Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Đánh tráo bản chất phiên tòa xét xử vụ khủng bố - âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch

 Từ 16-20/1/2024, TAND tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử sơ thẩm 100 bị cáo trong vụ khủng bố, tấn công trụ sở UBND hai xã ở Đắk Lắk, giết hại cán bộ, chiến sĩ Công an và người dân vào rạng sáng 11/6/2023.

Trước, trong và sau phiên toà, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép với mục đích chính trị hoá vụ án.

Họ cố tình đánh tráo bản chất, biến vụ khủng bố thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Đồng thời tạo cớ để kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Thủ đoạn đánh tráo bản chất vụ án

 “Chính trị hóa” vụ án hình sự là hành vi được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm bẻ lái, xuyên tạc, áp đặt, cho đó là “vi phạm nhân quyền”, “vi phạm dân chủ”, “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe nhóm”, “lỗi do độc đảng”... Họ thổi phồng, suy diễn vụ việc sang hướng quy kết thành những vấn đề chính trị của đất nước. Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài “Vụ xả súng tại Đắk Lắk vào tháng 6/2023 là “phản kháng chống lại áp bức”, xuyên tạc sự thật.

t3aaa.jpg -0
Phiên toà xét xử các bị cáo trong vụ khủng bố ở Đắk Lắk.

Họ tẩy trắng hành vi khủng bố và kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta, đồng thời tiếp tục cổ suý, kích động cho những hành động khủng bố trên.

Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 17/1 đăng bài “Thấy gì từ phiên tòa xét xử 100 người vụ tấn công trụ sở UBND xã ở Đắk Lắk?”, đưa nhiều thông tin sai sự thật, mang tính chụp mũ, suy diễn như: “Báo chí trong nước khi đưa tin phiên tòa đều gọi các bị cáo là khủng bố, tạo ra cái nhãn “có tội” cho tất cả những người này dù chưa hề có bản án có hiệu lực của tòa”! Các đối tượng tiếp tục vu cáo Việt Nam đàn áp người dân tộc thiểu số suốt nhiều thập kỷ qua và quy kết hành vi tấn công khủng bố là phản ứng từ sự dồn nén, phẫn uất quá lâu của người dân mà sự kiện ngày 11/6/2023 “tựa như một sự tức nước vỡ bờ”!

Đài VOA Tiếng Việt đưa tin phiên toà bằng việc dẫn lại nguồn tin của báo chí. Tuy nhiên, trang tin đã lồng ghép, xuyên tạc bản chất vụ việc vào nội dung bài báo như phủ nhận hành vi khủng bố và coi các hoạt động trên là sự “phản kháng áp bức”! Đồng thời, bài viết trích dẫn những nội dung sai trái khác nhắm vào miệt thị chính quyền, quy cho nguyên nhân vụ khủng bố là “họ đã bị đẩy đuổi đến bước đường cùng”!

Không chỉ đến khi xảy ra vụ việc các đối tượng tấn công khủng bố ở Đắk Lắk mà trước đó các kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Họ xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta khi nói rằng, giải pháp cho các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội ở Tây Nguyên đều lặp lại điệp khúc này từ khi đất nước thống nhất, ngày 30/4/1975.

Thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên của các thế lực thù địch, phản động theo các hướng sau:

Một là, sử dụng triệt để các tiện ích của phương tiện truyền thông  trên internet, trong đó có mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta liên quan đến các vấn đề dân tộc, tôn giáo; vu cáo Nhà nước phân biệt đối xử, đàn áp quyền của người dân tộc thiểu số nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân, kích động đồng bào chống đối chính quyền, đòi ly khai, quyền tự trị, đòi thành lập “Nhà nước Đê-ga” độc lập.

Hai là, lợi dụng các chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật, nhất là đạo “Tin lành Đêga” nhằm tôn giáo hóa các vùng dân tộc thiểu số, tiến tới tập hợp lực lượng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó kết hợp vấn đề dân tộc và tôn giáo để kích động hoạt động biểu tình, bạo loạn, tạo thành điểm nóng chính trị, an ninh xã hội.

Ba là, triệt để lợi dụng những vấn đề lịch sử để lại nhằm thực hiện việc kích động hận thù, chia rẽ đồng bào các dân tộc thiểu số, khoét sâu tâm lý ly khai, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết lương giáo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân...

Âm mưu cơ bản, lâu dài của các đối tượng chống đối trong và ngoài nước đối với vùng đất Tây Nguyên là xuyên tạc, vu cáo Việt Nam đàn áp quyền của người dân tộc thiểu số; tuyên truyền, lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc đòi ly khai, tự trị, thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”, tách Tây Nguyên ra khỏi đại gia đình các dân tộc và chủ quyền lãnh thổ Việt Nam; biến địa bàn Tây Nguyên thành khu vực mất ổn định, vùng tự trị, tiến tới thành lập “nhà nước độc lập”. Đồng thời, tạo ngòi nổ cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những khu vực khác hình thành nhiều “điểm nóng xung đột”, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ hình thành các điểm nóng trong nước, các đối tượng kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài vào tình hình nội bộ của Việt Nam và làm suy giảm uy tín của Việt Nam với quốc tế.

Sự thật không thể bị bóp méo

Ngày 22/6/2023, tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở New York, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức thảo luận và thông qua văn kiện rà soát lần thứ 8 việc thực hiện chiến lược chống khủng bố của LHQ. Nghị quyết tái khẳng định chiến lược cùng 4 trụ cột, tầm quan trọng của việc thực hiện cân bằng và kết hợp tất cả trụ cột. Tham dự và phát biểu tại phiên họp, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ đánh giá: Chủ nghĩa khủng bố tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình, ổn định và phát triển trên phạm vi toàn cầu. Đồng thời, Đại sứ Đặng Hoàng Giang khẳng định, việc thông qua văn kiện bằng đồng thuận thể hiện thông điệp thống nhất và mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế không chấp nhận chủ nghĩa khủng bố dưới bất cứ hình thức nào. Đối với vụ việc xảy ra tại tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023, Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh, đây là hành vi khủng bố có tổ chức nhằm vào trụ sở cơ quan nhà nước, cán bộ và dân thường. Ông khẳng định, các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện hoặc đứng sau sẽ bị xử lý tương xứng với mức độ vi phạm. Đồng thời tái khẳng định lập trường của Việt Nam phù hợp với các văn kiện của LHQ liên quan, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức và biểu hiện, do bất kỳ ai thực hiện, ở đâu và vì bất kỳ mục đích gì.

Trước đó, ngày 20/6/2023, tại Hội nghị cấp cao của những người đứng đầu cơ quan chống khủng bố của các quốc gia thành viên LHQ, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an đã có bài phát biểu nêu rõ bốn nguy cơ khủng bố từ bên ngoài gây hại cho an ninh quốc gia Việt Nam. Tại hội nghị này, đại diện Bộ Công an đã khẳng định hành động của nhóm đối tượng tấn công trụ sở chính quyền và người dân tại tỉnh Đắk Lắk là tội phạm khủng bố có tổ chức.

Ngày 2/10/2023, Ủy ban pháp lý (Ủy ban 6) của Đại hội đồng LHQ khóa 78 đã khai mạc và tiến hành thảo luận nội dung các biện pháp để loại trừ chủ nghĩa khủng bố quốc tế với sự tham dự, phát biểu của các nước thành viên và các tổ chức quốc tế, khu vực. Tham dự và phát biểu tại phiên thảo luận, tham tán công sứ Lê Thị Minh Thoa, Phó trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết lên án khủng bố dưới bất kỳ hình thức và với động cơ nào. Việt Nam ủng hộ các biện pháp chống khủng bố phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nghĩa vụ theo luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế. Vụ tấn công khủng bố xảy ra tại xã Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk tháng 6/2023, đại diện Việt Nam cám ơn các đối tác đã lên án vụ tấn công và nhân dịp này, đề nghị các quốc gia, tổ chức quốc tế có liên quan tiếp tục hỗ trợ và hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong điều tra, xét xử số đối tượng còn đang lẩn trốn.   

Vì vậy, phiên toà xét xử 100 bị cáo trong vụ tấn công khủng bố ở Đắk Lắk ngày 11/6/2023 là tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nghĩa vụ theo luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế. Đồng thời trong quá trình điều tra vụ án, Việt Nam cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia, tổ chức quốc tế có liên quan trong hoạt động phòng, chống khủng bố. Đến nay, các đối tượng đều đã ăn năn, hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận do thiếu hiểu biết hoặc do bị đe doạ nên đã tham gia hoạt động phạm tội. Các đối tượng xin được Đảng, Nhà nước xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt. Kết quả điều tra đã làm rõ được toàn bộ diễn biến sự việc và tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các đối tượng. Công tác điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện khách quan, công bằng, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Bản chất của chiêu trò chính trị hóa vụ án hình sự phiên toà xét xử vụ án cho thấy rõ ý đồ đánh tráo bản chất nhằm chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động. Người dân cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, không ngộ nhận trước chiêu trò ấy, không tin vào luận điệu xuyên tạc, suy diễn, quy chụp của những phần tử cực đoan, cơ hội chính trị; không tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Cần tôn trọng pháp luật và quy định quốc tế về các quyền tự quyết quốc gia

 Trong thế giới đa cực hiện nay, để tạo sự công bằng, thúc đẩy sự tiến bộ của loài người, mọi quốc gia đều có quyền xây dựng và thực thi pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia và quyền lợi của công dân mình. Hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền là đi ngược lại nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Mọi cá nhân, tổ chức cần tôn trọng pháp luật Việt Nam và không được lợi dụng các vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Mỗi quốc gia có quyền tự do và độc lập trong việc xây dựng và thực thi pháp luật của mình. Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác là vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos cần tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm việc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc, trong đó có Việt Nam. 

Như vậy, những cáo buộc của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos về tình hình nhân quyền tại Việt Nam là thiếu căn cứ và không phản ánh đúng sự thật. Việt Nam luôn cam kết bảo vệ quyền lợi của mọi công dân và tuân thủ các quy định của pháp luật quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. Hiểu đúng và công bằng về tình hình thực tế là rất quan trọng để tránh những đánh giá sai lệch, đồng thời duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế trên cơ sở tin tưởng, tin cậy và hỗ trợ cho nhau để bảo đảm và nâng cao giá trị quyền con người.     

Kêu gọi trả tự do cho tội phạm là hành vi sai trái và tạo tiền lệ xấu

 Lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam là chiêu trò quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động, được thể hiện rõ trong việc kêu gọi, đòi trả tự do cho những đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội, các bị cáo đã có phán quyết của tòa án và phạm nhân đang thụ án trong các trại giam. Ngày 29/6 vừa qua, trang VOA (Đài tiếng nói Hoa Kỳ) có bài viết với tiêu đề “Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos kêu gọi phóng thích 4 nhà hoạt động Việt Nam”.

VOA trích dẫn thông tin từ Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Hạ viện Hoa Kỳ ra lời kêu gọi Việt Nam “trả tự do cho các tù nhân”  Y Krếch Byă, Phạm Đoan Trang... nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế của Liên hiệp quốc chống tra tấn.

Về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy:

Đòi hỏi trả tự do cho Y Krếch Byă, Phạm Thị Đoan Trang là phi lý.

Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos cho rằng, Y Krếch Byă bị bắt giữ vì lãnh đạo cộng đồng tôn giáo của họ, đồng thời bị tra tấn và bỏ mặc về mặt y tế. Tuy nhiên, các cáo buộc này không dựa trên các bằng chứng xác thực và không phản ánh đúng bản chất của sự việc. Y Krếch Byă bị bắt giữ không phải vì lý do tôn giáo mà vì vi phạm pháp luật Việt Nam, phạm tội danh quy định trong Bộ luật Hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định, Y Krếch Byă và một số đối tượng đã có hành vi phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, tổ chức hàng trăm buổi hội họp tập huấn trực tuyến, chỉ đạo thu thập các thông tin, tài liệu nhằm xuyên tạc, gây chia rẽ giữa người dân với chính quyền và lực lượng vũ trang, chia rẽ giữa người dân theo các tôn giáo khác nhau.    

image001.jpg -0
Bị cáo Phạm Thị Đoan Trang tại phiên toà phúc thẩm, tháng 8/2022.

Một số đối tượng còn có hành vi trực tiếp lôi kéo phát triển mạng lưới cơ sở theo chỉ đạo của nhóm Fulro lưu vong. Việc bắt giữ và xử lý đối tượng là hoàn toàn tuân thủ các quy định của pháp luật và không liên quan đến vấn đề tôn giáo.

Về đối tượng Phạm Thị Đoan Trang, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos cho rằng, Trang “bị bỏ tù vô cớ vì làm công việc báo chí và bị tra tấn, bỏ bê về mặt y tế kể từ khi bị bắt vào năm 2020”. Tuy nhiên, đây lại là một nhận định thiếu căn cứ và không phản ánh đúng hành vi đã diễn ra trong thực tế, các bằng chứng thu thập được để phản ánh về vấn đề “nhân quyền” chủ yếu dựa trên cơ sở nhận định chủ quan, thông qua các nguồn sai lệch. Phạm Thị Đoan Trang không bị bắt giữ vì hoạt động báo chí mà do những hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam. Cơ quan tiến hành tố tụng khẳng định, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung tuyên truyền chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Phạm Thị Đoan Trang còn trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân...

Sự thiếu khách quan trong báo cáo của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos

Các báo cáo của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thiếu khách quan và không dựa trên các bằng chứng xác thực với những gì đang diễn ra thực tế tại Việt Nam hiện nay. Họ dựa vào các thông tin một chiều từ các tổ chức, cá nhân chống phá Việt Nam dễ dẫn đến những nhận định sai lệch. Thực tế, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos đang thiếu bằng chứng thuyết phục để đưa ra cáo buộc về tình trạng sức khỏe, y tế, các điều kiện của các phạm nhân Y Krếch Byă, Phạm Thị Đoan Trang. Các báo cáo nhân quyền đang bị lạm dụng bởi những định kiến, ý chí cá nhân và bị chi phối bởi các mục đích chính trị nhằm gây sức ép và tạo áp lực đối với Việt Nam trên trường quốc tế. Không thể sử dụng chiêu bài “nhân quyền” để đưa ra các đánh giá sai trái, lấy cớ can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền.

Không thể tạo tiền lệ xấu, khuyến khích hành vi phạm tội

Quyền con người là toàn bộ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể chế hoá (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia. Sự tiến bộ của một quốc gia được ghi nhận hay không còn phụ thuộc vào mức độ tôn trọng, đảm bảo quyền con người và thể chế chính trị quốc gia. Các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi giá trị nhân quyền và chỉ khi nhân quyền được đảm bảo thì quốc gia đó mới được coi là phát triển, phồn vinh. Chúng ta hoàn toàn không phủ nhận sự tiến bộ, văn minh về quyền con người của các quốc gia phương Tây, về những giá trị nhân bản, cốt lõi mà họ đã làm được. Tuy nhiên, lợi dụng quyền con người lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Sử dụng nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia, điều đó bị coi là lạm dụng nhân quyền để toan tính lợi ích chính trị, đó là hành động phi lý, đi ngược lại với luật pháp quốc tế và xâm phạm vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Hiển nhiên, hành động như vậy bị các quốc gia đó tẩy chay, bị cộng đồng quốc tế lên án.

Việt Nam là quốc gia đã từng bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc chà đạp về nhân quyền nghiêm trọng khi đem quân gây chiến tranh xâm lược và buộc nhân dân Việt Nam phải đoàn kết, đứng lên kháng chiến bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ quyền con người. Do đó, Việt Nam luôn đấu tranh vì nhân quyền và đặc biệt coi trọng quyền con người. Việt Nam luôn cam kết bảo vệ quyền lợi của mọi công dân, bao gồm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do báo chí, ngôn luận. Tuy nhiên, điều hoàn toàn không thể đảo ngược, đó là không ai được phép lợi dụng tôn giáo, lợi dụng nhân quyền để vi phạm pháp luật, phạm tội, để can thiệp vào các công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Việc trả tự do cho các đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội dựa trên suy đoán cá nhân, các quan điểm, ý kiến thiếu căn cứ có thể tạo ra tiền lệ xấu, khuyến khích các hành vi phạm pháp trong tương lai.

Một khi luật pháp đã ban hành, các quy tắc xử sự về luật pháp đã được người dân nắm bắt thì mọi hành vi vi phạm pháp luật cần được xử lý để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, chống lại quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội. Việc trả tự do một cách vô căn cứ vừa trái với nguyên tắc luật định, vừa khuyến khích các hành vi vi phạm khác tương tự như Y Krếch Byă, Phạm Thị Đoan Trang, tất yếu tạo tiền lệ xấu.

Cần tôn trọng pháp luật và quy định quốc tế về các quyền tự quyết quốc gia

Trong thế giới đa cực hiện nay, để tạo sự công bằng, thúc đẩy sự tiến bộ của loài người, mọi quốc gia đều có quyền xây dựng và thực thi pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia và quyền lợi của công dân mình. Hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền là đi ngược lại nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Mọi cá nhân, tổ chức cần tôn trọng pháp luật Việt Nam và không được lợi dụng các vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Mỗi quốc gia có quyền tự do và độc lập trong việc xây dựng và thực thi pháp luật của mình. Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác là vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos cần tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm việc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc, trong đó có Việt Nam. 

Như vậy, những cáo buộc của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos về tình hình nhân quyền tại Việt Nam là thiếu căn cứ và không phản ánh đúng sự thật. Việt Nam luôn cam kết bảo vệ quyền lợi của mọi công dân và tuân thủ các quy định của pháp luật quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. Hiểu đúng và công bằng về tình hình thực tế là rất quan trọng để tránh những đánh giá sai lệch, đồng thời duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế trên cơ sở tin tưởng, tin cậy và hỗ trợ cho nhau để bảo đảm và nâng cao giá trị quyền con người.     

Báo cáo nhân quyền của EU thiếu khách quan về Việt Nam

 Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023 của Liên minh châu Âu (EU) đáng tiếc vẫn đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.

Ngày 6/6, tại buổi họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023 của EU trong đó có nội dung về tình hình thực thi quyền con người tại Việt Nam, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết:

"Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023 của EU mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng đáng tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định thiếu khách quan, dựa trên các thông tin sai lệch, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam".

Báo cáo nhân quyền của EU thiếu khách quan về Việt Nam -0
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Việt Nam.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước, và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân.

"Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, được bảo đảm và tôn trọng trên thực tế. Các nỗ lực và thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận rộng rãi và đánh giá cao", bà Phạm Thu Hằng nhấn mạnh.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đồng thời nhận định, quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - EU đang phát triển hết sức tốt đẹp. Việt Nam sẵn sàng trao đổi, hợp tác với EU trong vấn đề quyền con người trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thông qua cơ chế đối thoại thường niên và các khuôn khổ trao đổi song phương khác.

"Việc tăng cường trao đổi, đối thoại thông qua các cơ chế hiện có sẽ giúp EU có đầy đủ thông tin khách quan, hiểu đúng hơn về tình hình thực tế thúc đẩy bảo đảm quyền con người của Việt Nam, thông qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và EU", bà Hằng khẳng định.

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người

 Đây là quan điểm được chuyên gia phân tích chính trị quốc tế người Nga Grigory Trofimchuk, người đã có nhiều năm nghiên cứu về Việt Nam, đưa ra trong bài viết mang tiêu đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” được đăng tải trên Báo “Độc Lập”, chuyên trang phân tích chính trị, thời sự hàng đầu của Nga.

Trong bài viết, tác giả nhấn mạnh một trong những khía cạnh khó khăn nhất của vấn đề nhân quyền là tôn giáo. Tại Việt Nam, một nhà nước xã hội chủ nghĩa, đời sống tôn giáo của người dân hoàn toàn cởi mở. Hiện 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng tôn giáo, thậm chí còn cao hơn ở Nga.

Ngoài ra, ở Việt Nam hiện có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo, với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, trên 54.000 chức sắc, trên 135.000 chức việc và gần 30.000 cơ sở thờ tự.

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người -0

Nhiều loại hình tín ngưỡng, di tích, đồ thờ cúng được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản thế giới. Tác giả nhấn mạnh điều này có vẻ xa lạ đối với một nhà nước chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự thật tại Việt Nam.

Đối với quyền tự do đi lại và cư trú, chuyên gia Grigory Trofimchuk cho biết, hàng triệu lượt người từ khắp nơi trên thế giới đến thăm Việt Nam mỗi năm là bằng chứng rõ nhất cho quyền tự do này. Người nước ngoài có thể đến Việt Nam, làm việc, nghỉ ngơi mà không gặp bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, tất nhiên là trên cơ sở tuân thủ luật pháp sở tại.

Năm 2023, Việt Nam điều chỉnh Luật Xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, với nhiều điểm mới, thuận lợi hơn cho công dân và người nước ngoài, như cấp thị thực điện tử cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Hơn 90 điều ước quốc tế đã được ký kết, các hiệp định quốc tế về chế độ miễn thị thực cho công dân Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ, các hiệp định biên giới với các nước láng giềng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại.

Chuyên gia Grigory Trofimchuk đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam, với 1 hãng thông tấn quốc gia và 72 cơ quan hoạt động phát thanh, truyền hình với 79 kênh phát thanh và 198 kênh truyền hình. Điều này chứng minh cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam. Tác giả bài viết cũng đề cập tới quyền sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm và sự toàn vẹn về thể chất trong những nỗ lực đảm bảo quyền con người ở Việt Nam.

Kết thúc bài viết, tác giả Grigory Trofimchuk khẳng định, Việt Nam luôn công nhận các nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản về quyền con người, đồng thời cũng sẵn sàng hoàn thiện vấn đề này thông qua việc thực hiện các khuyến nghị quốc tế hợp lý. Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng, việc nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, trong đó có các chỉ số kinh tế cao, không thể tách rời việc cải thiện đời sống của người dân.

Nhận diện thách thức, thúc đẩy các giải pháp bảo đảm quyền con người

Ngày 15/8, Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ phối hợp với Ban Chỉ đạo về Nhân quyền tỉnh Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn công tác nhân quyền toàn quốc năm 2024 tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Hội nghị nhằm đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước có liên quan đến công tác nhân quyền của Việt Nam; nhận định những thách thức có thể tác động trực tiếp đến công tác bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền tại Việt Nam và đề ra các giải pháp trọng tâm thời gian tới.

Nhận diện thách thức, thúc đẩy các giải pháp bảo đảm quyền con người -0
Trung tướng Đặng Xuân Hồng, Chánh Văn phòng Thường trực Nhân quyền Chính phủ phát biểu tại hội nghị.

Hội nghị tập huấn nhân quyền toàn quốc diễn ra trong bối cảnh Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận không chỉ đạt những thành tựu quan trọngtrong bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở trong nước, mà còn có nhiều đóng góp tích cực, có trách nhiệm trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (LHQ) nhiệm kỳ 2023-2025.

Mặc dù phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, Việt Nam vẫn luôn nỗ lực không ngừng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, bảo đảm thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các cam kết quốc tế về quyền con người. Việt Nam bảo vệ thành công báo cáo quốc gia thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền và Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát về quyền con người của Hội đồng Nhân quyền LHQ (UPR).

Nhận diện thách thức, thúc đẩy các giải pháp bảo đảm quyền con người -0
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Đầu Thanh Tùng phát biểu tại hội nghị.

Công tác đối thoại nhân quyền với các đối tác quan trọng như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Australia đạt nhiều kết quả tích cực, thực chất, góp phần quan trọng vào thúc đẩy quan hệ với các đối tác, trong đó có việc nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác chiến lược toàn diện; đồng thời khẳng định thành công của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người. Trong đối thoại, các nước này đánh giá cao vai trò, đóng góp của Việt Nam trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ với những sáng kiến và hoạt động hiệu quả. Việt Nam đã có nhiều sáng kiến phù hợp với ưu tiên của Việt Nam và quan tâm chung của thế giới, như phát triển bền vững, thúc đẩy bình đẳng giới…, qua đó đóng góp vào hiệu quả hoạt động chung của cơ quan quan trọng nhất về quyền con người của LHQ.

Phát biểu khai mạc hội nghị, Trung tướng Đặng Xuân Hồng, Chánh Văn phòng Thường trực Nhân quyền Chính phủ nhận định, năm 2024, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đặt ra nhiều thách thức đối với nỗ lực bảo đảm, thúc đẩy quyền con người trên thế giới trong đó có Việt Nam.

Nhận diện thách thức, thúc đẩy các giải pháp bảo đảm quyền con người -0
Quang cảnh hội nghị.

Thời gian tới là giai đoạn giữa nhiệm kỳ 2023 - 2025 thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia sâu hơn trong công tác thúc đẩy đối thoại, hợp tác về nhân quyền, thúc đẩy các cam kết để tái ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026 -  2028. Các thế lực thù địch sẽ tăng cường tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam đàn áp nhân quyền nhất là trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo, an ninh công nhân, đặc biệt tại các diễn đàn quốc tế nhằm hạ uy tín, hình ảnh Việt Nam, phá hoại nỗ lực khẳng định vị thế của ta trên trường quốc tế. Vì vậy, công tác bảo đảm quyền con người và đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động chống phá là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài và cần sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó Ban Chỉ đạo về Nhân quyền các địa phương đóng vai trò hết sức quan trọng.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Đầu Thanh Tùng khẳng định, hội nghị tập huấn nhân quyền là diễn đàn để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn và cùng nhau tìm các các giải pháp giải quyết những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc, góp phần đẩy mạnh công tác nhân quyền cấp cơ sở, đưa công tác này ngày càng phát huy hiệu quả thực chất ở từng địa phương trong thời gian tới; giúp cán bộ làm công tác quản lý, tham mưu và thực thi bảo đảm quyền con người thực hiện tốt hơn nhiệm vụ và công tác chuyên môn, đặc biệt trongxây dựng các chủ trương, biện pháp khắc phục tạo sự chuyển biến rõ nét trong thời gian tới. Tại hội nghị, các báo cáo viên trình bày các chuyên đề: Đẩy mạnh thông tin đối ngoại về quyền con người và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; vấn đề nhân quyền tại các diễn đàn quốc tế và ứng xử của Việt Nam; nhận diện hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch và công tác đấu tranh của ta; cam kết của Việt Nam trong thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Phát biểu bế mạc hội nghị, Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỷ, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền đề nghị Ban Chỉ đạo Nhân quyền địa phương cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm: tiếp tục tham mưu xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, giảm nghèo, bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, chính sách lao động, việc làm; ưu tiên chính sách với nhóm dễ bị tổn thương; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,quyền cho người dân tộc thiểu số. chủ động vô hiệu hóa hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, nhất là hoạt động móc nối trong - ngoài, chỉ đạo chống phá Việt Nam vào các thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng; nắm chắc tình hình, xử lý triệt để các vấn đềliên quan tôn giáo, dân tộc, khiếu kiện, an ninh công nhânkhông để tạo thành điểm nóng bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Đẩy mạnh kết nối, tiếp xúc, làm việc với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài nhằm tăng cường thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Đề nghị các sở, ban ngành nâng cao hơn nữa trách nhiệm trong tổ chức triển khai thực hiện công tác nhân quyền trên địa bàn tỉnh, tham mưu kịp thời, có hiệu quả các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa công tác bảo đảmquyền con người ở cấp cơ sở.

Chiêu trò dùng mạng xã hội để “lái” dư luận sau phiên tòa

 Sau phiên tòa xét xử cặp vợ chồng lừa đảo, chiếm đoạt tài sản với tổng số tiền hơn 70 tỷ đồng ở Hà Tĩnh, nhiều đối tượng là người thân quen của bị hại đã sử dụng các trang mạng xã hội để đăng tải các thông tin sai sự thật, cố tình đánh tráo bản chất, vừa là hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, cá nhân, vừa tiềm ẩn nguy cơ gây mất trật tự xã hội tại địa phương.

Hai vợ chồng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng

Vừa qua, TAND tỉnh Hà Tĩnh đưa phiên tòa sơ thẩm hình sự ra xét xử công khai đối với hai vợ chồng bị cáo Mai Chí Phương (SN 1988) và Võ Thị Thành (SN 1990), cùng trú thôn Bắc Thượng, xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng số tiền mà các bị cáo này chiếm đoạt của các bị hại là hơn 70 tỷ đồng.

Chiêu trò dùng mạng xã hội để “lái” dư luận sau phiên tòa -0
Vợ chồng Mai Chí Phương và Võ Thị Thành cùng lãnh án tù chung thân.

Theo bản cáo trạng, vào khoảng giữa năm 2020, Mai Chí Phương cùng vợ là Võ Thị Thành vay tiền của một số cá nhân trên địa bàn để đầu tư kinh doanh bất động sản. Sau đó, do hoạt động kinh doanh bất động sản bị chững lại, cộng với việc Phương còn chơi tiền điện tử trên mạng Internet dẫn đến cả hai vợ chồng mất khả năng tài chính. Để có tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân, hai vợ chồng đã đưa ra các thông tin gian dối để lừa vay tiền đảo khế ngân hàng, góp vốn đầu tư mua bán đất và các dự án bất động sản để kiếm lời; lừa xin giao đất ở không qua hình thức đấu giá; thuê, mượn xe ôtô của người khác, sau đó đưa đi cầm cố vay tiền và sử dụng bìa đỏ giả để vay mượn tiền, chung vốn đầu tư, mua bán đất nhằm chiếm đoạt tiền của nhiều người trên địa bàn Hà Tĩnh.

Bằng các thủ đoạn gian dối nêu trên, từ đầu năm 2021 đến cuối năm 2022, Mai Chí Phương và Võ Thị Thành đã lừa đảo chiếm đoạt tiền của 20 bị hại với tổng số tiền hơn 70 tỷ đồng. Quá trình đó, hai vợ chồng còn đặt mua 4 bìa đỏ giả để lừa góp vốn, lừa mượn 3 xe ôtô để cầm cố tài sản chiếm đoạt gần 10 tỷ đồng. Từ ngày 12/8 đến 13/9, TAND tỉnh Hà Tĩnh đã mở phiên tòa sơ thẩm hình sự, đưa vụ án ra xét xử. Mặc dù tại phần thẩm vấn công khai, HĐXX đã làm rõ hành vi phạm tội nhưng cả hai bị cáo vẫn ngoan cố đưa ra nhiều lý lẽ để biện minh cho hành vi phạm tội của mình.

Tuy nhiên với những bằng chứng thuyết phục, trên tinh thần làm việc công tâm, khách quan, toàn diện và đúng trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, để có biện pháp răn đe trước những hành vi vi phạm pháp luật có toan tính, TAND tỉnh Hà Tĩnh đã tuyên hai vợ chồng Mai Chí Phương và Võ Thị Thành cùng chịu mức án tù chung thân.

Dùng mạng xã hội để công kích cơ quan thực thi pháp luật

Thực tế cho thấy, đây là vụ án phức tạp, có tính chất nghiêm trọng nên cơ quan điều tra cũng như tòa án, viện kiểm sát các cấp đã làm việc rất thận trọng, chặt chẽ đối với các hành vi khác liên quan, CQĐT đã bóc tách các tình tiết để tách riêng thành một vụ án độc lập. Riêng về hành vi của hai vợ chồng Mai Chí Phương và Võ Thị Thành với những tài liệu, chứng cứ được CQĐT thu thập được, HĐXX đã xem xét, đánh giá và công bố tại phiên tòa một cách công minh, đúng pháp luật. Các bằng chứng, tội trạng đã được tranh tụng, tranh luận rất công khai, minh bạch tại tòa và nhận được nhiều ý kiến đồng tình của những nạn nhân về một bản án nghiêm khắc, đúng người, đúng tội.

Tuy nhiên, sau phiên toà, một số đối tượng nghi là người thân quen của bị cáo đã sử dụng mạng xã hội, liên tục đăng nhiều bài viết với nội dung xuyên tạc, sai sự thật với mục đích “chèo lái” dư luận, cũng như các bị hại chĩa mũi công kích vào cơ quan công quyền như Công an, Tòa án và Viện kiểm sát. Trong đó, có những nội dung đã được xét xử công khai, tranh tụng, tranh luận đầy đủ tại tòa nhưng các đối tượng vẫn cố tình bóp méo sự thật khi đăng tải trên mạng xã hội.

Cụ thể, với chiêu trò lập nhiều tài khoản cá nhân và Fanpage Facebook, những đối tượng này đã đăng tải những bài viết sai sự thật nhằm đánh tráo, thay đổi bản chất bản án. Đó là các Fanpage Facebook giả mạo các cơ quan báo chí như “Đọc báo cùng bạn +”; “Pháp Luật Online”... để liên tiếp đăng các bài viết vừa là hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, cá nhân, vừa tiềm ẩn nguy cơ gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Theo đó, từ ngày 16/9, các Fanpage này đều đồng loạt đăng bài viết với tiêu đề “Hà Tĩnh xét xử công khai nhưng lại không cho dân vào xem, câu hỏi đặt ra là phiên này đã khách quan chưa?”. Hay một Facebook khác có tên là “Ailerl Lee” cũng có bình luận: “Cơ quan Công an và Viện kiểm sát kết luận là bị cáo tiêu xài, trả lãi và chơi tiền ảo, nhưng người vợ trình lên chứng cứ cho thấy rõ là chỉ dùng tiền đó của bị hại để trả nặng lãi và chuộc đất về trả cho bị hại. Công an và Viện kiểm sát thì rất thiếu năng lực, bỏ lọt tội phạm rành rành”.

Facebook khác có tên “Nguyễn Thị Mão” cũng lên mạng quy kết rằng, “kết luận điều tra không đúng, bỏ sót rất nhiều tình tiết quan trọng cũng như bỏ qua nhiều đối tượng có liên quan trong vụ án này. Nhờ anh em và mọi người chia sẻ để trả lại công bằng cho những người dân, đừng để các đối tượng lạm quyền bao che cho nhiều tội phạm”. Một Facebook khác có tên là “Linh Linh” cũng viết: “Một vụ án lớn mà Công an, Viện kiểm sát và Tòa án khiến các bị hại và hàng nghìn người dân hoang mang không còn tin tưởng vào pháp luật nữa.Toà án xử công khai mà lại lén lút như ăn trộm, để nhằm bao che cho những đối tượng xấu”.

Những bài viết nói trên đều xuyên tạc và bóp méo sự thật ngoài nhằm mục đích hướng dư luận công kích vào các cơ quan công quyền mà còn nhằm để lừa dối các bị hại về nguồn tiền mà hai vợ chồng bị cáo Phương, Thành đã lừa đảo chiếm đoạt, từ đó chối bỏ trách nhiệm bồi hoàn số tiền đã chiếm đoạt cho các nạn nhân. Với những luận điệu có dấu hiệu vu khống, xúc phạm danh dự này, cơ quan chức năng tỉnh Hà Tĩnh khuyến cáo người dân tuyệt đối không nhẹ dạ cả tin để bị cuốn vào những câu chuyện không đúng sự thật do các đối tượng này dựng lên.

Hiện, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh đang tiếp tục vào cuộc thu thập các tài liệu, chứng cứ để xử lý nghiêm minh các đối tượng này theo quy định của pháp luật.

Thiên Thảo

Cảnh giác trước thủ đoạn xuyên tạc, bôi lem chính sách đặc xá

 Đặc xá là chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Với chính sách đặc xá, Nhà nước động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để được hưởng sự khoan hồng. Tuy nhiên, với mục đích chống phá, các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc công tác đặc xá.

Theo Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2024, Nhà nước ta sẽ tiến hành đặc xá tha tù trước thời hạn cho các phạm nhân có đủ điều kiện vào dịp kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2024) và 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2024). Đến nay, công tác đặc xá đang được các cơ quan chức năng tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với mục đích chống phá, các thế lực thù địch đã tung ra vô số thông tin sai trái, độc hại xung quanh công tác này.

Lợi dụng quá trình xét đặc xá, các đối tượng xấu đã lèo lái dư luận, móc nối với hoạt động phạm tội của các đối tượng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để công kích Đảng, Nhà nước ta. Chúng rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam phân biệt đối xử với các “tù nhân lương tâm” trong đặc xá”; “cứ nộp tiền sẽ được đặc xá”; “công lý không giành cho dân nghèo”; “đặc xá chỉ là trò mị dân”; “Nhà nước diễn kịch trong xét đặc xá cho phạm nhân”… Từ một chính sách nhân văn, nhân đạo, qua lăng kính nhìn nhận của các đối tượng khoác áo dân chủ, nhân quyền, công tác đặc xá đã bị bóp méo, bôi lem, tạo ra gam màu tiêu cực, bôi xấu Đảng, Nhà nước, chế độ.

Trang facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân đưa ra nhiều thông tin tiêu cực, cho rằng đặc xá chỉ là “diễn kịch”, “trò hề”, thậm chí xuyên tạc Nhà nước Việt Nam “cưỡng bức đặc xá”. Các đối tượng dựa vào những thông tin sai trái trên mạng xã hội rồi mặc nhiên quy kết, Nhà nước Việt Nam áp dụng hình thức “cưỡng bức đặc xá”! Các đối tượng quy kết những phạm nhân phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, bị kết án tù về các tội như “tội thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”, “tội lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của  tổ chức, cá nhân”… để gán ghép thành “tù nhân chính trị”, “tù nhân lương tâm”, từ đó đưa ra yêu sách đòi Nhà nước phải đặc xá, tha tù “vô điều kiện” cho các phạm nhân này.

Đặc xá là một trong những chế định pháp lý quan trọng, được quy định trong Hiến pháp và đồng thời được thể chế hoá tại Luật Đặc xá cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong 15 năm qua, với 9 đợt đặc xá, Chủ tịch nước đã quyết định tha tù trước thời hạn cho hơn 92.000 phạm nhân có kết quả học tập, cải tạo, lao động tốt. Nhiều trường hợp sau khi được đặc xá trở về với gia đình đã tích cực tham gia các hoạt động lao động, sản xuất, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội; trở thành hạt nhân tích cực tham gia các phong trào bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở.

Sau khi Chủ tịch nước ký ban hành Quyết định về đặc xá năm 2024, Văn phòng Chủ tịch nước đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao tổ chức họp báo công bố công khai quyết định này. Để bảo đảm công tác đặc xá được thực hiện dân chủ, công bằng, khách quan, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Ngày 2/8/2024, thay mặt Hội đồng tư vấn đặc xá, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký ban hành Hướng dẫn số 88/HD-HĐTVĐX về việc triển khai Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2024. Tiếp đó, ngày 7/8/2024, Chính phủ ban hành Công điện số 76/CÐ-TTg về việc triển khai thực hiện công tác đặc xá năm 2024. Đây là những căn cứ quan trọng để công tác đặc xá được thực hiện hiệu quả. Cùng với đó, để tăng cường tính công khai, minh bạch trong xét đặc xá, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí đưa tin đầy đủ các nội dung liên quan đến công tác đặc xá để người dân và các can phạm hiểu, tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân và người nhà cũng như nâng cao hiệu quả công tác giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan chức năng trong thực thi nhiệm vụ.

Đến nay, công tác đặc xá được các cơ quan chức năng thực hiện theo quy trình chặt chẽ, bảo đảm đúng đối tượng, đúng thủ tục, điều kiện. Khi xét đặc xá, tất cả phạm nhân được xem xét một cách bình đẳng, không phân biệt quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội trước khi bị kết án. Nguyên tắc cao nhất khi xét đặc xá là thượng tôn pháp luật. Pháp luật nước ta nghiêm cấm các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị đặc xá cho người không đủ điều kiện; không đề nghị đặc xá cho người không đủ điều kiện; không cản trở người bị kết án phạt tù thực hiện quyền được đề nghị đặc xá; nghiêm cấm việc đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ, nhũng nhiễu trong việc thực hiện đặc xá…

Đặc xá là chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước đối với phạm nhân; thể hiện sự ghi nhận kết quả cải tạo, chấp hành tốt các nội quy, quy định của phạm nhân; mở ra cơ hội mới đối với những người đã từng lầm lỡ, lạc đường nay đã ăn năn, hối cải. Vì vậy, để được hưởng đặc xá, các phạm nhân phải đáp ứng nhiều điều kiện về ý thức cải tạo, chấp hành án; thời gian chấp hành án phạt tù; việc chấp hành hình phạt bổ sung, đóng án phí; việc chấp hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại… Đồng thời, pháp luật cũng quy định rõ các trường hợp không được đặc xá, đó là các phạm nhân bị kết án phạt tù về tội phản bội Tổ quốc; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; tội phá rối an ninh… Đây là cơ sở để sàng lọc, bảo đảm những người được hưởng đặc xá phải thực xứng đáng, tránh trường hợp sau khi được hưởng khoan hồng lại tiếp tục thực hiện các hành vi vi phạm, gây hại cho Tổ quốc.

Việc các đối tượng xấu bôi nhọ công tác đặc xá với chiêu bài “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị” là một thủ đoạn hết sức đê hèn. Phải khẳng định rõ, ở Việt Nam không tồn tại cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Việc kết án đối với bất kỳ ai đều trải qua một quá trình tố tụng hình sự nghiêm minh, theo đúng quy định của pháp luật. Thực chất, những kẻ được giới “dân chủ” xếp vào nhóm “tù nhân lương tâm” hầu hết là các đối tượng bị kết án thuộc nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Đáng chú ý, ngay cả trong quá trình chấp hành án phạt tù, các đối tượng này vẫn không hề hối cải, tiếp tục ngoan cố, không nhìn nhận được lỗi lầm của bản thân, không từ bỏ ý đồ chống phá đất nước, liên tục thực hiện các hành vi chống đối, bất hợp tác với cán bộ quản giáo. Thậm chí, có kẻ còn giở trò tạo cớ cho các thế lực bên ngoài thực hiện hành vi chống phá, gây sức ép, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước. Theo quy định tại Hiến pháp thì “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”. Do đó, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều không bao giờ chấp nhận những kẻ phá hoại đất nước.

Đặc xá là chính sách thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta, là minh chứng khẳng định Việt Nam luôn ưu tiên bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Không chỉ dừng lại ở việc tha tù trước thời hạn, Đảng, Nhà nước còn thực hiện đồng bộ các giải pháp để những phạm nhân sau khi được đặc xá có điều kiện thuận lợi trong tái hòa nhập cộng đồng, có việc làm ổn định, trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa tái phạm tội, vi phạm pháp luật. Để bảo đảm công tác đặc xá năm 2024 mang lại hiệu quả cao nhất, cùng với việc rà soát, lập danh sách đề nghị đặc xá, các cơ quan chức năng cũng đẩy mạnh tuyên truyền các quy định về đặc xá, đặc biệt chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân trong việc xóa bỏ thái độ kỳ thị đối với người được đặc xá. Đây là những minh chứng rõ ràng về tính nhân văn, khách quan, công minh trong xét đặc xá, phản bác các luận điệu xuyên tạc công tác đặc xá mà các thế lực thù địch, phản động đang cố tình bôi nhọ, xuyên tạc.

Bùi Quang – Anh Tú

Nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các nhà trường Quân đội hiện nay

 

Cán bộ là “gốc” của mọi công việc, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, trước bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ các nhà trường Quân đội nói riêng phải tích cực đóng góp cho quá trình đó. Vì vậy, nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ này là nội dung quan trọng, vừa mang tính cấp thiết, vừa cơ bản, lâu dài.

Từ thực tiễn cho thấy, môi trường quốc tế luôn có sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh, cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức. Để làm việc trong môi trường quốc tế, đòi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, trong các nhà trường Quân đội nói riêng không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, mà cần có đủ năng lực, tư duy, thậm chí phải có năng lực, tư duy vượt trội trên các mặt, nhất là năng lực chuyên môn, trình độ học vấn, lý luận chính trị, vốn văn hóa, sự trải nghiệm, v.v.

Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, những năm qua, các nhà trường Quân đội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác này, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học,... đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ trong môi trường quốc tế được chú trọng với nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt kết quả toàn diện. Trên thực tế, nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, giảng viên về hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng và sự cần thiết phải nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực; công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được quan tâm; cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư hiện đại, phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ và tiến trình hiện đại hóa Quân đội.

Trước xu thế hội nhập quốc tế nói chung, trong lĩnh vực quốc phòng nói riêng diễn ra sâu rộng, Bộ Quốc phòng đã cử nhiều cán bộ, trong đó có cán bộ các nhà trường Quân đội tham gia hoạt động hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng trên các lĩnh vực, như: giáo dục và đào tạo, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, giao lưu sĩ quan trẻ với quân đội các nước, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, tuần tra chung, trao đổi đoàn,… qua đó tăng cường giao lưu, học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của quân đội các nước. Đáng chú ý là một số cán bộ các nhà trường Quân đội đã phát huy tính năng động, sáng tạo khi hoạt động ở môi trường quốc tế, nhất là trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học,... thực sự trở thành những “đại sứ” của đất nước, góp phần nâng cao vị thế, uy tín, hình ảnh của đất nước, Quân đội trên trường quốc tế.

Tuy vậy, năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các nhà trường Quân đội vẫn còn hạn chế, bất cập. Một số cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế nhưng thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ tin học, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế. Cá biệt, có đồng chí được đào tạo cơ bản ở nước ngoài nhưng thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện, biểu hiện nhận thức chưa thật đầy đủ,... trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế, đối ngoại về quốc phòng đang đặt ra cấp thiết. Điều đó đòi hỏi các nhà trường Quân đội cần tập trung nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho đội ngũ cán bộ, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với tinh thần đó, chúng tôi đề xuất một số nội dung, giải pháp chủ yếu về vấn đề trên để cùng nghiên cứu, trao đổi.

Một là, thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các nhà trường Quân đội khi làm việc trong môi trường quốc tế. Để thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi cơ quan chủ quản và mỗi nhà trường cần đẩy mạnh công tác giáo dục, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trọng tâm là các nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ, về công tác giáo dục và đào tạo, về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng1. Qua đó, làm cho cấp ủy, chỉ huy các cấp và đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục,... hiểu rõ sự cần thiết, ý nghĩa, tầm quan trọng của nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm trong học tập, nghiên cứu, hình thành đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tiến trình hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Nội dung giáo dục phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào quan điểm, đường lối của Đảng, công tác đối ngoại quốc phòng, hợp tác về giáo dục và đào tạo; yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là yêu cầu cao khi làm việc trong môi trường quốc tế; những chuẩn mực về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, hiểu biết luật pháp quốc tế, năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học, v.v. Hình thức, biện pháp quán triệt, giáo dục cần phong phú, đa dạng, sát với từng đối tượng, thông qua sinh hoạt, tọa đàm, hội nghị, hội thảo khoa học, tập huấn, học tập chuyên đề, giao lưu sĩ quan trẻ, v.v.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, hướng dẫn của cơ quan chức năng. Trong môi trường quốc tế mọi hoạt động, tương tác thường gắn với một hoặc nhiều đối tượng đến từ các quốc gia khác nhau, có sự khác biệt với chúng ta về văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, tri thức quân sự,… mọi biểu hiện non kém về phẩm chất, năng lực hoặc tri thức quân sự, kiến thức xã hội,… đều có thể dẫn tới những hệ lụy xấu. Vì vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, hướng dẫn cơ quan chức năng đối với nội dung quan trọng này theo hướng tất cả các nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế đều phải do cấp ủy các cấp quyết định theo đúng thẩm quyền, mọi cá nhân và tổ chức trong đơn vị phải triệt để chấp hành. Để làm được điều đó, các nhà trường cần xác định khâu đột phá với nội dung, giải pháp toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; chỉ rõ mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể, bước đi phù hợp, biện pháp quyết liệt, đồng bộ, chú trọng khắc phục dứt điểm khâu yếu, mặt yếu. Bên cạnh đó, cấp ủy các cấp cần phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, nhất là những cán bộ được lựa chọn, đào tạo để tham gia các hoạt động đối ngoại quốc phòng, đi đào tạo ở nước ngoài, tham gia giảng dạy học viên quốc tế, v.v. Quá trình thực hiện, cơ quan chức năng phải phát huy vai trò hướng dẫn, xây dựng kế hoạch cụ thể, khoa học, triển khai kịp thời, đúng lộ trình đã xác định, đạt hiệu quả cao. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện, giải quyết những khó khăn, vướng mắc; ngăn ngừa, đấu tranh khắc phục biểu hiện buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, dẫn đến hiệu quả không cao.

Ba là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ ở các nhà trường Quân đội. Làm việc trong môi trường quốc tế là vấn đề không mới nhưng sẽ gặp không ít khó khăn, phức tạp với yêu cầu và sự cẩn trọng rất cao, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải được chuẩn bị chu đáo cả về trình độ, năng lực và phương pháp. Vì vậy, các nhà trường cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cá nhân; từ đó, nghiên cứu, xác định nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, bảo đảm tính khả thi, cơ bản, hệ thống, toàn diện, thiết thực, tích hợp, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, kiến thức quân sự chuyên sâu, để hình thành đội ngũ cán bộ có tư duy, tầm nhìn chiến lược, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, tự tin trong giao tiếp; có kiến thức sâu rộng về pháp luật, thông lệ và đời sống chính trị quốc tế, nhất là về mối quan hệ giữa các quốc gia; am hiểu văn hóa, xã hội, lịch sử, phong tục,… của các nước; có kỹ năng giao tiếp, ứng xử tinh tế, cẩn trọng, đúng nghi thức ngoại giao; có năng lực ngoại ngữ, tin học vượt trội, có tác phong làm việc khoa học, chuyên nghiệp, v.v. Tích cực đổi mới hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại, chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo chính quy với bồi dưỡng tại chức, lấy đào tạo cơ bản, dài hạn theo chương trình hiện đại, tiên tiến làm chủ yếu; cấp trên bồi dưỡng cấp dưới, người đi trước bồi dưỡng người đi sau, v.v.

Để biến quá trình “đào tạo” thành “tự đào tạo”, đội ngũ cán bộ các nhà trường Quân đội phải xác định rõ trách nhiệm bản thân, tự giác học tập, nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo, đáp ứng tốt yêu cầu khi làm việc trong môi trường quốc tế. Từng người ý thức rõ vị trí, yêu cầu, nắm chắc chức trách, nhiệm vụ; thấy rõ mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ với trình độ của bản thân để không ngừng nâng cao năng lực toàn diện, nhất là “kỹ năng mềm” khi làm việc trong môi trường quốc tế. Thường xuyên tích lũy và đúc kết kinh nghiệm trong công việc, nâng cao năng lực tư duy và khả năng nắm bắt, tiếp cận tri thức mới và kỹ năng làm việc, đặc biệt là khả năng xử lý, ứng phó với các tình huống “nhạy cảm” và những vấn đề ở tầm quốc tế, v.v.

Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ các nhà trường Quân đội tham gia hoạt động trong môi trường quốc tế. Hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, các nhà trường Quân đội cần tăng cường hoạt động giao lưu, trao đổi, phối hợp, liên kết với các cơ sở giáo dục và đào tạo trong và ngoài nước, nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động nghiên cứu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác đào tạo với các nước có nền khoa học, kỹ thuật, công nghệ quân sự tiên tiến, hiện đại. Tăng cường đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất, xây dựng trung tâm ngoại ngữ, tin học có đủ năng lực bồi dưỡng, đánh giá năng lực theo chuẩn quốc gia và quốc tế để tiến tới đầu tư xây dựng một số nhà trường theo mô hình trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ ngang tầm quốc gia, khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ưu tiên giao các đề tài, nhiệm vụ khoa học, khuyến khích đội ngũ cán bộ có nhiều công bố khoa học quốc tế, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

Phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”(1), phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Và trong Di chúc, trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(2). Những chỉ dẫn của Người là định hướng quan trọng để phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

1- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin và trách nhiệm của Người với Tổ quốc, với Nhân dân và với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa của Việt Nam từ nhiều khía cạnh. Đây là văn kiện không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, mà còn thể hiện tầm nhìn và mục tiêu chiến lược của Người về phát triển của đất nước, cung cấp định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, giúp xác định các ưu tiên và phương hướng cụ thể.

Đây là một biểu tượng của lòng trung thành và niềm tin vững chắc của Người vào lý tưởng cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta. Nó củng cố lòng yêu nước và động viên mọi người dân Việt Nam, từ trẻ đến già, tiếp tục nỗ lực và hy vọng trong sự phát triển kinh tế và văn hóa của đất nước.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thúc đẩy sự đoàn kết và hợp tác giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam, khuyến khích tinh thần đồng lòng và sự hiểu biết về mục tiêu và lợi ích chung trong sự phát triển kinh tế và văn hóa.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc, từ lịch sử đấu tranh giành độc lập đến xây dựng và bảo vệ nền kinh tế - văn hóa dân tộc, là một bài học lịch sử quý báu, giúp hình thành và tăng cường nhận thức về bản sắc và vai trò của dân tộc Việt Nam trong sự phát triển của thế giới.

Có thể nói, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn động viên và hướng dẫn cho sự phát triển kinh tế và văn hóa của Việt Nam trong tương lai, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, và sự phát triển bền vững của đất nước. Dự Lễ kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2024) và trao danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tặng Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17-8-2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những vấn đề cốt yếu về xây dựng Đảng, quan hệ giữa Đảng với Nhân dân và định hướng toàn diện cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước sau chiến tranh”(3).

2- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cống hiến trọn đời cho độc lập dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, mà còn góp sức vào sự nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Người để lại cho chúng ta một Di sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, tư tưởng về phát triển kinh tế, làm cơ sở để chăm lo đời sống nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường Đổi mới.

Trong Di chúc, ở phần nói về Nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Trong các trước tác của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4). Vì vậy, Đảng lo cho dân trước hết là nhu cầu thiết yếu, như ăn, mặc, ở sau đó đến nhu cầu tinh thần. Muốn vậy, phải có chủ trương, đường lối phát triển kinh tế phù hợp cho từng giai đoạn phát triển. Người nói: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân”(5). Phát triển sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân, đó là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị của mỗi chính sách, biện pháp kinh tế của chúng ta.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mỗi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm vận dụng, cụ thể tư tưởng của Người, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều chủ trương, chính sách chống “giặc đói”, chống “giặc dốt”, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển văn hóa là để thực hiện một cách thiết thực việc chăm lo đời sống cho nhân dân.

Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng nhiều đường lối và chính sách phát triển kinh tế nhằm vừa tăng cường sức mạnh quân sự và chính trị, vừa cải thiện đời sống của nhân dân.

Sau 15 năm triển khai đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đại hội Đảng lần thứ III, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế ở miền Bắc đã được tăng cường. Tổng giá trị tài sản cố định năm 1975 của các ngành sản xuất vật chất đã tăng gấp 5,1 lần so với năm 1960 (trong đó, công nghiệp gấp 4,8 lần; xây dựng gấp 16 lần; nông, lâm nghiệp gấp 7,2 lần; thương nghiệp gấp 6,5 lần; giao thông, bưu điện gấp 2,8 lần). Tổng sản phẩm xã hội năm 1975 gấp trên 2,3 lần so với năm 1960, thu nhập quốc dân gấp gần 1,9 lần. Năm 1975 quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người tăng 70,8% so với năm 1960. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 76,8%(6).

Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện một số đường lối và chính sách phát triển kinh tế nhằm tái thiết và phát triển đất nước. Trong giai đoạn này, Đảng chủ trương tập trung vào công cuộc tái thiết quốc gia sau chiến tranh, khắc phục hậu quả của chiến tranh và xây dựng lại kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.

Tuy nhiên, các khuyết tật của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã bộc lộ. Thêm vào đó, đất nước lại tiếp tục đương đầu với khó khăn, thử thách mới, như chiến tranh, xung đột tại biên giới Tây - Nam, biên giới phía Bắc, bị bao vây, cấm vận...

Trước vô vàn khó khăn, thử thách, trong khi chờ Nhà nước đổi mới cơ chế, chính sách, các địa phương và các xí nghiệp đã nỗ lực tìm hướng đi mới mang tính đột phá để vượt ra khỏi ách tắc của cơ chế cũ. Hướng đi mới đó nhằm giải quyết ách tắc do cơ chế cũ gây ra và đã tạo ra  kết quả tích cực trong phát triển kinh tế. Đây là cơ sở thực tiễn để Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành quan điểm có tính chất đột phá tại Hội nghị Trung ương 6 khóa IV năm 1979 và sau đó là đổi mới, cải cách toàn diện về đường lối phát triển kinh tế tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 cùng hàng loạt biện pháp sau đó. Nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế ở Việt Nam được Đại hội VI nhất trí thông qua và đưa vào Nghị quyết là: thực hành dân chủ hóa đời sống kinh tế; chuyển cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa; thừa nhận nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần; chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng nền kinh tế mở, đa phương hóa quan hệ và đa dạng hóa hình thức. Đại hội VI cũng đã đề ra ba chương trình kinh tế lớn là: Chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm; Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu.

Đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, được khởi xướng từ năm 1986 tại Đại hội VI của Đảng, đã làm cho nền kinh tế được mở cửa với thế giới, đồng thời tạo điều kiện để từng bước cải cách cơ chế, chính sách về kinh tế. Quá trình này đã thúc đẩy sự đa dạng hóa kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế.

3- Thực hiện ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc, chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng luôn hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Những kết quả này được thể hiện đặc biệt rõ sau gần 40 năm đổi mới. Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 430 tỷ USD năm 2023, đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm(7).

Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. 

Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân được chú trọng... Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Luôn gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, người có hoàn cảnh khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2023 giảm còn 2,93% so với hơn 58% năm 1993. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023. Các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện qua chỉ số phát triển con người (HDI) có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Năm 2022, chỉ số HDI của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển và quy mô GDP. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng(8) Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc.

Có thể nói, trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nỗ lực của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã vươn lên bảo đảm đủ lương thực, không những thế còn đứng vào nhóm nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới; được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao trong việc đạt được nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ, đặc biệt là mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Bên cạnh coi trọng tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn nhấn mạnh sự phát triển bền vững, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, thực thi chính sách xã hội, chăm lo sự phát triển con người. Ở Việt Nam, hầu như không gia đình nào là không có sự hy sinh, mất mát trong chiến tranh. Thực hiện ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng, thực hiện chính sách với người có công và thân nhân của người có công được Đảng, Nhà nước và nhân dân hết sức quan tâm. Nhiều việc làm, như phong tặng danh hiệu Nhà nước “Mẹ Việt Nam anh hùng”, xây dựng, tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ, tìm kiếm quy tập mộ liệt sĩ, đẩy mạnh phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”..., trong những năm qua là sự tri ân của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với người đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho sự trường tồn, phát triển của dân tộc.

Những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực chính là minh chứng sống động, thuyết phục cho nhận định của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(9).

4- Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đưa đến cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thế giới đang đứng trước nhiều bất ổn khó lường. Xuất hiện các nguy cơ an ninh phi truyền thống và diễn biến ngày càng gay gắt. Gia tăng các xung đột, biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn so với dự báo cũng tác động không nhỏ đến tình trạng nước biển dâng cao, ngập mặn, hạn hán, lũ lụt, sóng thần... đối với các quốc gia. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, xu thế chung là khoa học - công nghệ trên thế giới sẽ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của các quốc gia. Các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học - công nghệ, đặc biệt là phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số. Trong nước, mặc dù tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn, đầu tư khu vực tư nhân, sức mua phục hồi chậm, áp lực cạnh tranh trong nước và nước ngoài, kéo theo áp lực về tín dụng, nợ xấu... Chất lượng tăng trưởng chưa có nhiều cải thiện, tốc độ tăng năng suất thấp, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, nhất là nhân lực chất lượng cao. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệnh mức sống giữa vùng, miền, nhóm đối tượng còn lớn,...

Để thực hiện tốt ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc, Đảng cần tiếp tục phát huy dân chủ trong toàn xã hội, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy trí tuệ của toàn dân trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII, từ thực tiễn 35 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đã đúc kết 5 bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học thứ hai là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(10). Trong bài viết với tiêu đề: “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh: “Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau”(11).

Với tinh thần đó, trong thời gian tới tập trung thực hiện tốt một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm như sau:

Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân. Xác định chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân luôn là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm và phải thực hiện với quyết tâm cao. Hệ thống chính sách, pháp luật cần tiếp tục mở rộng hơn quyền hưởng và mức hưởng các chế độ ưu đãi xã hội, an sinh xã hội cho người dân. Dành nguồn lực thích đáng cho bảo đảm an sinh xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của người có công với cách mạng và thân nhân của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện pháp luật, chính sách, nhất là chính sách, pháp luật về ưu đãi người có công, chính sách việc làm và bảo đảm thu nhập tối thiểu, chính sách giảm nghèo, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt...

Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Gắn chính sách xã hội với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực tăng trưởng kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội. Không ngừng đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, tài chính làm bệ đỡ cho hệ thống an sinh xã hội.

Ba là, phát huy vai trò của nhân dân trong quá trình phát triển nền kinh tế. Nhân dân là chủ thể, là nhân tố quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Cần tạo mọi điều kiện để người dân chủ động phát triển kinh tế từ nông thôn đến thành thị, thống nhất một lòng vì quốc gia thịnh vượng.

Bốn là, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi; có cơ chế, chính sách đủ mạnh, đồng bộ, khả thi, mang tính đột phá để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư có chất lượng, huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực; vận hành đồng bộ, hiệu quả các loại thị trường theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Năm là, đẩy mạnh việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế phải được thực hiện toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực với sự chủ động, sáng tạo. Cần tiếp tục bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra, diễn biến tình hình thế giới và khu vực để có dự báo sát ở tầm chiến lược, từ đó có bước đi và hành động phù hợp./.