Mặc dù các cấp chính quyền, cơ quan chức năng đã có nhiều giải pháp nhưng thời gian qua, nhất là từ khi dịch COVID-19 bùng phát, tình trạng phát ngôn hồ đồ, vô căn cứ, thiếu ý thức xây dựng diễn ra khá phức tạp. Đặc biệt, trên mạng xã hội, xuất hiện không ít phát ngôn trái với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, hùa theo những luận điệu bóp méo, xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Nguyên nhân của tình trạng trên
có nhiều, nhưng cơ bản nhất vẫn là do nhận thức về quyền tự do nói chung và quyền
tự do ngôn luận nói riêng chưa đúng và đầy đủ. Trên thực tế, không ít người vẫn
xem quyền tự do nói chung và quyền tự do ngôn luận nói riêng là quyền tuyệt đối
vô hạn độ nên dẫn đến lẫn lộn giữa quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân.
Do đó, để đấu tranh ngăn chặn tình trạng trên, chúng ta phải làm nhiều việc,
trong đó tuyên truyền giáo dục để mọi công dân nhận thức đúng và đầy đủ về quyền
tự do ngôn luận là rất quan trọng.
Quyền tự do ngôn luận là một
trong những quyền cơ bản nhất của con người, Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự
do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền
bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không có
giới hạn về biên giới”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực,
hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ
thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn
của họ”.
Nhưng nói như thế không có nghĩa
quyền tự do ngôn luận là quyền tự do tuyệt đối không giới hạn. Theo quy định của
Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, việc thực hiện những quy định trên kèm
theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Để: “Tôn trọng các quyền hoặc uy
tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc
đạo đức của công chúng”, việc thực hiện các quy định trên có thể phải chịu một
số hạn chế nhất định.
Trên cơ sở ấy và xuất phát từ điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nước, luật pháp của các quốc gia đều công nhận
quyền tự do ngôn luận, nhưng đó không phải là quyền tự do tuyệt đối. Chẳng hạn
như tại nước Mỹ nơi được ví như “thiên đường của tự do” trong Điều 2385, Chương
115 - Bộ luật Hình sự chỉ rõ: “Nghiêm cấm in ấn, xuất bản, biên tập, phát
thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu
viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm,
sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất
kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực và bạo lực”.
Cũng như mọi quốc gia trên thế giới,
ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định trong Hiến pháp
năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định” và nhiều đạo luật quan trọng như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng…
Tuy nhiên, cũng như các quyền
khác của công dân, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải
trong khuôn khổ pháp luật quy định. Theo đó, khi thực hiện quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế
độ xã hội, bảo vệ nhà nước và không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người
khác.
Các hành vi bị nghiêm cấm khi thực
hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, bao gồm: Đăng, phát thông tin chống
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung: Xuyên tạc, phỉ báng,
phủ nhận chính quyền nhân dân; Bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân; Gây chiến
tranh tâm lý. Đăng, phát thông tin có nội dung: Gây chia rẽ giữa các tầng lớp
nhân dân, giữa Nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân
dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Gây hằn thù, kỳ thị,
chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam; Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa
người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền
nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; xúc phạm niềm tin
tín ngưỡng, tôn giáo; Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế.
Đăng, phát thông tin có nội dung kích động chiến tranh nhằm chống lại độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc
lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc. Tiết
lộ thông tin thuộc danh Mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật
khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng không gian mạng gồm: Hành vi sử dụng
không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật
về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi
giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về
giới, phân biệt chủng tộc; Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân,
gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ
quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người;
đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Xúi giục, lôi kéo, kích động
người khác phạm tội.
Như vậy, có thể khẳng định, hệ thống
pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương
thích với luật quốc tế về quyền con người. Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm
quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng, đó
là điều không thể phủ nhận, xuyên tạc. Nhận thức đúng và đầy đủ về quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí là cơ sở để mỗi công dân thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét