Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

“THẾ TRẬN LÒNG DÂN" LÀ MỘT TRONG NHỮNG MẠCH NGUỒN SỨC MẠNH NỘI SINH CỦA QUỐC GIA - DÂN TỘC

Yếu tố “lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau; trong đó, “lòng dân” bao giờ cũng tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. “Thế trận lòng dân” được xây dựng vững chắc sẽ có tác động tích cực, làm cho yếu tố “lòng dân” phát triển hài hòa, lành mạnh và hướng tới thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Song, trên thực tế, yếu tố “lòng dân” không tự nhiên trở thành “thế trận lòng dân” và “thế trận lòng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này nhưng cũng có thể không vững ở thời điểm khác, giai đoạn khác và không phải cứ xây dựng vững mạnh rồi là xong, mà phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông qua đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đồng thời, thế trận này phải được đặt vào trạng thái được triển khai thống nhất trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội. Ngoài ra, môi trường chính trị - xã hội cũng là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự hình thành và phát triển của “thế trận lòng dân”. Xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, không khó để nhận thấy việc “quy tụ lòng người” là bài học kinh nghiệm quý báu đóng vai trò quyết định đến thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. “Thế trận lòng dân” là loại hình thế trận đặc biệt, là một trong những mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia - dân tộc và được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là nền tảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia, dân tộc, là thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là cội nguồn sức mạnh sâu xa xuất phát từ bản sắc văn hóa Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc luôn là chất kết dính muôn người và trở thành nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Đây chính là cơ sở, nền tảng và cội nguồn sâu xa để dân tộc ta huy động sức mạnh tiềm tàng, giành độc lập tự chủ sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Dưới thời nhà Trần, tư tưởng “chúng chí thành thành” và chủ trương “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” là nhân tố quyết định trong 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, là nét nổi bật về nghệ thuật đánh giặc giữ nước mang đậm tính minh triết của dân tộc ta. Trái lại, dưới thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, trước họa xâm lăng mà trăm vạn người trăm vạn lòng thì dù có quân đông tướng giỏi, thành cao hào sâu, nhưng Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn phải thốt lên “thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Và đúng là “dân không theo” nên công cuộc giữ nước của nhà Hồ khi đó thất bại. Bằng mưu lược và trí tuệ của mình, Nguyễn Trãi đã khái quát cô đọng về sức mạnh của nhân dân, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lật thuyền mới biết sức dân như nước”, có dân là có tất cả, không được lòng dân là mất tất cả, để rút ra vấn đề căn cốt nhất, đó là “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”. Nhờ đó, khởi nghĩa Lam Sơn đã nhanh chóng phát triển thành biển lửa kháng chiến của cả dân tộc và giành thắng lợi. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc”, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”(1). Nhân hòa ở đây thực chất là tinh thần hòa hợp, đồng lòng của toàn dân, biểu hiện tập trung ở lòng yêu nước, sự đoàn kết toàn dân “muôn người như một”, được ví như “bức thành đồng” vững chắc, vô địch mà không có đội quân xâm lăng nào có thể công phá được. Đó cũng chính là sức mạnh của cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí, quyết tâm đánh giặc giữ nước. Không chỉ vậy, Đảng ta còn chú trọng giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, sáng tạo nhiều hình thức tổ chức, tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, làm cho sự đoàn kết, đồng lòng ấy không ngừng được tăng cường vững chắc, được bổ sung những yếu tố mới, độc đáo, hiệu quả, góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến Đại hội lần thứ X, Đảng lần đầu tiên sử dụng cụm từ “thế trận lòng dân” và xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Bổ sung và phát triển quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(2). Để củng cố và tăng cường hơn nữa “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(3) trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”; đã ban hành nhiều chính sách sát thực tiễn, hợp lòng dân, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước. Đồng thời, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh và bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”. Nhờ đó, diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân “thay da đổi thịt”, mọi người dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như ước nguyện của Bác Hồ. Cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, đồng bộ hệ thống pháp luật, Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; thực thi quyền con người, quyền công dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính… được tăng cường và có bước chuyển biến tích cực. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được chú trọng, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân; trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài cũng cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ quan, việc xây dựng “thế trận lòng dân” còn có mặt hạn chế. Lợi dụng những yếu kém trong quản lý, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá, làm xuất hiện những sai lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống của dân tộc và giá trị con người Việt Nam, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong xã hội, làm cho một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân”. Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy, xây dựng “thế trận lòng dân” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách cần phải tăng cường đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét