Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA CHÚ TRỌNG CỦNG CỐ NGOẠI GIAO NHÂN DÂN

 Đại sứ Đặng Minh Khôi bày tỏ mong muốn hai hội hữu nghị của Việt Nam và Nga sẽ thúc đẩy mối quan hệ, phát triển tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay.

Chiều 28/10, tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga, Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi và các cán bộ Đại sứ quán đã làm việc với đoàn Viện nghiên cứu Bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, do Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Trịnh Quốc Khánh, Chủ tịch Hội đồng Khoa học của viện, Phó Chủ tịch thường trực Hội Hữu nghị Việt - Nga, dẫn đầu.
Chủ tịch Hội Hữu nghị Nga - Việt, ông Vladimir Buyanov; Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Nga - Việt, bà Regina Budarina và ông Đỗ Xuân Hoàng, Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Liên bang Nga, cũng tham dự buổi làm việc này.
Tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện nghiên cứu Bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng Trịnh Quốc Khánh đã thông báo với Đại sứ Đặng Minh Khôi về nội dung chuyến thăm và làm việc của đoàn tại Liên bang Nga, đặc biệt là hoạt động nhằm thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, hợp tác với các trường đại học của Liên bang Nga, nghiên cứu về biến đổi khí hậu tại tỉnh Quảng Ninh, sau đó nhân rộng ra các địa phương khác của Việt Nam.
Ông cũng thông báo về các hoạt động của Hội Hữu nghị Việt - Nga nhằm thúc đẩy quan hệ với Liên bang Nga; cuộc thi “Em vẽ Việt Nam, em vẽ nước Nga” lần thứ 6 do Hội Hữu nghị Việt - Nga, Phân viện Puskin Hà Nội và Hội Hữu nghị Nga - Việt phối hợp tổ chức với sự tài trợ của Quỹ Truyền thống và Hữu nghị.
Tại buổi làm việc, Chủ tịch Hội Hữu nghị Nga - Việt, ông Buyanov bày tỏ ủng hội việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực về môi trường, cho rằng đây là lĩnh vực quan trọng vào thời điểm hiện nay. Ông cũng đồng thời bày tỏ mong muốn tiếp tục thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực khác.
Về phần mình, Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi đặc biệt lưu ý đến vai trò cũng như việc thúc đẩy ngoại giao nhân dân giữa hai nước.
Đại sứ cho rằng quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga là mối quan hệ đặc biệt, đồng thời bày tỏ mong muốn hai hội hữu nghị sẽ thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước, làm sao để củng cố và tiếp tục phát triển tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới nhiều biến động như hiện nay.
Đại sứ Đặng Minh Khôi cho rằng cần tăng cường trao đổi đoàn giữa hai nước, thúc đẩy hoạt động của các nhà Việt Nam học người Nga, phổ biến tiếng Việt tại Liên bang Nga, cũng như đề xuất việc Đại sứ quán sử dụng tranh được giải trong cuộc thi “Em vẽ Việt Nam, em vẽ nước Nga”, cũng như tổ chức trưng bày, giới thiệu các tranh này. Đại sứ cũng chia sẻ về những hoạt động thúc đẩy quan hệ song phương của Đại sứ quán, khẳng định mục tiêu hai bên hợp tác cùng có lợi.
Thay mặt đoàn, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện nghiên cứu Bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng Trịnh Quốc Khánh bày tỏ cảm ơn những ý kiến, khuyến nghị đáng lưu ý của Đại sứ Đặng Minh Khôi, cho biết sẽ trao đổi những ý tưởng này trong Ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt - Nga để xúc tiến thực hiện.
Cũng trong buổi làm việc, Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Liên bang Nga, Chủ tịch Quỹ Truyền thống và Hữu nghị, ông Đỗ Xuân Hoàng cho biết ngoài việc thành lập Quỹ Khai sáng, Quỹ Khuyến học và tổ chức cuộc thi tiếng Việt tại Liên bang Nga, dự kiến sắp tới Quỹ Truyền thống và Hữu nghị cũng sẽ tổ chức cuộc thi các công trình nghiên cứu về Việt Nam cho các nhà Việt Nam học Nga.
Theo TTXVN

CHUYẾN THĂM TRUNG QUỐC CỦA TỔNG BÍ THƯ CÓ Ý NGHĨA HẾT SỨC QUAN TRỌNG

 Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai đã có những chia sẻ về quan hệ hai nước cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Nhân dịp này, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai chia sẻ về quan hệ hai nước cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyến thăm.
Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
- Xin Đại sứ cho biết một số nét chính về tình hình tổng thể quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua?
Đại sứ Phạm Sao Mai: Tôi vui mừng nhận thấy, với nỗ lực chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc thời gian qua về tổng thể tiếp tục duy trì đà phát triển ổn định, tích cực, đạt nhiều thành quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Về quan hệ chính trị, trao đổi, tiếp xúc cấp cao diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức linh hoạt, góp phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước.
Đặc biệt, sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1.2021), lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội hai nước lần lượt có các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến, đưa ra những định hướng lớn quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác cùng có lợi Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.
Hợp tác, giao lưu kênh Đảng, ngoại giao, quốc phòng, công an, các địa phương biên giới và giao lưu nhân dân hai nước duy trì mật thiết.
Hai bên tổ chức thành công Phiên họp lần thứ 14 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (tháng 7.2022).
Hợp tác kinh tế, thương mại duy trì phát triển ổn định. Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, trong khi Việt Nam tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đối tác lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới.
Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, kim ngạch hai chiều 9 tháng đầu năm nay đạt 132,3 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước
Xuất khẩu hoa quả của Việt Nam sang Trung Quốc có tiến triển mới, trong đó sầu riêng chính thức là loại quả thứ mười được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc từ tháng 7.2022.
Về đầu tư, 9 tháng năm 2022, Trung Quốc đứng thứ 4/97 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký cấp mới đạt 1,5 tỷ USD; lũy kế đến tháng 9.2022, Trung Quốc xếp thứ 6/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt 22,438 tỷ USD. Vướng mắc trong các dự án đầu tư, hợp tác kinh tế từng bước được tháo gỡ.
Hợp tác phòng chống dịch COVID-19 đạt nhiều kết quả thực chất. Trung Quốc là một trong những nước cung cấp vaccine nhiều nhất, đóng góp hiệu quả cho công tác phòng chống, kiểm soát dịch bệnh tại Việt Nam. Giao lưu nhân dân từng bước được khôi phục, 9 tháng năm 2022, có 78.100 lượt khách Trung Quốc đến Việt Nam, tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Về biên giới lãnh thổ, hai bên đã phối hợp chặt chẽ triển khai thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới; đạt được nhận thức chung về kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định trên biển phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, đồng thời tích cực thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các vấn đề trên biển, thực hiện hiệu quả Tuyên bố của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy tiến trình tham vấn Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Ngoài ra, hai bên cũng tích cực phối hợp tại các diễn đàn đa phương, nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác tại khu vực và trên thế giới, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn đối mặt với một số khó khăn như thông quan hàng hóa tại cửa khẩu có lúc chưa thông suốt, các chuyến bay thẳng chưa được khôi phục bình thường… Mặc dù vậy, hai bên vẫn duy trì trao đổi thẳng thắn qua nhiều kênh nhằm tìm kiếm các biện pháp tháo gỡ những vấn đề trên.
- Xin Đại sứ cho biết ý nghĩa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước?
Đại sứ Phạm Sao Mai: Đây là chuyến thăm song phương chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta tới Trung Quốc kể từ sau khi bùng phát đại dịch COVID-19, là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng là nhà lãnh đạo cấp cao nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là cuộc gặp trực tiếp đầu tiên giữa Tổng Bí thư hai Đảng sau 5 năm (kể từ tháng 11.2017).
Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, dịch bệnh COVID-19 đã và đang tác động tiêu cực, nhiều chiều tới tình hình chính trị, kinh tế toàn cầu, chuyến thăm lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc; củng cố tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước, góp phần đưa quan hệ song phương bước sang giai đoạn phát triển mới.
- Xin Đại sứ đánh giá về triển vọng quan hệ hai nước trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp hiện nay? Hai nước cần làm gì để tiếp tục đẩy mạnh và khai thác tối đa tiềm năng hợp tác trong thời gian tới?
Đại sứ Phạm Sao Mai: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa, đang tiến hành đi sâu đổi mới, cải cách mở cửa. Quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai nước do các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp, đã trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc.
Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp lợi ích căn bản, lâu dài của hai bên, có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác ở khu vực và trên thế giới.
Để phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của quan hệ song phương, tôi cho rằng thời gian tới, hai bên cần tăng cường giao lưu cấp cao và các cấp, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị, thúc đẩy thực hiện nghiêm túc, đầy đủ những nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, cũng như các thỏa thuận song phương giữa các bộ, ngành và địa phương hai nước; kịp thời cùng nhau tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hợp tác thực chất trên tất cả các lĩnh vực.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, với lợi thế, tiềm năng, nhu cầu và thành tựu hiện tại của quan hệ song phương, cùng với quyết tâm và nỗ lực chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới với nền tảng hữu nghị, hợp tác vững chắc hơn.
- Trân trọng cảm ơn Đại sứ.
Theo TTXVN

Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI "ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG

 Tháng 10/1972, theo thỏa thuận, lẽ ra giữa Việt Nam và Mỹ ra thỏa thuận chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ đã bội ước, đưa máy bay chiến lược B52 đến ném bom Thủ đô Hà Nội và Hải Phòng. Tổng thống Nickson có kế hoạch dùng sức mạnh máy bay B52, con át chủ bài của không lực Hoa Kỳ “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, hòng buộc phía Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện áp đặt của họ. Tuy nhiên, cuộc tập kích chiến lược ồ ạt bằng B52 này của Mỹ đã thất bại hoàn toàn khi có 81 máy bay hiện đại của Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B52, 5 chiếc F.111, nhiều giặc lái Mỹ bị diệt và bắt sống.

Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân và lực lượng phòng không ba thứ quân đã tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, trong đó Bộ đội Phòng không - Không quân là lực lượng nòng cốt đã cùng với quân dân Hà Nội - Hải Phòng và một số địa phương trực tiếp đánh trả cuộc tập kích đường không chưa từng có trong lịch sử. Trải qua 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng (từ ngày 18/12 đến 29/12/1972), quân dân Hà Nội, Hải Phòng đã làm nên một "Điện Biên Phủ trên không" lừng lẫy, buộc phía Mỹ phải “chịu thua trên bầu trời Hà Nội". Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hà cho biết: Thắng lợi ở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 đã đưa đến việc thực dân Pháp bị thất bại, suy sụp hoàn toàn ý chí tiếp tục chiến tranh, phải ngồi vào đàm phán với Việt Nam ở Hội nghị Geneva và ký kết hiệp định Geneva với Việt Nam vào tháng 7/1954. Chiến thắng của Việt Nam trong 12 ngày đêm vào cuối năm 1972 cũng có ý nghĩa tương tự như vậy, nhưng khác ở chỗ đây là Điện Biên Phủ trên không. Hai sự kiện này giống nhau về mặt ý nghĩa thắng lợi, do đó người ta ghép lại, gọi là trận Điện Biên Phủ trên không. Sự kiện 12 ngày đêm có ý nghĩa như một trận Điện Biên Phủ là ở chỗ nó chứng tỏ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, đó là không khuất phục trước bất cứ thế lực quân sự nào, kể cả máy bay ném bom chiến lược B52.
Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không", đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Điều này khẳng định sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong nghệ thuật tác chiến phòng không hiệp đồng chiến đấu của quân đội nhân dân Việt Nam.
Báo QĐND

COI TRỌNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGÀNH TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐẢNG

 Cán bộ là gốc của mọi việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những mục tiêu, yêu cầu về đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Đồng thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhiều lần nhấn mạnh vai trò trọng yếu của công tác tổ chức, cán bộ và khẳng định: Nếu xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công tác tổ chức, cán bộ của Đảng giữ vị trí then chốt của then chốt.

Cán bộ ngành tổ chức xây dựng Đảng là một bộ phận cấu thành đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, trực tiếp tham mưu cho cấp ủy những chủ trương, nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; về tổ chức, bộ máy, cán bộ, đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng.
Đội ngũ tham mưu của cấp ủy
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ trong các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ luôn là vấn đề được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đặc biệt chú trọng. Tổng kết công tác từ cấp ủy nhiều địa phương khẳng định, đây là nhiệm vụ rất quan trọng và không ít khó khăn, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt trong tổ chức thực hiện để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Ngành tổ chức xây dựng Đảng muốn làm tròn trách nhiệm phải nghiên cứu, tham mưu có hiệu quả, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức xây dựng Đảng, từ đó đặt ra trọng trách, yêu cầu đối với đội ngũ và mỗi cán bộ của ngành.
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ có 18 đảng bộ trực thuộc với 693 chi bộ, đảng bộ cơ sở và hơn 107 nghìn đảng viên. Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ Bùi Minh Châu trao đổi, những năm qua, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng, đạt hiệu quả. Đảng bộ triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) gắn với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị; chỉ đạo quyết liệt việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế một cách vững chắc, đồng bộ, toàn diện; sớm hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã và khu dân cư, đã giảm được 28 đầu mối tổ chức các cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, 29 phòng, ban, chi cục và 155 đầu mối đơn vị...
Quá trình trên, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã có được bài học kinh nghiệm trong xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức xây dựng Đảng "vừa hồng", "vừa chuyên". Đây là nhiệm vụ hết sức cần thiết, cấp bách, là công việc phải được đặt lên hàng đầu, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các cấp ủy trong toàn Đảng bộ tỉnh đã chuẩn hóa được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh đã triển khai các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng. Với nguyên tắc "vì việc chọn người", các khâu chính được tỉnh tập trung từ tuyển chọn đầu vào đến bố trí công tác phù hợp chuyên môn, kinh nghiệm và khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo chức danh, vị trí việc làm. Gắn liền với đó, lãnh đạo tỉnh coi trọng siết chặt kỷ cương, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tạo môi trường rèn luyện để cán bộ ngành tổ chức xây dựng Đảng phấn đấu trưởng thành. Đội ngũ cán bộ ngành của Bắc Ninh, những năm gần đây đã có sự phát triển về số lượng và chất lượng, trình độ, năng lực được nâng lên. Toàn tỉnh hiện có gần 49% cán bộ ngành đạt trình độ thạc sĩ, hơn 58% có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Đội ngũ này có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, theo yêu cầu nhiệm vụ. Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Nguyễn Quốc Chung nhìn nhận, đây chính là đội ngũ tham mưu công tác củng cố, kiện toàn sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh, lộ trình tỉnh phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện đại, văn minh đạt hiệu quả.
Thực tế ghi nhận ở Yên Bái, từ yêu cầu nhiệm vụ cùng những hạn chế, bất cập trước đây trong lĩnh vực công tác này, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái nhiều năm qua đã ban hành các giải pháp, lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành ở tỉnh. Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Chu Đình Ngữ cho biết, đội ngũ cán bộ, công chức của ngành được cơ cấu sắp xếp lại với cơ cấu khoa học, hợp lý phục vụ công tác tham mưu, giúp việc hiệu quả. Quá trình này, tỉnh coi trọng đổi mới quy trình đánh giá cán bộ; quan tâm phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí những cán bộ có năng lực vào các chức danh lãnh đạo ở các cấp. Trong cơ chế vận hành, từng cấp ủy duy trì chế độ "giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm" gắn với chức trách được giao. Hiện, cán bộ toàn ngành của tỉnh có 100% đạt trình độ từ đại học trở lên, trong đó trình độ thạc sĩ chiếm 17%; cao cấp, cử nhân lý luận chính trị chiếm 38%; nữ chiếm 42%... Đội ngũ cán bộ ngành được đào tạo cơ bản, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín công tác, góp phần tạo hiệu quả công tác tham mưu cho cấp ủy các cấp trong sắp xếp, xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của tỉnh theo tinh thần đổi mới.
Theo báo nhân dân

QUÂN - DÂN ĐOÀN KẾT LẬP KỲ TÍCH LỊCH SỬ


Xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Quân đội ta mãi mãi xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân... Là “Bộ đội Cụ Hồ”, chúng ta đều có quyền tự hào chính đáng về truyền thống hào hùng hết sức vẻ vang này.
Trong mỗi chặng đường chiến đấu và trưởng thành, càng gian khó, hiểm nguy, thì hình ảnh và truyền thống vẻ vang của Quân đội càng sáng ngời những đức tính tốt đẹp: Sự tận tụy, dũng cảm, hy sinh hết lòng vì nước, vì dân... một nét văn hóa và nhân văn sâu sắc. Điều ấn tượng trên được ghi đậm trong những năm gần đây với việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở Biển Đông; Quân đội còn là lực lượng nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Đặc biệt là trong phòng, chống dịch Covid-19. Đại dịch Covid-19 đã diễn ra với chủng Delta nguy hiểm của giai đoạn 4, là sự thử thách khốc liệt đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Chính trong cơn hiểm nghèo này, bằng trách nhiệm với toàn Đảng, toàn dân, Quân đội ta từ Bắc chí Nam đã làm tất cả mọi việc có thể để giúp dân và cao hơn nữa trong thời điểm nghiệt ngã nhất là để cứu dân. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã khẳng định trong lễ phát động thi đua ngày 23-8-2021: “Ở đâu nhân dân cần, ở đâu có khó khăn thì ở đó, có bộ đội”, hay khẩu hiệu mà Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân Khu 7 đã phát động trong toàn Quân Khu: “Chống dịch cứu dân”; của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9: “An sinh để an dân”, “Vững vàng nơi tuyến đầu, sẵn sàng nơi tuyến sau”… những phương châm hành động đậm nét văn hóa, nhân văn với ý nghĩa chính trị sâu sắc làm xúc động lòng người.
Lược lại những chủ trương của Đảng và Nhà nước được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng triển khai cho thấy diễn biến của đại dịch đến đâu thì hành động của Quân đội ta chủ động, thích ứng kịp thời đến đó.
Ngay từ đầu, Quân đội, Công an cùng các lực lượng chuyên ngành khác đã kịp thời hỗ trợ các địa phương đang bùng phát dịch. Rõ nét nhất là nhường doanh trại để cách ly các ca nhiễm và nguy cơ bị lây nhiễm cao; tổ chức quản lý và phục vụ chu đáo, tận tình đã góp phần giành thắng lợi giai đoạn đầu phòng, chống dịch ở nước ta.
Vào thời điểm đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh nhất ở giai đoạn 4, tập trung khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cùng các lực lượng khác, Quân đội với hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ khắp trên khắp mọi miền của đất nước đã kịp thời hỗ trợ hệ thống chính trị cơ sở, “các pháo đài” chống dịch đang căng mình chiến đấu sau nhiều tháng đương đầu với con virus SARS-CoV-2 chủng Delta cực kỳ nguy hiểm.
Trong cuộc chiến đấu gian khổ, các lực lượng trong toàn quân đã nêu cao đức tính tận tụy quên mình để cứu dân. “Đối tượng tác chiến” của quân đội ta lúc này là con virus SARS-CoV-2 chủng Delta. Và lực lượng quân y, phối hợp cùng các lực lượng khác của Trung ương và địa phương là lực lượng trực tiếp chiến đấu trên “chiến trường” nóng bỏng này. Hàng vạn y, bác sĩ, nhân viên y tế, sinh viên các trường đại học, chuyên ngành y tham gia vào các nhóm công việc quan trọng nhất, từ việc xét nghiệm quy mô cộng đồng, truy vết F0 để quản lý và điều trị, đến việc tiêm chủng thần tốc tạo lá chắn bảo vệ dân; tham gia tổ chức, điều trị ở nhiều tầng cho đến cấp cơ sở xã, phường với các tổ quân y thường trực và lưu động đã thực sự góp phần giảm tải, giảm áp lực đang đè nặng lên hệ thống y tế của Thành phố.
Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” tham gia giúp dân, chia sẻ những khó khăn, cơ cực của nhân dân trong phòng, chống dịch; qua việc tổ chức phối hợp hoạt động cùng cộng đồng các doanh nghiệp, những nhà thiện nguyện với nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả như: “Tất cả vì tuyến đầu chống dịch”, “Nhà trọ không đồng”, “Gian hàng không đồng”, “Cây ATM gạo tình nghĩa”, “Bữa cơm nghĩa tình”, “Chuyến xe yêu thương chung tay vượt qua đại dịch Covid-19”... nhiều hoạt động giúp dân tiêu thụ nông sản, hỗ trợ hộ nghèo... Đặc biệt, nhiều cơ quan, đơn vị trong toàn quân trích quỹ, huy động sản phẩm tăng gia sản xuất, vận động cán bộ, chiến sĩ tiết kiệm chia sẻ khó khăn cùng nhân dân... Cùng chính quyền địa phương, hệ thống chính trị cơ sở tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các quy định phòng, chống dịch, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại các “điểm nóng”, các trung tâm dịch đang bùng phát lây lan mạnh cũng như trên biên giới đất liền và trên biển.
Những ngày đầu tháng 10-2021, khi trọng điểm dịch ở Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nới lỏng giãn cách và sau đó thực hiện Nghị quyết 128 của Chính phủ “Quy định tạm thời thích ứng an toàn, linh hoạt dịch Covid-19”, là thời điểm các lực lượng vũ trang nói chung và Quân đội ta nói riêng chủ động phối hợp với chính quyền Thành phố và các địa phương có liên quan đưa dân về quê, giảm thiểu tối đa những rủi ro, trở ngại, bức xúc không đáng có.
Trong giúp dân phòng chống dịch, cán bộ, chiến sĩ đã làm mọi việc khi có yêu cầu, có việc, không có trường lớp nào dạy, không nằm trong khoa mục huấn luyện nào của nhà trường. Tất cả đều vận dụng một cách sáng tạo bằng ý chí, sự quyết tâm cao, sự tận tụy, vì nghĩa cử trước những tổn thương đau lòng của nhân dân. Chúng ta vô cùng tự hào về nét đẹp văn hóa này.
Gắn bó và phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam đã căng mình phòng, chống dịch. Sau hơn bốn tháng thực hiện giãn cách xã hội và sau đó thực hiện Nghị quyết 128 của Chính phủ, các hoạt động của toàn Thành phố dần dần đi vào ổn định, cuộc sống người dân từng bước trở lại bình thường. Chính trong thời khắc ấy, lãnh đạo Thành phố luôn khẳng định: Chúng ta không được chủ quan, nhưng phải vững tin vào khả năng Thành phố sẽ phòng, chống dịch thành công, phấn đấu thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” mà Chính phủ đã đề ra. Thực hiện quyết tâm đó, Thành ủy đã chủ động ban hành nghị quyết cho giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế khi Thành phố cơ bản kiểm soát được dịch bệnh, được hơn 10 triệu dân Thành phố chung sức, đồng lòng tham gia.
Hơn một năm nhìn lại, với cuộc sống “bình thường mới”, các hoạt động kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đã hồi phục ngoạn mục ngoài sự mong đợi.
Dồn sức thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, dài hạn, nhiều công trình tạo động lực cho Thành phố phát triển như: Cầu Thủ Thiêm 2, đường Song Hành Võ Văn Kiệt, Rạch Xuyên Tâm, cải tạo Kênh Nước Đen; các công trình dự án liên kết vùng như dự án đường Vành đai 3 cùng tuyến Metro Bến Thành - Suối Tiên, góp phần giải điểm nghẽn cho hạ tầng đô thị của Thành phố và vùng phụ cận cùng nhiều vấn đề bức xúc an sinh xã hội… Nhiều dự án phát triển trong tương lai gần như đường Vành đai 4… các yếu tố ưu tiên cho chuyển đổi tăng trưởng: phát triển công nghệ; tổ chức và nhân sự; nguồn lực tài chính ngân sách; nguồn lực đất đai; mở cửa hội nhập thu hút đầu tư… đã và đang được các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân bàn thảo, phân tích một cách xác đáng.
Trong sự tất bật dồn sức cho sự phát triển, Thành phố đã chủ động đề xuất Trung ương có những cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội hơn so với Nghị quyết 54 của Quốc hội Khoá XIV cũng như cơ chế, chính sách để Thành phố Thủ Đức thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương: Thành phố trực thuộc Thành phố với mục tiêu trở thành “Cực tăng trưởng mới” của Thành phố Hồ Chí Minh, Khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước - một kỳ vọng lớn lao!
Trước mắt, Thành phố còn vô cùng khó khăn phải vượt qua để phát triển bền vững. Nhưng chúng ta tin rằng, với quyết tâm và nỗ lực của Thành phố, sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả của Trung ương qua phát biểu của đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng khi làm việc với Thành phố vào cuối tháng 9-2022, sẽ tạo động lực mới cho Thành phố phát triển. Nhất định sẽ thực hiện thành công 4 chương trình phát triển với 51 nội dung đề án, các chương trình thành phần mà Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ Thành phố đã đề ra.
Quân, dân đoàn kết chung sức, đồng lòng vượt qua thời điểm hiểm nghèo lập kỳ tích lịch sử - một mốc son chói lọi của Quân đội nhân dân Việt Nam và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng./.
ST
Có thể là hình ảnh về một hoặc nhiều người, mọi người đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUANG VINH MUÔN NĂM! ひ I'

CỘI NGUỒN SỨC MẠNH VÔ ĐỊCH CỦA ĐẢNG


Thực tiễn lịch sử dân tộc ta, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới đã chứng minh một chân lý: Có dân là có tất cả; mất dân cũng có nghĩa là mất tất cả.
Sức mạnh của Đảng nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhân dân: “Dân là gốc của nước, gốc có vững thì nước mới yên”. Ông cha ta đã để lại những tư tưởng bất hủ, như: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”; “Lật thuyền mới biết dân như nước”; “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; Cái gốc của nhạc là ở nơi “thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”... An Dương Vương chủ quan, mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không biết dựa vào sức mạnh nhân dân để chống giặc ngoại xâm nên kết cục là mất nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đặt vị trí của nhân dân lên một tầm cao mới, khẳng định nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, tạo ra mọi của cải, vật chất và những giá trị văn hóa, tinh thần. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm rất độc đáo, sáng tạo về nhân dân; không những khẳng định dân là gốc của nước, của cách mạng mà còn đặt nhân dân ở vị trí tối thượng. Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”; “... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Người nhấn mạnh: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân; nhân dân cần Đảng dẫn đường.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn tỏ rõ là một Đảng cách mạng chân chính, hết lòng phấn đấu vì nhân dân, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn được củng cố, tăng cường. Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, đó chính là nền tảng, nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Lênin từng căn dặn rằng: Nguy cơ lớn nhất của một đảng cầm quyền là sai lầm về đường lối và quan liêu, xa rời quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Đảng phải gần dân, trọng dân, tin dân, học dân để lãnh đạo dân. Củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành, tồn tại và phát triển của Đảng ta...
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập của Đảng, đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên của đảng cầm quyền phải luôn nêu cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính; phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Có như vậy, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân mới được củng cố, tăng cường. Khi Đảng đã gắn bó máu thịt với dân, dân tin yêu Đảng thì Đảng sẽ có sức mạnh vô địch để vượt qua mọi thác ghềnh, vững tay chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam thẳng hướng đi lên, cập bến quang vinh.
1 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 1/11:


“…Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”[1].
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.
ST

Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản

NGHỆ THUẬT DÙNG MƯU CỦA THƯỢNG TƯỚNG HOÀNG MINH THẢO

 

Trong một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (lúc đó là Trung tướng) ra Hà Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu câu hỏi: “Nếu đánh Tây Nguyên thì đánh ở đâu trước?”.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: “Đánh Tây Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, là hậu cứ của địch, là nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: Đánh lên bắc Tây Nguyên, xuống đồng bằng ven biển, vào miền Đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam ra làm đôi”.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo sau này nhận định: “Ta ghìm địch ở đầu mạnh (Bắc Tây Nguyên) để phá vỡ địch ở đầu yếu (Nam Tây Nguyên). Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”.
Trong "Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – trang 126" của tướng Giáp có viết: “Trong buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu ý kiến: Khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi sơ hở nhất.
Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân và thiếu nước. Tôi rất tán thành. Sau này ý kiến đó của ông được Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu đồng tình chấp nhận".
⭐
Tướng Hoàng Minh Thảo là linh hồn của chiến dịch Tây Nguyên. Nguyên lý của ông: “Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời. Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”.
Ảnh: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
ST

Có thể là hình ảnh về 2 người, mọi người đang đứng và văn bản