; không đam mê quyền lực chính trị, không lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích chính trị. Quan trọng hơn là người đứng đầu các cấp phải có trách nhiệm thực hiện lời thề danh dự trong lễ kết nạp đảng viên và lời hứa hẹn với cử tri, với nhân dân trước thềm bầu cử và trong lễ tuyên thệ, nhậm chức của mình.

Người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp phải luôn đề cao trách nhiệm nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ và trong cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày; có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, không phô trương, xa hoa, lãng phí, không tự cao, tự đại; hết lòng, hết sức vì tập thể, vì lợi ích chính đáng của cấp dưới và của người dân, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh; không kèn cựa địa vị, độc đoán, chuyên quyền; không quan liêu, xa rời quần chúng.

Trong tình hình hiện nay, để xứng đáng là "người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp cần làm việc nghiêm túc, hiệu quả, hết lòng vì nhiệm vụ được giao; không ích kỷ, cơ hội, thực dụng, ganh ghét, đố kỵ; không xu nịnh, tâng bốc cấp trên; có ý thức chủ động tự phê bình và phê bình, “tự soi, tự sửa”, khi có khuyết điểm thì thành khẩn nhận trách nhiệm và nghiêm túc sửa chữa; chân tình, thẳng thắn góp ý cho đồng chí, đồng đội, không vu khống, bôi nhọ, chỉ trích để hạ bệ người khác; không huênh hoang, ba hoa, có trách nhiệm với lời nói và lời hứa của mình. Danh dự và lòng tự trọng chỉ thực sự được đề cao và ghi nhận khi người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp xác định những tiêu chí phấn đấu trung thực, lành mạnh cho bản thân mình, thấm nhuần lời Bác dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Danh dự và lòng tự trọng của người đứng đầu còn thể hiện sâu sắc ở khía cạnh sống và làm việc có trách nhiệm, tuân thủ kỷ luật, thượng tôn pháp luật, tự giác hoàn thành tốt những công việc của mình mà không cần người khác nhắc nhở, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm của bản thân và kiên quyết sửa chữa; không làm những việc trái với lương tâm, không để đồng tiền và quyền lực tha hóa bản thân; không để người nhà, người thân lợi dụng danh nghĩa trục lợi cá nhân, làm điều phi pháp; biết dựa vào sức lực của chính mình để phát triển, không trông chờ từ các mối quan hệ không trong sáng; phân biệt được ai là kẻ nịnh bợ, cơ hội; ai là người trí sáng, tâm trong; luôn đề cao trách nhiệm nêu gương trong công việc, lối sống và các mối quan hệ xã hội.

Danh dự và lòng tự trọng là điều thiêng liêng nhất, cao quý nhất của mỗi người cán bộ, đảng viên. Nêu cao danh dự và lòng tự trọng của người đứng đầu là giữ gìn uy tín, niềm tin trong phiếu bầu của nhân dân. Đúng như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắn gửi: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất”.


CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc chính sách tôn giáo, dân tộc của Việt Nam, cố tình đánh tráo khái niệm nhằm đồng nhất “quyền dân tộc tự quyết” với “quyền dân tộc thiểu số” để chống phá Đảng, Nhà nước cũng như khối đại đoàn kết dân tộc. Thực tế này đòi hỏi mỗi người dân cần nhận thức và thực hành đúng đắn quyền dân tộc tự quyết nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Mặc dù có liên hệ mật thiết với nhau song “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số” là hai quyền khác nhau. Theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của các quốc gia - dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội theo con đường mình lựa chọn trên cơ sở thiết lập chủ quyền quốc gia. Một trong những mục đích, tôn chỉ hoạt động được Liên hợp quốc khẳng định tại Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc đó là: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới”.

Năm 1966, lần đầu tiên “quyền dân tộc tự quyết” được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đó là Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị, Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Đặc biệt tại Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tại Nghị quyết 2625 (XXV) năm 1970 đã chỉ rõ nội hàm của “quyền dân tộc tự quyết” (hay còn gọi là nguyên tắc tự quyết của các dân tộc) với các điểm mấu chốt như sau:

Một là “tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của mình mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài”.

Hai là “việc thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền, sự tự do liên kết hoặc hợp nhất với một quốc gia độc lập hoặc dưới bất kỳ quy chế chính trị nào do một dân tộc tự do quyết định sẽ chính là các cách thức thực hiện quyền tự quyết của dân tộc ấy”.

Ba là “không một điều nào được nói đến ở trên sẽ được hiểu là trao quyền hoặc khuyến khích bất kỳ hành động nào dẫn đến việc chia cắt, làm suy yếu toàn bộ hoặc một phần sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự thống nhất về chính trị của một quốc gia độc lập có chủ quyền thực hiện phù hợp với nguyên tắc về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc được đề cập đến ở trên, và do đó có một chính quyền đại diện cho toàn thể nhân dân sống trên lãnh thổ đó mà không có sự phân biệt về màu da, tín ngưỡng hoặc chủng tộc”…

Liên quan “quyền dân tộc thiểu số”, tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Đại hội đồng bảo an Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định rõ: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái” (Điều 1) và “Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác” (Điều 2).

Đồng thời tại Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 quy định những người thuộc dân tộc thiểu số ở bất kỳ quốc gia - dân tộc nào cũng có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội như những người thuộc dân tộc đa số ở chính các quốc gia-dân tộc đó, không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.

Như vậy, có thể khẳng định “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số” là hai quyền khác nhau, liên quan các đối tượng khác nhau. Khi đề cập về “quyền dân tộc tự quyết” là muốn nói đến quyền lợi của một quốc gia - dân tộc so với các quốc gia - dân tộc khác trên thế giới.

Cụ thể, khi một quốc gia có nguy cơ bị các quốc gia khác xâm hại hoặc cản trở việc thực hiện quyền này thì toàn thể các dân tộc tại quốc gia đó phải đoàn kết, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ “quyền dân tộc tự quyết” của mình. Còn khi đề cập “quyền dân tộc thiểu số” là nói đến quyền lợi của các dân tộc thiểu số trong nội bộ của một quốc gia độc lập, thống nhất. Theo đó, các quốc gia phải có trách nhiệm bảo đảm cho các dân tộc thiểu số sinh sống tại quốc gia mình được hưởng đầy đủ các quyền “dân tộc thiểu số” phù hợp điều kiện, hoàn cảnh, luật pháp của quốc gia.

Tuy nhiên, lợi dụng thực tế Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87% dân số, còn lại là dân tộc thiểu số gồm 53 dân tộc chiếm 13% dân số), cùng với đó là sự nhận thức chưa đầy đủ về “quyền dân tộc tự quyết” của nhiều người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, kinh tế-xã hội còn kém phát triển và trình độ dân trí chưa cao, các thế lực thù địch, phản động đã tìm cách đánh tráo nhằm đồng nhất hai khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số”. Mục đích mà chúng muốn hướng đến là chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” bằng cách ly khai, bạo loạn, đòi quyền tự trị, tự quản với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cùng những chủ trương, chính sách đúng đắn, đời sống của người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện về mọi mặt, theo đúng phương châm mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số… Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trên thực tế tại một số địa phương việc giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định với các biểu hiện: Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở một số địa phương còn yếu kém; công tác quản lý xã hội còn nhiều sơ hở, chưa gần dân, sát dân, chưa kịp thời nắm bắt và giải quyết tâm tư nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; chậm phát hiện và xử lý các vụ việc phức tạp trên địa bàn…

Lợi dụng những hạn chế này, các thế lực thù địch, phản động đã phủ nhận toàn bộ những thành tựu to lớn của Việt Nam trong thực hiện chính sách dân tộc, vu cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, phân biệt đối xử, đàn áp đồng bào dân tộc thiểu số, ép người đồng bào dân tộc thiểu số phải “bỏ đạo, bỏ văn hóa truyền thống” để hòa nhập với “cuộc sống văn minh, tiến bộ” của người Kinh; tuyên truyền sai lệch về quyền dân tộc tự quyết để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ, từ đó từng bước làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Để phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả những thủ đoạn lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá đất nước, các cấp chính quyền, cơ quan chức năng và các tổ chức đoàn thể cần triển khai thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Trước hết phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để cho các tầng lớp nhân dân, nhất là những người đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao cảnh giác, hiểu đúng, hiểu rõ và thực hành đúng “quyền dân tộc tự quyết” theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế cũng như luật pháp Việt Nam. Khi người dân đã hiểu đúng về “quyền dân tộc tự quyết” thì sẽ không còn cơ hội cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá.

Các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý có hiệu quả các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước lợi dụng thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như các hoạt động “từ thiện”, “nhân đạo” trá hình để tuyên truyền sai lệch về vấn đề thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” từ đó mua chuộc, vận động, thậm chí ép buộc người đồng bào dân tộc thiểu số có những hành vi gây rối, bạo loạn, đòi ly khai, tự trị. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, đòi hòi chính đáng và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần củng cố niềm tin của họ với Đảng, Nhà nước.

Song song đó, phải tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách này góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện một cách đầy đủ, trên nguyên tắc các dân tộc thật sự bình đẳng, đề cao tinh thần thống nhất và khối đại đoàn kết dân tộc, tôn trọng những điểm khác biệt của các dân tộc về văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng…

Đồng thời, cần tăng cường thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn đặc biệt khó khăn. Chỉ khi đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt, thu hẹp và tiến tới xóa bỏ khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa người miền xuôi và người miền núi, giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh thì mới thúc đẩy sự phát triển bền vững, tiến bộ của xã hội, giải quyết triệt để, hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh, ngăn chặn âm mưu chống phá của các thế lực phản động, thù địch./.

ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM - MỘT THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC

 

Thời gian gần đây, lợi dụng sự nhẹ dạ, thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân tộc thiểu số thuộc khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đời sống gặp nhiều khó khăn, các đối tượng xấu đã mua chuộc, dụ dỗ họ tham gia vào nhiều hoạt động phi pháp núp bóng tôn giáo, hoặc các hội nhóm mang danh “xã hội dân sự” đấu tranh “vì quyền lợi cho các dân tộc ít người”.

Thực chất, thông qua các hoạt động này, những phần tử chống phá nhen nhóm tư tưởng ly khai trong cộng đồng dân tộc thiểu số, kích động người dân đòi quyền dân tộc tự quyết, lập nên nhà nước riêng, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn, đe dọa gây ra những hậu quả khó lường.

Như ở khu vực miền núi phía Bắc, sự xuất hiện của tà đạo Giê Sùa và Bà cô Dợ đã gây ra những bất ổn trong đời sống dân cư, đặc biệt là vấn đề an ninh, trật tự. Dù đã được chính quyền cùng các cơ quan chức năng cảnh báo, vận động, thuyết phục song không ít người dân vẫn bị dụ dỗ, mê muội tin theo các tà đạo. Tà đạo Giê Sùa (còn được gọi là “Hội thánh Giê Sùa”) chỉ mới xuất hiện chưa đến 10 năm song với nhiều thủ đoạn tiếp cận tinh vi nhằm thuyết phục, mua chuộc người dân nên đã nhanh chóng lan ra một số tỉnh, thành phố, như: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Người sáng lập ra “Hội thánh Giê Sùa” là Hờ Chá Sùng (còn gọi là David Her), người H’Mông, gốc Lào đang sống tại bang California, Mỹ.

Hờ Chá Sùng đã tận dụng “mác” người H’Mông để chiếm cảm tình cũng như lòng tin của một số bà con dân tộc thiểu số.

Bất chấp việc không có giáo lý, giáo luật, hiến chương, “Hội thánh Giê Sùa” tuyên truyền tà đạo chỉ dựa vào những câu chữ được cóp nhặt, vay mượn từ Kinh thánh và một số tài liệu do Hờ Chá Sùng tự soạn thảo. Mặt khác, Hờ Chá Sùng tán phát các tài liệu tuyên truyền tà đạo trên mạng internet, thông qua kênh YouTube và trang thông tin điện tử phản động bằng tiếng H’Mông.

Không chỉ bác bỏ và xuyên tạc các tôn giáo chính thống, Hờ Chá Sùng còn tự tin cho rằng “Hội thánh Giê Sùa” là tôn giáo chính thống của người H’Mông, đồng thời phong cho mình làm “Vua của dân tộc H’Mông”, ai tin tưởng đi theo thì có được đất nước riêng của người H’Mông, cuộc sống sẽ ấm no, hạnh phúc. Qua quá trình hoạt động, Hờ Chá Sùng đã bộc lộ mưu đồ thật sự của mình từ việc lập ra một tổ chức tôn giáo bất hợp pháp là nhằm kích động, kêu gọi người H’Mông, thành lập “nhà nước H’Mông” tự trị với lý lẽ sai trái rằng, đó là thực hành quyền dân tộc tự quyết.

Nhằm thực hiện âm mưu “phá từ trong phá ra”, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc quyền dân tộc tự quyết nhằm chia rẽ cộng đồng người dân tộc thiểu số với người Kinh, làm cho nội bộ đất nước rối ren, khối đại đoàn kết dân tộc bị suy yếu. Thực tiễn cho thấy không chỉ ở địa bàn Tây Bắc mà tại một số địa phương khu vực Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, diễn biến của vấn đề này cũng hết sức phức tạp. Các đối tượng phản động ở hải ngoại tăng cường cấu kết với các phần tử chống phá ở trong nước, sẵn sàng cung cấp tiền bạc, tài liệu,… phục vụ cho việc “xây dựng lực lượng”, tuyên truyền, dụ dỗ, kích động một số người dân thiếu thông tin hoặc nhẹ dạ, cả tin đứng lên đòi hỏi “xác lập vị thế, quyền dân tộc”.

Nổi cộm tại khu vực Tây Nguyên thời gian qua, các đối tượng phản động trong nước và nước ngoài cấu kết với nhau, hô hào kêu gọi thành lập cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập”. Mục đích của chúng là nhằm ly khai khu vực Tây Nguyên nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền, chia cắt sự toàn vẹn và thống nhất của đất nước cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam trên dải đất hình chữ S, thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập” thực chất là một tổ chức “ma” mà những kẻ theo FULRO (Mặt trận thống nhất đấu tranh của các dân tộc bị áp bức) lập ra vào cuối năm 1999, do Ksor Kơk cầm đầu. Để thực hiện mưu đồ đen tối, Ksor Kơk xuyên tạc rằng “mỗi dân tộc phải có một lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, đất của người Thượng phải do người Thượng quản lý, sử dụng”. Nhằm chiếm được lòng tin và thao túng tâm lý của người dân, chúng đẩy mạnh phương thức tuyên truyền qua tôn giáo.

Giữa năm 2000, Ksor Kơk từ Mỹ đã chỉ đạo một số tín đồ Tin lành người dân tộc thiểu số mà y đã tuyển mộ từ trước đó lên tiếng đòi tự do tôn giáo, tách Tin lành người Thượng ra khỏi Hội thánh Tin lành Việt Nam, lập nên tà đạo “Hội thánh Tin lành Đê ga” làm hậu thuẫn cho “Nhà nước Đê ga độc lập”.

Dù mang danh nghĩa là tổ chức tôn giáo, song “Hội thánh Tin lành Đê ga” đẩy mạnh các hoạt động mang màu sắc chính trị như việc xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực tôn giáo, dân tộc. Các đối tượng kích động các tín đồ Tin lành đuổi người Kinh về xuôi với lý lẽ là “đòi lại đất đai cho người Thượng”, xây dựng cơ sở tôn giáo trái phép, tiến hành các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp, kêu gọi thành lập “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập”…

Để thực hiện mưu đồ đen tối của mình, các đối tượng chống phá thường xuyên vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức, cá nhân phản động, thiếu thiện chí ở nước ngoài.

Trong các năm 2001, 2004, 2008 ở Tây Nguyên, “Hội thánh Tin lành Đê ga” dưới sự giật dây, chỉ đạo, hậu thuẫn của các thế lực thù địch từ hải ngoại đã kích động người dân gây ra các vụ bạo loạn khiến dư luận vô cùng phẫn nộ. Gần đây vụ tấn công liều lĩnh, manh động vào trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk rạng sáng 11/6/2023 làm 9 người chết, được đánh giá là hoạt động khủng bố chống chính quyền với sự tiếp tay, chỉ đạo từ nước ngoài.

Tại khu vực Tây Nam Bộ, sự chống phá, can thiệp của các tổ chức phản động ở nước ngoài cũng lộ rõ. Biểu hiện rõ nhất là tại một số diễn đàn quốc tế, những năm qua, Tổ chức “Liên đoàn Khmer Kampuchea Krom” (Mỹ) luôn tìm mọi cách tiếp cận các chính trị gia các nước để vu cáo, cung cấp thông tin thất thiệt, sai sự thật về vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, bịa đặt về tình hình người Khmer ở Việt Nam.

Tại “Diễn đàn thường trực Liên hợp quốc về các vấn đề dân tộc bản địa (UNPFII) lần thứ 14”, “Diễn đàn nhân dân ASEAN 2015”, tổ chức này còn yêu cầu Việt Nam, Campuchia chấm dứt phân biệt đối xử với người “Khmer Krom”; đề nghị Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các nước thành viên ASEAN can thiệp; yêu cầu thành lập Văn phòng nhân quyền bảo vệ quyền lợi cho người “Khmer Krom” tại Việt Nam...

Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện một số đối tượng cộm cán từ bên ngoài thường xuyên tác động, chỉ đạo, tài trợ, hướng dẫn các phần tử cực đoan sống tại địa phương thu thập tin tức bí mật chuyển ra ngoài, đồng thời lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm để xuyên tạc, vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo, dân tộc thiểu số, kích động quần chúng gây rối, biểu tình đòi ly khai, tự trị.

Cơ quan chức năng cũng đã phát hiện, thu giữ hàng nghìn tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam Bộ, cho rằng, đất Nam Bộ là của người “Khmer Krom” bị Việt Nam xâm chiếm, dựng lên cái gọi là “lễ kỷ niệm ngày mất đất”. Mặt khác, các đối tượng chống phá còn sử dụng Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc, để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta đối với dân tộc Khmer.

Mới đây, vào tháng 7/2023, lợi dụng việc cổng chào của tỉnh Trà Vinh phải phá dỡ do bị hư hỏng nặng, có thể gây nguy hiểm cho người dân, các đối tượng chống phá lập tức rêu rao rằng “cổng chào của tỉnh Trà Vinh (cũ) là của dân tộc Khmer, có kiến trúc văn hóa của cha ông để lại”, từ đó xuyên tạc việc tháo dỡ cổng chào là “chính quyền người Việt muốn xóa bỏ văn hóa của người Khmer, muốn thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc Khmer”.

Diễn biến của tình hình cho thấy mức độ nguy hiểm, phức tạp, khó lường của mưu đồ thực hiện diễn biến hòa bình dưới chiêu bài quyền dân tộc tự quyết trong tình hình hiện nay.

Dù được thực hiện với nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau song có thể nhận diện những điểm chung là: Các đối tượng chống phá triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, ngành trong việc triển khai chính sách dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc.

Cùng với đó, các đối tượng chống phá tiếp tục lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người dân tộc thiểu số, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn.

Nguy hiểm hơn, các thế lực phản động tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các dân tộc thiểu số để dẫn dụ, kích động, lôi kéo người dân đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, tỉnh táo nhận diện những chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch thực hiện dưới danh nghĩa quyền dân tộc tự quyết để có những biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả.

Một sốnchiêu trò chống phá của các thế lực thù địch

 Những hoạt động chống phá trên đều nhằm tác động vào nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với những người thiếu bản lĩnh, nhận thức mơ hồ và những kẻ bất mãn vì cho rằng mình không được trọng dụng, đãi ngộ... từ đó gây hoài nghi, suy giảm niềm tin vào Đảng, chế độ XHCN, rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trên thực tế, rất khó để tách bạch giữa âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch. Bởi chiêu trò của chúng là kết hợp giữa công khai với ngấm ngầm chống phá, thông qua các phương tiện cả truyền thống và hiện đại, đan xen các cách thức, biện pháp với nhiều màu sắc, quy mô, cấp độ, lẫn lộn trắng-đen, thật-giả... rất khó phân biệt, nhận diện. Tuy nhiên, có thể khái quát một số đặc điểm chính trong chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch như sau:

Thứ nhất, các hoạt động chống phá luôn được các thế lực thù địch chủ động tiến hành trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ, dưới nhiều hình thức. Triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, các thế lực thù địch lập ra các hội nhóm online, tổ chức livestream, hội thảo trực tuyến, đăng tải các bài viết... với nội dung xoay quanh chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước và cố tình vẽ ra các bất cập nảy sinh. Thời điểm tiến hành của chúng luôn gắn với các sự kiện, ngày lễ, các thời điểm chuẩn bị và tổ chức tiến hành đại hội đảng, bầu cử, ban hành luật, nghị định... Cách làm phổ biến của chúng là: Khi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước (cả với chủ trương ở cấp cơ sở) mới chỉ ở dạng dự thảo thì chúng đưa ra các “kiến nghị” nhằm hướng lái dư luận theo ý đồ của chúng; sau khi ban hành thì chúng kích động biểu tình, phản đối; khi các phần tử vi phạm bị bắt và xử lý theo pháp luật, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc và thông qua một số tổ chức, cá nhân để đòi trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, đồng thời vu khống Việt Nam đàn áp dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Thứ hai, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch diễn ra thường xuyên, liên tục, không ngại bịa đặt, dựng chuyện. Thực hiện phương châm “nói nhiều sẽ tin”, các trang mạng, blog cá nhân, các kênh YouTube... liên tục tiến hành các hoạt động chống phá bằng các bài viết, video clip tuyên truyền xuyên tạc với tần suất và cường độ ngày càng lớn, gần như liên tục, bất kể ngày, đêm. Triệt để lợi dụng tâm lý hiếu kỳ của một số người dân, chúng thường xuyên tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, dựng lên những sự kiện không có thật, thậm chí bịa đặt trắng trợn, để gây hoài nghi trong nhân dân. Khi các thông tin chống phá của chúng bị vạch mặt, bóc trần sự thật, chúng lập tức vu cáo ta “độc đoán”, đàn áp tự do báo chí, che giấu thông tin, hoặc tiếp tục bẻ lái, kích động dư luận chống đối, đi ngược lại quan điểm, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng. Hiện nay, nổi lên là việc một số hội nhóm, tổ chức được sự hỗ trợ của các thế lực, tổ chức phản động nước ngoài, tiến hành các hoạt động xuất bản ấn phẩm báo chí, tài liệu, băng hình đòi xét lại các vấn đề lịch sử, một mặt nhằm “rửa tội” cho bè lũ tay sai, bán nước, một mặt thì dọn đường dư luận để tiếp tục đưa ra luận điệu phủ nhận vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước hiện nay.

Thứ ba, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch diễn ra tinh vi, đa dạng, nhiều chiều. Hiện nay, với sự phát triển mạnh của các mạng xã hội, việc bày tỏ chính kiến với các vấn đề xã hội của nhân dân càng trở nên dễ dàng. Lợi dụng điều đó, để đánh lừa được quần chúng nhân dân, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với các phương thức, chiêu trò, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Chúng ra sức cổ xúy cho cái gọi là “nhận thức đa chiều” hay “nhìn nhận đa chiều” để bới móc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cả trong lịch sử và hiện tại. Chúng tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục, đào tạo, các diễn đàn, nhất là triệt để lợi dụng một số văn nghệ sĩ, trí thức bất mãn, có quan điểm chính trị lệch lạc để ngấm ngầm cài cắm, tán phát những quan điểm sai trái, phản động; lợi dụng các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tổ chức truyền đạo, lập đạo trái phép để tuyên truyền, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Bằng mồi nhử kinh tế, thông qua tổ chức các hoạt động “du lịch”, “thăm thân”, “hội nghị đầu tư”, “dự án”... chúng “khéo léo” mua chuộc, lôi kéo đội ngũ cán bộ, hoặc dùng các thủ đoạn ghi âm, ghi hình... để vừa vu khống, nói xấu chế độ, vừa ép buộc cán bộ của ta, từng bước làm họ sa ngã, rơi vào lối sống thực dụng, hưởng thụ, từ đó có lời nói, hành vi đối lập với quan điểm của Đảng.

Để góp phần đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng với việc chủ động tăng cường thông tin tích cực, đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xấu độc thì điểm mấu chốt vẫn là phải đẩy mạnh việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy công quyền, làm cơ sở tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh... mà Đảng ta đã xác định. Bên cạnh đó, cần tiếp tục làm tốt công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền, nâng cao cảnh giác và nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên cùng các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và tính chất nguy hại của nó. Đặc biệt là phải nâng cao chất lượng việc học tập và nghiên cứu lý luận, không chỉ làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấu suốt, đồng thuận cao với mọi quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước mà còn làm cơ sở tiền đề để các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng đi vào thực tiễn một cách mạnh mẽ, hiệu quả.

Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt rõ giữa “quan điểm khác” với “quan điểm thù địch”. Nếu “quan điểm khác”, tức là không giống quan điểm của Đảng (do Đảng chưa tính tới, chưa kịp thời cập nhật...) mà không trái với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có lợi cho đất nước và nhân dân, thì cần nghiên cứu tiếp thu. Còn nếu “quan điểm khác” nhưng ngược với mục tiêu, lý tưởng, trái với chủ trương, đường lối của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc thì cần phải kiên quyết lên án và đấu tranh bác bỏ.

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

Ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả các thông tin xấu độc

 Để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả các thông tin xấu độc, nhất là các dạng tin đồn thất thiệt, góp phần giữ vững an ninh tư tưởng trên không gian mạng, rất cần triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, cộng đồng mạng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng. Trong đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới và Luật An ninh mạng.

Trong đó, cần đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, bao gồm cả tuyên truyền miệng và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hằng tháng hoặc đột xuất, các cấp ủy Đảng, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên cần quan tâm lồng ghép, đưa thông tin chuyên đề đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn, bản chất của các tin đồn thất thiệt trong các cuộc họp chi bộ và các hội nghị báo cáo viên.

Để ngăn chặn tin đồn thật thiệt, không để lan truyền các thông tin xấu độc trên không gian mạng, các cơ quan báo chí cần đẩy mạnh tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kịp thời phản bác các tin đồn thất thiệt trên mạng interet và các nền tảng xã hội.

Hai là, tổ chức đấu tranh thường xuyên, kịp thời với các thông tin xấu độc, các tin đồn lan truyền trên mạng xã hội. Khơi dậy ý thức cảnh giác cao độ của mỗi công dân, nhóm sử dụng và cộng đồng mạng, nhất là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... khi tham gia các mạng xã hội. Các cấp ủy Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và hệ thống các trường từ trung học phổ thông đến các trường đại  học cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, các cuộc họp chuyên đề về đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, để mỗi công dân mạng nâng cao ý thức đấu tranh, tự tạo cho mình sức đề kháng, nhận thức rõ bản chất đúng - sai của thông tin xấu độc, không bị mắc bẫy khi chia sẻ, lan truyền các tin đồn, vi phạm Luật an ninh mạng.

Ba là, tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị chức năng trong đấu tranh tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đấu tranh kịp thời với các hành vi, vi phạm của các mạng xã hội facebok, google, tiktok... Yêu cầu các mạng xã hội phải tuân thủ pháp luật, bóc gỡ các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đạo đức xã hội và vi phạm luật pháp của Việt Nam.../.

Thứ hai, chúng xuyên tạc, phủ nhận cương lĩnh, đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thủ đoạn cũ rích, nhưng chúng luôn coi là một trọng điểm chống phá với những chiêu trò hết sức tinh vi, thâm độc. Chúng xuyên tạc, phủ nhận đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng. Chúng cố tình lờ đi vấn đề mang tính khách quan trong quy luật phát triển xã hội là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người chỉ thực sự triệt để khi có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, điều này đồng nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, chúng “lý sự” rằng: “Mọi câu hỏi của xã hội đều được tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản”(!); Đảng Cộng sản Việt Nam “bảo thủ” với con đường đi lên CNXH là trái quy luật, hoặc “đã phát triển kinh tế thị trường thì đâu còn là CNXH”(!); Việt Nam hiện nay là “đỏ vỏ, xanh lòng”(!)... 

Đối với quân đội, chúng cho rằng “quân đội chỉ trung thành và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, “quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị”(!)... Bên cạnh đó, chúng còn ra sức tuyên truyền cho luận điệu “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ”, logic của chúng là phải xóa bỏ sự “độc tài, toàn trị” của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước ta. Thực chất là, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập; phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), hướng lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là hai vấn đề căn cốt để chúng tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Thứ ba, chống phá công tác cán bộ của Đảng. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là “thanh trừng nội bộ”, là “chuẩn bị ghế nhân sự” cho đại hội Đảng... Không những thế, chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... hòng hạ bệ uy tín của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng.

Thứ tư, chúng phủ nhận thành tựu phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch trắng trợn phủ nhận sạch trơn những thành tựu to lớn mà Đảng và quân, dân ta đã đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thành tựu qua gần 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (dù thực tế những thành tựu của nước ta đã được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao)... Mục đích của chúng là hòng tạo nên bức tranh bi quan về tình hình Việt Nam, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN.

Một số biện pháp ngăn chặn hoạt động chống phá trên không gian mạng

 Để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả các thông tin xấu độc, nhất là các dạng tin đồn thất thiệt, góp phần giữ vững an ninh tư tưởng trên không gian mạng, rất cần triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, cộng đồng mạng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng. Trong đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới và Luật An ninh mạng.

Trong đó, cần đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, bao gồm cả tuyên truyền miệng và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hằng tháng hoặc đột xuất, các cấp ủy Đảng, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên cần quan tâm lồng ghép, đưa thông tin chuyên đề đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn, bản chất của các tin đồn thất thiệt trong các cuộc họp chi bộ và các hội nghị báo cáo viên.

Để ngăn chặn tin đồn thật thiệt, không để lan truyền các thông tin xấu độc trên không gian mạng, các cơ quan báo chí cần đẩy mạnh tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kịp thời phản bác các tin đồn thất thiệt trên mạng interet và các nền tảng xã hội.

Hai là, tổ chức đấu tranh thường xuyên, kịp thời với các thông tin xấu độc, các tin đồn lan truyền trên mạng xã hội. Khơi dậy ý thức cảnh giác cao độ của mỗi công dân, nhóm sử dụng và cộng đồng mạng, nhất là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... khi tham gia các mạng xã hội. Các cấp ủy Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và hệ thống các trường từ trung học phổ thông đến các trường đại  học cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, các cuộc họp chuyên đề về đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, để mỗi công dân mạng nâng cao ý thức đấu tranh, tự tạo cho mình sức đề kháng, nhận thức rõ bản chất đúng - sai của thông tin xấu độc, không bị mắc bẫy khi chia sẻ, lan truyền các tin đồn, vi phạm Luật an ninh mạng.

Ba là, tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị chức năng trong đấu tranh tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đấu tranh kịp thời với các hành vi, vi phạm của các mạng xã hội facebok, google, tiktok... Yêu cầu các mạng xã hội phải tuân thủ pháp luật, bóc gỡ các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đạo đức xã hội và vi phạm luật pháp của Việt Nam.../.

Một số phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá trên không gian mạng

 Phương thức thông tin của tin đồn có nhiều dạng thức mới, nhưng về bản chất vẫn chủ yếu xung quanh ở các dạng thức.

Thứ nhất, tin đồn kiểu thật - giả lẫn lộn. Sử dụng thông tin có thật về các vụ án tham nhũng đã, đang, sẽ được xem xét, xử lý từ các nguồn thông tin chính thống của các báo, tạp chí trong nước, rồi thêm “gia vị’, nhào nặn để bôi nhọ, xuyên tạc cá nhân lãnh đạo, từ đó quy chụp, nói xấu chế độ.

Thứ hai, tin đồn kiểu giả mạo 100%. Đây là những tin giả, không có thật, do một số phần tử phản động, cơ hội chính trị tưởng tượng ra kịch bản như thật để lừa bịp người nhẹ dạ cả tin, nhằm kích động, hoặc tôn thờ, ca tụng một cá nhân, nhưng lại nói xấu một hay vài cá nhân lãnh đạo khác. Mục tiêu của chúng là kích động, gây mất đoạn kết nội bộ lãnh đạo nhằm chia giẽ nội bộ, dựng lên cái gọi là phe, nhóm lãnh đạo cấp cao tỉnh A, tỉnh B hay miền Trung, miền Nam, miền Bắc...

Đáng chú ý là chủ của các thông tin xấu độc này là những phần tử phản động, cơ hội chính trị ngoài nước. Họ là những kẻ phản động, bất mãn chế độ, chuyên “cạo chữ trên bàn phím”, ngồi cách xa Việt Nam hàng vạn cây số nhưng lại có vẻ như “người trong nội bộ”, ngụy tạo lên những chuyện hoang đường, hoàn toàn không có thật, suy diễn, thậm chí gắp lửa bỏ tay người, chọc gậy bánh xe để kích động, chia giẽ, lý gián nội bộ lãnh đạo...

Nguy hiểm hơn là lợi dụng tâm lý tò mò của không ít người sử dụng các nền tảng mạng xã hội trong nước, chúng sẻ chia thông tin giả trên nhiều nền tảng mạng xã hội, nhất là tiktok, facebok, youtube... len lỏi đưa lên nhiều nhóm facebook có số lượng thành viên rất đông để nhân rộng, lan tỏa nhanh thông tin. Từ  một vài người đến nhiều nhóm sử dụng các nền tảng mạng xã hội ở trong nước, hàng vạn người chia sẻ, bình luận, từ  đó hình thành làn sóng tin đồn, gây tâm lý bán tín, bán nghi, hoang mang trong dân chúng, cộng đồng mạng. Từ mạng ảo, các dạng tin đồn được các faceboker, tiktoker ra đời sống thực, rỉ tai nhau, lan truyền các tin đồn, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong xã hội.

Chính vì thế, hệ lụy, tác động từ các dạng tin đồn đã, đang gây hậu quả xấu, tác động đến tâm trạng, tư tưởng, an ninh tư tưởng trên không gian mạng. Ngoài tâm lý tò mò của cộng đồng mạng làm cho tin đồn - thông tin xấu độc lâu nay vẫn có đất sống, có nguyên nhân chủ quan từ chính chúng ta. Chúng ta thiếu tính chủ động, kịp thời ngăn chặn, để cho các tin đồn có thời gian dài có đất sinh sôi, nảy nở, lan truyền, tạo thành làn sóng tin giả tán phát mạnh mẽ trên mạng xã hội. Vẫn xảy ra tình trạng tắc trách, thờ ơ, thiếu tính đồng bộ, hiệp đồng tác chiến giữa các cấp, các cơ quan, đơn vị trong xử lý các tình huống tư tưởng và ngăn chặn tin đồn. Chúng ta còn để khoảng trống, thiếu các thông tin chính thống, dẫn dắt, chi phối trận địa tư tưởng trên không gian mạng, do các thông tin chính thống đăng tải để phủ định các tin đồn, tin giả, từ các cơ quan báo chí không kịp thời.