Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG TA

Công tác cán bộ được Đảng xác định là khâu then chốt, là vấn đề mà nhân dân, dư luận quốc tế hết sức quan tâm. Đặc biệt, với những vị trí quan trọng trong các cơ quan Đảng, chính quyền, mọi sự thay đổi trong công tác nhân sự đều nhanh chóng nhận được sự chú ý, theo dõi của cộng đồng. Tuy nhiên, khi Trung ương xem xét, xử lý kỷ luật một số tập thể và cá nhân vi phạm, thì những luận điệu xuyên tạc lại trơ trẽn xuất hiện nhằm chống phá, cố tình gây hiểu sai về công tác cán bộ của Đảng, gây nên tâm lý hoài nghi trong một bộ phận nhân dân. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh công tác cán bộ là then chốt của then chốt. Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đảng tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đồng thời, kiên quyết, kiên trì rà soát, sàng lọc đưa những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng và bộ máy chính trị các cấp. Chính bởi vậy, liên tiếp trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã xem xét nguyện vọng và cho thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác, nghỉ hưu đối với một số cán bộ cấp cao. Tuy nhiên, lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử xấu lại ra sức tuyên truyền xuyên tạc bản chất vấn đề hòng chia rẽ đoàn kết nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Hơn chục năm thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tại tất cả các địa phương trên cả nước, Ban chỉ đạo các tỉnh, thành phố được kiện toàn và hoạt động hiệu quả. Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực ngày càng bài bản, quyết liệt và đi vào thực chất. Những khoảng tối trong quá khứ được phanh phui, sự thật được bóc trần, và hàng loạt cán bộ sai phạm ở các cấp bị phát hiện, xử lý. Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền trở thành nguyên tắc bất di bất dịch.Nhân dân tin tưởng, khi trách nhiệm nêu gương  của những người đứng đầu đã được đề cao. Không ít đồng chí lãnh đạo cấp cao, vì nhận thức được vai trò, trách nhiệm chính trị của mình, đã dũng cảm thừa nhận khuyết điểm và xin thôi giữ chức vụ và nghỉ công tác. Tuy nhiên, đây lại nhanh chóng trở thành cái cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá. Các trang thông tin phản động gần như ngày nào cũng công kích, xuyên tạc, đăng tải với tần suất dày đặc những bài viết với luận điệu kích động sự hoài nghi, hoang mang hòng dẫn dắt dư luận theo hướng tiêu cực.

Hệ thống chính trị của chúng ta cốt lõi là cán bộ. Khi các thế lực thù địch công kích vào vấn đề này thì chính là công kích vào nền tảng con người của chế độ xã hội chúng ta. Nguy hiểm hơn, những thông tin suy diễn, lập lờ, thậm chí là vu khống theo thuyết âm mưu của chúng lại được tán phát rất nhanh trên không gian mạng, đánh đúng vào tâm lý tò mò, thích những gì mới mẻ, giật gân của công chúng. Xử lý cán bộ vi phạm như cắt bỏ cành cây sâu mọt, đau nhưng không thể không làm. Công khai xử lý, minh bạch thông tin, Đảng ta quyết liệt nhưng vẫn rất nhân văn. Xử lý vi phạm để làm trong sạch đội ngũ cán bộ, cũng chính là để củng cố sức mạnh nội tại của Đảng, hoàn toàn không có chuyện là đấu đá phe cánh, thanh trừng nội bộ.

Trên thực tế, việc miễn nhiệm, từ chức là điều bình thường trong công tác cán bộ. Điều này đã chúng ta đã thực hiện từ lâu. Sai phạm đến đâu xử lý đến đó, và đảm bảo không có chuyện "hạ cánh an toàn". Việc lựa chọn cán bộ, sử dụng cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước. Nhận diện rõ thủ đoạn xuyên tạc về công tác cán bộ để mỗi người dân đều nêu cao tinh thần cảnh giác, không bị mắc mưu bởi những luận điệu suy diễn, mượn gió bẻ măng của các thế lực thù địch, phản động xuyên tác, chống phá Đảng, nhà nước ta.

Điểm nghẽn về nhà ở xã hội

 Theo Bộ Xây dựng, kết thúc năm 2024, cả nước chỉ hoàn thành 21.000 căn nhà ở xã hội (NƠXH), trong khi đó, kế hoạch đặt ra là 130.000 căn. Như vậy, kết quả thực hiện mới đạt khoảng 16% kế hoạch cả năm.

Sức mạnh văn hóa Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Công an Việt Nam, hằng năm, có hàng nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng; hàng chục nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát, đưa vào bằng nhiều con đường khác nhau. Những điều này đặt ra vấn đề, chúng ta phải có những giải pháp cụ thể nào chống lại hiện tượng “xâm lăng văn hóa” trong chiến lược “diễn biến hòa bình” và “sức mạnh mềm văn hóa” của các cường quốc đang tác động trực diện đến tư tưởng, suy nghĩ của người dân trong nước, đặc biệt là thanh niên Việt Nam hiện nay, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Đại tá, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú, nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho rằng: Nền văn hóa Việt Nam có sức mạnh riêng. Nền văn hóa ấy trải qua hàng nghìn năm đấu tranh, chưa bao giờ khuất phục trước các nước lớn có sức mạnh lấn át về kinh tế hay sức mạnh quân sự. Đặc trưng lớn của văn hóa Việt Nam là sức mạnh tự thân. Vừa chống lại mạnh mẽ, vừa tiếp nhận, tiếp biến có ý thức, khiến cho các cuộc tấn công từ ngoại bang đều thất bại.

Cũng về vấn đề này, PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của một quốc gia, đặc biệt là những quốc gia như Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ trình độ phát triển trung bình đến cao. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là động lực và nguồn lực thúc đẩy sự phát triển bền vững về mọi mặt: Kinh tế, xã hội, khoa học, giáo dục...

Trong quá trình chuyển tiếp này, văn hóa giúp định hình bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, đồng thời tạo ra sự ổn định xã hội và sự đồng thuận trong các chính sách phát triển. Một quốc gia có nền văn hóa vững mạnh sẽ có khả năng vượt qua các thử thách trong quá trình toàn cầu hóa, giữ vững được bản sắc trước những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế và công nghệ.

Bên cạnh đó, văn hóa còn là yếu tố then chốt trong việc xây dựng niềm tin, tinh thần cộng đồng, và động lực làm việc của người dân. Văn hóa không chỉ là yếu tố truyền tải giá trị tinh thần mà còn là công cụ định hướng, quản lý sự thay đổi trong xã hội. Đối với các quốc gia đang phát triển như chúng ta, văn hóa có thể là chìa khóa để xây dựng nền tảng vững chắc, bảo đảm sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa các lĩnh vực và nâng cao đời sống của nhân dân.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn còn nhấn mạnh, để phát triển văn hóa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chiến thắng các thế lực thù địch muốn áp đặt văn hóa, xâm lăng văn hóa, chúng ta cần xây dựng và củng cố nền văn hóa vừa giữ vững được bản sắc truyền thống, vừa thích ứng và phát triển cùng những thay đổi nhanh chóng của thời đại. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, bản sắc văn hóa dân tộc như một ngọn lửa thiêng cần được gìn giữ và trao truyền. Giữa dòng chảy mạnh mẽ của các luồng văn hóa ngoại nhập, bảo vệ bản sắc dân tộc không phải là sự khép kín mà là cách khẳng định lòng tự tôn, bản lĩnh và sự độc đáo của dân tộc ta. Bản sắc ấy là tâm hồn, là cội nguồn của sự phát triển, giúp chúng ta đứng vững và không bị hòa tan giữa những biến động của thế giới.

Văn hóa cũng là trận chiến không khoan nhượng

Hiểu rõ ý đồ của các thế lực, các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng có sự đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng. Đánh giá về tầm quan trọng của nền tảng văn hóa đối với một quốc gia, PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng: “Văn hóa không chỉ là yếu tố truyền tải giá trị tinh thần mà còn là công cụ định hướng, quản lý sự thay đổi trong xã hội. Đối với các quốc gia đang phát triển như chúng ta, văn hóa có thể là chìa khóa để xây dựng nền tảng vững chắc, bảo đảm sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa các lĩnh vực và nâng cao đời sống của nhân dân.

Trong kỷ nguyên mới, khi chúng ta đối mặt với những thay đổi nhanh chóng về công nghệ, môi trường và lối sống, văn hóa cần được coi trọng hơn bao giờ hết. Văn hóa không chỉ là sự phản ánh quá khứ mà còn là sự dẫn dắt, định hướng cho tương lai như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Một quốc gia có nền văn hóa vững chắc là một quốc gia có khả năng vượt qua mọi thử thách, duy trì sự ổn định và đồng lòng để tiến bước trong bối cảnh toàn cầu hóa đầy cạnh tranh. Văn hóa là sức mạnh vô hình nhưng bền vững, là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội thịnh vượng cả về vật chất lẫn tinh thần”.

Vì thế, tăng cường giáo dục, bồi đắp hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên” vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp hết sức quan trọng để ngăn ngừa tác động của những âm mưu, thủ đoạn xâm lăng văn hóa; tạo sức đề kháng, sự miễn dịch trong các tầng lớp nhân dân trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch.

Lãng phí vào niềm tin không có thật

 Chuyện tưởng cũ mà mới, luôn gây bức xúc dư luận mỗi dịp tết đến, xuân về, đó là tình trạng đốt vàng mã tràn lan. Tại các cơ sở thờ tự, nơi hóa vàng năm sau to hơn năm trước; có di tích còn thuê người đến hạ lễ, đốt vàng mã giúp khách hành hương.

Chủ động ngăn chặn từ sớm hành vi mở rộng xâm lăng văn hóa

Những bước đi của cuộc xâm lăng văn hóa đang dần mở rộng ở các cấp độ và phạm vi khác nhau trong tổng thể chiến lược thôn tính văn hóa, nhất là trong bối cảnh nước ta tham gia hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Việc chúng ta tham gia tích cực vào một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; đón đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng sự bùng nổ các thiết bị thông minh kết nối mạng, mọi biến đổi, tác động từ bên ngoài dù nhỏ nhất cũng gây ra ảnh hưởng, theo chiều hướng ngày càng rộng và đa dạng.

Các nước phương Tây hiểu rõ điều này và cũng quyết tăng cường sử dụng “sức mạnh mềm văn hóa” kết hợp cùng sự phát triển vượt bậc của công nghệ, làm cho quá trình xâm lăng văn hóa diễn ra mạnh hơn. Các nước phương Tây và các cường quốc dựa vào công nghệ cao kiểm soát phương thức phổ biến thông tin, từ đó chủ động tạo định hướng dư luận với tốc độ chóng mặt. 

Cùng với đó, quá trình toàn cầu hóa, đa dạng hóa văn hóa thế giới chính là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch công khai lợi dụng hội nhập văn hóa của các nước đang phát triển mà ra sức truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại, truyền bá giá trị tư bản chủ nghĩa, với mục đích cuối cùng là nô dịch văn hóa và đạt được các mục tiêu chính trị.

Mặt khác, chúng ra sức công kích Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước, để rồi dần theo thời gian, các tầng lớp trong xã hội chấp nhận các giá trị phương Tây, quên đi lịch sử, văn hóa dân tộc, từng bước bị đồng hóa với văn hóa nước ngoài một cách “êm dịu”, không phản kháng.

Đây cũng là đặc điểm thay đổi lớn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà phương Tây đang áp dụng.

SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG!

         Với tâm địa đen tối, cái nhìn hằn học, các thế lực thù địch thường xuyên chống phá cách mạng nước ta, nhất là trên một số đài, báo nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam như: BBC, RFA, RFI, VOA... và các trang mạng xã hội phản động, nhất là tổ chức Việt Tân luôn xuyên tạc rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam tính hiệu quả không cao. Thực ra, những nhận định này là hồ đồ và xuyên tạc vì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng để “cơ thể Đảng” thường xuyên khỏe mạnh, có khả năng “đề kháng”, “miễn dịch” trước sự chống phá của các thế lực thù địch!
Từ lý luận và thực tiễn đều chứng minh một vấn đề có tính nguyên tắc và mang tính chiến lược, đó là Đảng phải thường xuyên được xây dựng, chỉnh đốn để Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh, đủ sức và xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, dân tộc. Càng làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao nhiêu thì Đảng ta ngày càng vững mạnh bấy nhiêu, luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Kết quả đã đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua là niềm tin để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần đề cao cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vững tin xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh./.
Khuyết danh ST.

Nghiêm minh với thói côn đồ

 Chỉ vì xích mích nhỏ khi tham gia giao thông, cặp vợ chồng trung niên trú tại quận 1, TP Hồ Chí Minh liền dựng xe xông vào tấn công một cặp vợ chồng đi xe phía trước. Nam thanh niên chạy xe công nghệ gần đó thấy vậy vào can ngăn liền bị cặp vợ chồng hung hãn kia quay sang tấn công, hành hung dã man theo kiểu côn đồ.

Thủ đoạn dùng văn hóa để phá hoại sự ổn định xã hội của kẻ thù

Các chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa, an ninh mạng đã phân tích và chia sẻ một số thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường dùng, đó là: Sản xuất các sản phẩm văn hóa mang hơi hướng thời đại, đánh mạnh vào tập tính thói quen của giới trẻ, những người yếu thế, tiểu thương, những người về hưu, người ít tiếp cận với thông tin chính thống từ cơ quan quản lý nhà nước. Với nhóm đối tượng này, chúng khuyến khích những nhu cầu văn hóa, tinh thần không lành mạnh, tạo ra các mâu thuẫn không có thật thông qua các tin giả được tán phát tinh vi, từ đó tạo ra khuynh hướng văn hóa đối lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa.

Tiếp đó, chúng thông qua các hoạt động trực tiếp và gián tiếp để lôi kéo nghệ sĩ, những người có ảnh hưởng đi theo trào lưu hưởng thụ xa hoa, các trào lưu sáng tác tự do, dân chủ kiểu phương Tây; lấy số ít người có ảnh hưởng làm “ngọn cờ”, từ đó tuyên truyền làm tha hóa thế hệ trẻ; từng bước làm cho thế hệ trẻ quên đi gốc văn hóa dân tộc, đua đòi ăn chơi, hưởng thụ, không quan tâm tới vận mệnh đất nước...

Bước tiếp theo tinh vi hơn, các thế lực thù địch thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để sản xuất, truyền bá các sản phẩm văn hóa xấu độc, lai căng với ý đồ rõ rệt là tạo thói quen xấu, nhân lên những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ, từng bước tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích lối nghĩ, lối sống cá nhân ích kỷ, bạo lực, những ham muốn vật chất tầm thường.

Từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một bộ phận người dân trong xã hội sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm với cộng đồng, đất nước. Kích thích lối sống hưởng thụ, ca ngợi dục vọng, lạc thú bản năng thấp hèn, chỉ lo cho mình mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

“Dạo” một vòng trên các trang mạng xã hội, chúng ta có thể thấy rõ, nhiều trang mạng xã hội, các tờ báo điện tử của phương Tây có phiên bản tiếng Việt vẫn ngày đêm thêu dệt, đơm đặt những câu chuyện không có thật về các đồng chí lãnh đạo cấp cao; lợi dụng thông tin xử lý cán bộ để bôi nhọ, công kích Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa; làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước. Chúng ra sức quảng bá, tuyên truyền các giá trị văn hóa phương Tây; đề cao chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng; sử dụng tiêu chuẩn kép trong vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”...

Chúng cũng đầu tư không ít tiền bạc để quảng bá các sản phẩm văn hóa như phim, ảnh, video tuyên truyền, văn hóa phẩm, sách báo, văn học... với ý đồ thao túng rõ rệt nhằm phá hoại nền văn hóa của dân tộc ta; phá hoại sự ổn định xã hội.

Bằng các cuộc tiếp xúc trực tiếp, thông qua con đường du học, hội thảo, du lịch... những lời hứa hão, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu ly gián về tư tưởng, chia rẽ về tổ chức, lôi kéo những người có ảnh hưởng cổ xúy cho các trào lưu tư tưởng văn hóa phương Tây, gây nhiễu loạn tư tưởng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.

Mục đích của chúng là từng bước làm cho người dân phai mờ những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam; từng bước xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong công tác văn hóa, tiến tới phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng trong văn hóa; tách lĩnh vực này ra khỏi đời sống chính trị-xã hội của đất nước, phá hoại bản sắc văn hóa của dân tộc, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại với nền văn hóa của dân tộc... Đây là mưu đồ rất thâm độc của các thế lực thù địch khi chúng quyết tâm từng bước xâm lăng văn hóa đối với nước ta.

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

Gần 80 năm qua, sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những thành tựu to lớn đạt được đã khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc tư tưởng, phủ nhận công lao của Người về vấn đề này. Đó là dã tâm đen tối, luận điệu trơ trẽn, phản động cần phải vạch trần, bác bỏ. Với dã tâm, mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, mượn danh “nghiên cứu lịch sử”,… để xuyên tạc và phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, xuyên tạc tư tưởng về nhà nước kiểu mới là một trọng tâm của chúng.

Một là, chúng xuyên tạc, cho rằng: “Hồ Chí Minh không tuân thủ mô hình nhà nước công nông binh do Đảng Cộng sản Việt Nam chọn từ năm 1930, mà chọn mô hình nhà nước “cộng hòa” kiểu Pháp, không phải là nhà nước chuyên chính vô sản”. Đây là luận điệu thể hiện rõ mưu đồ đen tối nhằm xuyên tạc và phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc kiến tạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng ta biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình nhà nước trên thế giới và phác họa mô hình “Chính phủ công nông binh” - nhà nước chuyên chính vô sản. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), Người đã đề xuất mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “độc lập - tự do - hạnh phúc”, tạo nền tảng để tập hợp lực lượng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng thành công, đảm bảo sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” công bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - một quốc gia tự do, độc lập. Trong nhà nước này, nhân dân là chủ nhân, với tất cả quyền hành, lực lượng, lợi ích đều thuộc về dân. Như vậy, việc lựa chọn và đặt tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ mô hình nhà nước công nông binh sang mô hình nhà nước đại diện cho khối đoàn kết toàn dân là bước đi sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với đặc thù và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Đó thực chất vẫn là một nhà nước chuyên chính vô sản, chứ không phải “mô hình kiểu Pháp” như các thế lực thù địch đang bịa đặt, rêu rao.

Hai là, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng viện dẫn việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời, bao gồm các đảng phái: Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Đoàn Cố vấn tối cao của Chính phủ mới để xuyên tạc rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh áp đặt ở Việt Nam không mang bản chất giai cấp công nhân, mà mang tính chất tư sản, tiểu tư sản”. Phải khẳng định rằng, ngay từ đầu, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân và được thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc. Khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Nghĩa là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, hướng đến mục tiêu đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà nước ta ra đời, trước tình thế phải tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai để bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền non trẻ nên việc tập hợp các đại biểu của các đảng phái yêu nước, thậm chí “rút bớt các thành viên cộng sản” để lập chính phủ mới là một sách lược mềm dẻo, sáng tạo và linh hoạt. Điều này thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng và hoàn toàn không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.

Ba là, phủ nhận tính pháp quyền của nhà nước kiểu mới ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân chỉ là mị dân, không có tính pháp lý” và lập luận rằng: “không thể xây dựng một nhà nước dân chủ trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam; thể chế nhà nước dân chủ chỉ có ở các nước phát triển phương Tây”, v.v. Những luận điệu này thực chất nhằm xóa nhòa những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Trên thực tế, ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu ban hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng các đạo luật và khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là điểm nổi bật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải có một hiến pháp dân chủ và đề nghị “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu trong cả nước để sớm có quốc hội và nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra vào ngày 06/01/1946. Sau đó, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ của toàn dân. Như vậy, cả trong tư tưởng và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính pháp lý và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều này đã phản bác hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chúng cho rằng đó là “nhà nước mị dân, không có tính pháp lý”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, cả cuộc đời luôn phấn đấu vì dân, vì nước và thực tiễn trong suốt 24 năm đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Người đã cống hiến hết mình vì dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân đạt được những thắng lợi to lớn. Mong muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, và “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”. Dù có nhìn ở khía cạnh nào đi chăng nữa, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời, tận trung với nước, tận hiếu với dân, không như những gì các thế lực thù địch bôi nhọ, xuyên tạc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, cùng di sản tư tưởng vô giá, trong đó có tư tưởng về nhà nước kiểu mới. Nắm vững tư tưởng của Người, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là hành động thiết thực nhất phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội./.


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM

Những năm qua, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt; trực tiếp góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đó là những minh chứng sinh động, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phản động. Trong các giai đoạn phát triển của đất nước kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, an sinh xã hội luôn là một trong những chủ trương, chính sách quan trọng của Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Bảo đảm an sinh xã hội được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nền tảng cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế đất nước; là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội nước ta.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận thành quả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được. Họ triệt để lợi dụng những khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, các vấn đề xã hội bức xúc; kết quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… để thực hiện các thủ đoạn chống phá. 

Thứ nhất, trực tiếp công kích, xuyên tạc hệ thống chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước ta trong gần 80 năm qua, nhất là trong thời gian gần đây. 

Thứ hai, cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả thực tế trong bảo đảm an sinh xã hội mà chúng ta đã đạt được cùng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cả hai phương diện này được các thế lực thù địch, phản động kết hợp chặt chẽ với nhau và luôn gắn với các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, coi đó là “điểm tựa” và “chất liệu” để chống phá. Họ thường rêu rao các luận điệu, như: chính sách an sinh xã hội của Việt Nam “thiếu tiến bộ, thiếu công bằng xã hội”; “Nhà nước rũ bỏ trách nhiệm lo an sinh cho dân”, rằng “chế độ an sinh xã hội ở Việt Nam có chiều hướng thụt lùi”, chính quyền “bỏ mặc dân nghèo tự lo”, “tự bơi”, v.v. Qua đó, hình thành mũi nhọn trực tiếp tiến công, hướng đến mục tiêu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; bôi đen, phủ định bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhưng sự thật luôn rõ ràng! Những luận điệu xuyên tạc không thể phủ nhận được thực tế rằng: việc bảo đảm an sinh xã hội luôn là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam; là chính sách cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm nhẹ tác động bất lợi, rủi ro, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm đời sống của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh. Mục đích mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu là làm cho mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục đích đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa quy định phương hướng, mục tiêu chính sách an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn lại lịch sử, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành côngtrong bối cảnh chính quyền non trẻ phải đương đầu với “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy để kiến tạo, xây dựng chế độ xã hội mới, không ngừng nâng cao, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có đảm bảo an sinh xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Trước thực tế có tới 95% dân số không biết đọc, biết viết, khoảng 10% dân số bị chết đói, việc đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo cuộc sống cho nhân dân là vấn đề vô cùng hệ trọng và là nhiệm vụ bức thiết được Đảng, Chính phủ thực hiện ráo riết. Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng hơn một năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công, “giặc đói”, “giặc dốt” cơ bản đã bị đẩy lùi, nền tài chính quốc gia được gây dựng lại; nền văn hóa, nếp sống mới bước đầu được xây dựng; y tế, vệ sinh phòng bệnh được quan tâm, v.v. Đó là những vấn đề rất cơ bản thể hiện sinh động thành tựu an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước đã sớm thực hiện trong chăm lo đời sống nhân dân; phản ánh sâu sắc bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta, dù mới chỉ bắt đầu xây dựng.

Trên phương diện chính sách: Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng và không ngừng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, hướng đến mục tiêu bao phủ toàn dân và toàn diện, theo phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) đã ghi nhận những điều khoản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống chính sách an sinh xã hội: “Quyền lợi các giới cần lao, trí thức và chân tay được bảo đảm” (Điều 13); “Những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14). Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội” (Điều 34). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta xác định: hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, linh hoạt “có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong cuộc sống”. Đồng thời, đề ra các giải pháp chủ yếu: hoàn thiện hệ thống bảo hiểm, trợ giúp, cứu trợ xã hội; triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch,… mang tính toàn diện và bao trùm đến mọi tầng lớp xã hội, trên tất cả các “trụ cột” của chính sách và tổ chức thực hiện trên thực tế. Cụ thể là: (1). Hệ thống bảo hiểm xã hội đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; (2). Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm góp phần tạo việc làm đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu lực lượng lao động, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3). Hệ thống trợ giúp xã hội, thông qua trợ cấp trực tiếp bằng tiền, hiện vật kinh phí từ ngân sách nhà nước, giúp người dân khắc phục rủi ro, biến cố; (4). Hệ thống chính sách ưu đãi người có công, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi; (5). Hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin,...) ngày càng cải thiện về chất lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư vùng sâu, vùng xa, địa bàn đặc biệt khó khăn, v.v.

Với chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vựcVề giảm nghèo, Đảng, Nhà nước ta thực hiện linh hoạt các giải pháp hỗ trợ người dân thoát nghèo, đạt thành tựu nổi bật. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới giảm từ 9,88% năm 2015 còn 2,75% năm 2020, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và là một trong 30 nước áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được quốc tế ghi nhận. Về bảo trợ xã hội, cả nước hiện có 425 cơ sở trợ giúp xã hội (trong đó: 191 công lập và 234 ngoài công lập) nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41 nghìn người. Đến cuối năm 2023, đã có 100% đối tượng được hưởng trợ cấp hằng tháng, 100% số người bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói, hơn 90% số người khuyết tật khó khăn được trợ giúp, chăm sóc, phục hồi chức năng, hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được trợ giúp, phụng dưỡng, chăm sóc. Đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế - hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, có diện bao phủ ngày càng mở rộng. Theo thống kê, đến hết tháng 6/2024, cả nước có khoảng 18,305 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 39,05% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 1,164 triệu người so với cùng kỳ năm 2023 (tăng gần 02 lần so với năm 2010). Đặc biệt, số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các năm (2021: 91,01%; 2022: 92,04%; 2023: 93,35%), tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Trong đó, hầu hết các nhóm người có thu nhập thấp, người nghèo, người yếu thế trong xã hội đều đã được tham gia bảo hiểm y tế từ nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước, địa phương hoặc huy động từ các nguồn lực khác. Quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ngày càng được thực hiện tốt hơn. Hiện nay, đường truyền dẫn cáp quang, dịch vụ thông tin di động đã đến 100% xã trong toàn quốc. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng cả nước, riêng tỷ lệ phủ sóng điện thoại di động băng rộng 4G của Việt Nam đã lên đến 99,8% xét trên dân số. Hệ thống cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Những kết quả từ chính sách an sinh xã hội đã góp phần khiến chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Ngày 20/3/2024, Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên lần thứ 10; trong đó, Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54/143 quốc gia khảo sát.

Với những số liệu “biết nói” trên, hướng đến mục tiêu: “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững,… gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân”4, Việt Nam đã có hệ thống an sinh xã hội phát triển thành mạng lưới bao trùm, toàn diện, vì con người, diện bao phủ không ngừng được mở rộng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tất cả các đối tượng. Đây chính là minh chứng khẳng định thành tựu bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam là rất đáng tự hào, người dân được thụ hưởng thực sự, thực tế và ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thực tế đó là không thể phủ nhận dưới mọi hình thức.

 


Chống Văn hóa độc hại, sùng ngoại, lai căng

Đánh giá đúng tầm mức sự nguy hại của làn sóng xâm lăng văn hóa, thể hiện rõ quyết tâm ngăn chặn làn sóng này, ngày 27-7-2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW “Về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”.

Chỉ thị đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ, tác hại của các sản phẩm văn hóa độc hại và sự sùng ngoại, lai căng đã “tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc; có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng; dẫn đến khuynh hướng “tự diễn biến” về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.

Làn sóng xâm lăng văn hóa thể hiện rõ ở chỗ các nước phát triển, các nước lớn có âm mưu sẽ xây dựng chiến lược để lặng lẽ đưa các giá trị chuẩn mực, đạo đức xã hội, tư tưởng chính trị, phương pháp kinh tế... của họ dần áp đặt vào các nước đang phát triển thông qua giao tiếp giữa các nước. Từ phân tích trên, chúng ta có thể hiểu sự xâm lăng văn hóa là chiến lược được các cường quốc tính toán nhằm thực hiện tham vọng bá chủ thế giới. Không giống như các dạng truyền thống của quyền lực quốc gia, xâm lăng văn hóa thể hiện quyền lực mềm của một cường quốc. 

Nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, văn hóa luôn là đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung hướng đến thông qua nhiều cách thức, thủ đoạn, trong đó trắng trợn nhất là dùng văn hóa để xâm lược; tấn công bằng văn hóa để áp đặt các giá trị văn hóa và lối sống của phương Tây; phá hoại bản sắc văn hóa của dân tộc, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị; hình thành ý thức chống đối về chính trị, phản bội lại Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa; đi ngược lại với nền văn hóa của dân tộc.

Để du lịch thành trụ cột

 Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, TP Huế xác định phát triển du lịch trở thành trụ cột của nền kinh tế. TP Huế đã triển khai nhiều chiến lược nhằm tạo sự bứt phá, đưa ngành du lịch cất cánh nhanh, bền vững. Đây là chủ trương nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có nhưng đồng thời tạo ra nhiều áp lực cho ngành du lịch địa phương trong bối cảnh hạ tầng, sản phẩm, dịch vụ du lịch chưa đồng bộ, chất lượng còn hạn chế...

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, một số thế lực thiếu thiện chí vẫn có cái nhìn phiến diện, cho rằng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được chuyển biến căn bản cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, khả thi, đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã “tung ra” không ít những luận điệu sai trái, thù địch cho rằng: đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được sự chuyển biến căn bản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chúng còn xuyên tạc rằng, sự phát triển của Việt Nam là chậm so với các nước trong khu vực và thế giới. Hơn thế nữa, chúng rêu rao “võ đoán” rằng, những thành tựu mà đất nước ta đạt được gần 40 năm qua chỉ là “ăn may”, chứ không phải là do đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi, v.v. Phải khẳng định ngay rằng, những quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, phản khoa học, mang động cơ chính trị xấu, nhằm mục đích phủ nhận đường lối đổi mới, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; làm giảm sút lòng tin, cũng như tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu cuối cùng của chúng là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

 


Nhận diện Cuộc xâm lăng mềm xuyên biên giới, xuyên quốc gia

Phải khẳng định, trong thời đại số, mỗi một phút, một giờ lại có hàng vạn thông tin được chia sẻ thông qua mạng xã hội và các kênh giao tiếp văn hóa phi chính thức khác nhau, cho thấy mức độ nhập khẩu văn hóa không kiểm soát lớn như thế nào.

Không phải tự nhiên chỉ một thời gian ngắn mạng xã hội phát triển ở nước ta, không ít người giờ đây chỉ yêu thích các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài, biến họ trở nên khác hẳn, sùng ngoại, “đặc sệt” phương Tây, với đặc trưng là thích quan tâm tới bản thân hơn là chia sẻ với cộng đồng; thích kiểu ăn mặc khác lạ, lối sống thực dụng chứ không thích lối sống gia đình theo nếp nhà truyền thống với các giá trị gia đình; tinh thần chia sẻ với xóm làng, cộng đồng. Nguy hại hơn, họ xa rời trách nhiệm với Tổ quốc, họ trốn tránh nghĩa vụ công dân, chỉ biết đòi hỏi quyền lợi, đòi hỏi tự do dân chủ một cách vô độ, tuyệt đối, muốn làm gì thì làm theo kiểu phương Tây.

Những biểu hiện nguy hiểm ấy đang bào mòn chất văn hóa Việt, khiến họ dần quên đi những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc, quên đi mình là ai. Thật nguy hiểm khi hàng triệu người đang dùng mạng xã hội hay các sản phẩm văn hóa độc hại đang không nhận ra mình dần bị đồng hóa văn hóa theo “kế hoạch” đã được tính toán của các nước lớn; các nước phương Tây thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” và làn sóng xâm lăng văn hóa êm dịu, tĩnh lặng, bất bạo lực.

Không khó để nhận ra, “kế hoạch” của các thế lực này đã thành công một phần nào đó. Nhìn các sản phẩm văn hóa trên các trang mạng xã hội, hay một số trang điện tử, báo điện tử với nội dung đánh vào tâm lý người Việt trẻ, như scandal của văn nghệ sĩ; những cuộc đấu khẩu, chửi rủa, bạo lực; cuộc sống của các ca sĩ, ban nhạc nước ngoài, video clip bói toán, dạy nấu ăn, dạy làm giàu, dạy ứng xử mà cốt truyện, những nhân vật đều thuộc về một quốc gia khác... Tóm lại, từ việc nhỏ nhất cho đến việc lớn, đều bị văn hóa ngoại chi phối.

Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo: Không ít giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang bị thay đổi trong đời sống hằng ngày ở từng con người, mỗi gia đình. Trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều người đã đón nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai một cách không chọn lọc, không biết nhận diện, phân tích và bỏ đi những cái xấu, cái không phù hợp. Nhiều người khác thì dễ dãi tiếp thu, vay mượn vốn văn hóa của nước ngoài để giúp mình tưởng như đã đạt tới cột mốc là công dân văn minh toàn cầu; chăm chăm mượn cái của nước khác, người khác mà tưởng rằng đó là tiêu chuẩn của giá trị. Họ không hiểu thế nào là tiếp thu những mặt tích cực; thế nào là bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa.

Như vậy, nhiều người đang tự mình tan ra, dần mất bản sắc văn hóa dân tộc, bị đồng hóa văn hóa từ chính những biểu hiện trong lối sống, lối ứng xử, trong cách tiếp nhận và thay đổi quan niệm về giá trị vật chất, tinh thần họ đang học theo. Nếu “căn bệnh” sùng bái văn hóa ngoại lây lan từ cá nhân sang gia đình, rồi ra cộng đồng và các tầng lớp xã hội thì lúc đó, xã hội đã thực sự bị xâm lăng văn hóa. Nỗi lo xâm lăng văn hóa càng được nhân lên khi internet, mạng xã hội dưới sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn... ngày càng trở nên phổ biến. 

Tin giả, hậu quả khôn lường

 

Chỉ vì một thông tin chưa kiểm chứng, mới đây, hai cá nhân tại tỉnh Nghệ An đã đăng tải nội dung sai lệch về việc sáp nhập tỉnh, thành phố, gây hoang mang dư luận. Hệ quả, họ bị cơ quan chức năng triệu tập và xử phạt hành chính. Đây là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc với đối tượng tung tin giả.