Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

NHẬN THỨC ĐÚNG VÀ ĐẦY ĐỦ VỀ TỰ DO NGÔN LUẬN

     Mặc dù các cấp chính quyền, cơ quan chức năng đã có nhiều giải pháp nhưng thời gian qua, nhất là từ khi dịch COVID-19 bùng phát, tình trạng phát ngôn hồ đồ, vô căn cứ, thiếu ý thức xây dựng diễn ra khá phức tạp. Đặc biệt, trên mạng xã hội, xuất hiện không ít phát ngôn trái với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, hùa theo những luận điệu bóp méo, xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng cơ bản nhất vẫn là do nhận thức về quyền tự do nói chung và quyền tự do ngôn luận nói riêng chưa đúng và đầy đủ. Trên thực tế, không ít người vẫn xem quyền tự do nói chung và quyền tự do ngôn luận nói riêng là quyền tuyệt đối vô hạn độ nên dẫn đến lẫn lộn giữa quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Do đó, để đấu tranh ngăn chặn tình trạng trên, chúng ta phải làm nhiều việc, trong đó tuyên truyền giáo dục để mọi công dân nhận thức đúng và đầy đủ về quyền tự do ngôn luận là rất quan trọng.

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”.

Nhưng nói như thế không có nghĩa quyền tự do ngôn luận là quyền tự do tuyệt đối không giới hạn. Theo quy định của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, việc thực hiện những quy định trên kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Để: “Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”, việc thực hiện các quy định trên có thể phải chịu một số hạn chế nhất định.

Trên cơ sở ấy và xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nước, luật pháp của các quốc gia đều công nhận quyền tự do ngôn luận, nhưng đó không phải là quyền tự do tuyệt đối. Chẳng hạn như tại nước Mỹ nơi được ví như “thiên đường của tự do” trong Điều 2385, Chương 115 - Bộ luật Hình sự chỉ rõ: “Nghiêm cấm in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực và bạo lực”.

Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và nhiều đạo luật quan trọng như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng…

Tuy nhiên, cũng như các quyền khác của công dân, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải trong khuôn khổ pháp luật quy định. Theo đó, khi thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ nhà nước và không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác.

Các hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, bao gồm: Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung: Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; Bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân; Gây chiến tranh tâm lý. Đăng, phát thông tin có nội dung: Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa Nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế. Đăng, phát thông tin có nội dung kích động chiến tranh nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc. Tiết lộ thông tin thuộc danh Mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng không gian mạng gồm: Hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Như vậy, có thể khẳng định, hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng, đó là điều không thể phủ nhận, xuyên tạc. Nhận thức đúng và đầy đủ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là cơ sở để mỗi công dân thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác./.

                                                                                                                        TRÍ TUỆ TỎA SÁNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét