Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỀ NGHỊ SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ TIỀN LƯƠNG, PHỤ CẤP, NHÀ Ở; BỔ NHIỆM, PHONG THĂNG QUÂN HÀM, TUỔI NGHỈ HƯU,...
Di chúc của Bác cùng với toàn bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta. Di chúc còn là sự thể hiện trách nhiệm, tình yêu thương bao la của
Bác dành cho những người ở lại. Nhưng trước tiên là dành cho Dân, cho
Đảng. Bác viết: “… tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác chuẩn bị
cho chuyến đi xa bằng những đúc kết ở tầm cao của bậc vĩ nhân, nhưng
lời lẽ lại hết sức giản dị cùng những chỉ dẫn chiến lược là
những dặn dò cụ thể nhưng vô cùng sâu sắc… Ai đọc cũng thấy mình
được quan tâm, ân cần bằng trái tim mênh mông “Ôm cả non sông, mọi kiếp
người”...
Trước hết phải có Đảng vững mạnh. Đây là vấn đề Người luôn đặt
lên hàng đầu, luôn được quan tâm trước hết. Bởi, để làm cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người “trước
hết phải có Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Bác
tổng kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác”. Cần hiểu đúng: Thắng lợi rất to lớn, thắng lợi
trước hết là do Đảng gắn bó với Nhân dân; là do đoàn kết chặt chẽ,
phát huy được “truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của Dân ta”. Đoàn kết
có vai trò cực kỳ to lớn, vì thế Người dặn: “Trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để xứng đáng với
vai trò lãnh đạo, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của Nhân dân”.
Với tầm
nhìn xa, trông rộng, Bác đã dự báo: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,… Theo ý tôi, việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh
đốn lại Đảng, làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”. Tuân theo chỉ dẫn của Người, suốt
55 năm qua, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn xác
định đó là nhiệm vụ then chốt. Nhờ đó, chúng ta đã giành được thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta đã thực hiện một cách xuất sắc Di chúc thiêng liêng của Người. Điều mong ước và lời căn
dặn thiết tha nhất của Bác đã thành sự thật. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập,
thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc đã sum họp một nhà!
Sau khi cố gắng hàn gắn vết thương do
đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược, ngay khi bắt tay vào thực
hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã đề ra một trong những nguyên tắc chỉ
đạo đổi mới là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán những
khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe,
tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo
của Đảng và công tác xây dựng đảng.
Liên tục qua các nhiệm kỳ, Đảng
đều có nghị quyết chuyên đề để thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây
dựng Đảng. Gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ. Các nghị quyết đã đề ra những chủ trương và
biện pháp quan trọng nhằm xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, khắc phục những yếu kém trong hệ
thống chính trị. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội từ đó được mở
rộng, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa và xã hội phát triển. Qua các đợt
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phê bình và tự phê bình đã có những
chuyển biến nhất định, sức mạnh và tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và
đảng viên được nâng lên.
Phát huy vai trò tiên phong, gương
mẫu là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, BCH Trung ương đã ban hành 3 quy định về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất. Nêu
gương thể hiện rõ ràng nhất việc học tập và làm theo Bác. Đúng như
Người răn dạy: Mình phải chính tâm tu thân nghĩa là việc gì cũng phải làm
kiểu mẫu; có thế mới trị quốc bình thiên hạ được… Muốn cải tạo xã hội thì lòng
mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội.
Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được.
Đầu tiên là chăm lo đời sống của Nhân dân
Kế thừa
truyền thống nhân - nghĩa của dân tộc, nắm vững quan điểm quần chúng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác chỉ rõ: “… Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm,
hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân
dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất
trung thành với Đảng”. “Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta
nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta”.
Vì vậy: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.
Thực hiện
Di chúc của Người, từ một nước nghèo, nhiều năm chiến tranh, hậu quả nặng nề,
sau 10 năm đổi mới (1986-1996), Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội; sau 25 năm (năm 2010) đã ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Nhiều học giả nước
ngoài coi đó là “những thành tích ngoạn mục”. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
ngày càng được cải thiện, mô hình tăng trưởng dịch chuyển dần sang chiều sâu….
Các lĩnh vực
văn hóa, xã hội được quan tâm, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp tích
cực vào việc duy trì ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Triển khai có hiệu quả các mục
tiêu giảm nghèo bền vững, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều
Học và
làm theo Di chúc của Bác, chúng ta hiểu: Dân và Đảng là một câu chuyện
chủ yếu mà Người để lại.
“Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay!”
(Tố Hữu)
Sưu tầm
Khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ
đại của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của dân tộc Việt Nam. Trong đó có những chỉ dẫn của Người về bảo vệ môi trường,
tài nguyên thiên nhiên, nhất là việc khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm,
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả
các yếu tố cơ bản của môi trường tự nhiên như đất đai, nguồn nước, khoáng sản,
rừng… là một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo vệ môi trường. Con người
không thể sống thiếu nước, ánh sáng, không khí và đất đai. Khi những thứ này
thiếu hụt sẽ đe dọa đến sự sống còn và phát triển của con người. Chính vì vậy,
phải khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các yếu tố của môi
trường tự nhiên là để góp phần bảo vệ môi trường sống của con người. Với tầm
nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về khai thác và sử
dụng tài nguyên ngay từ khi nhân dân ta bắt tay vào khôi phục và xây dựng đất
nước. Cụ thể:
Một là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và
hiệu quả tài nguyên rừng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khai thác và sử dụng tài
nguyên phải có kế hoạch, phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước và phải gắn liền với bảo vệ môi trường. Khai thác gắn với bảo
vệ chứ không phải đánh đổi và bất chấp bằng mọi giá. Trong Lời kêu gọi đồng bào,
nhân dân thi đua sản xuất và tiết kiệm năm 1965, Người khuyên mọi người: “Khai
thác gỗ đi đôi với tu bổ và bảo vệ rừng; chú ý trồng cây, gây rừng ở bờ biển”.
Người xem bảo vệ rừng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng như việc bảo vệ nhà
cửa, ruộng vườn của mình vậy; Người nhắc nhở cán bộ phải lo bảo vệ rừng, phải
khéo vận động nhân dân trong việc khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài
nguyên rừng. Người luôn tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để kêu gọi mọi người khai
thác rừng phải luôn có kế hoạch bảo vệ và tu bổ rừng, làm cho rừng ngày càng
phát triển rộng lớn hơn, môi trường sẽ trong lành hơn. Đối với Người, rừng là
“vàng” của quốc gia nên “đồng bào cần phải cố gắng hoàn thành tốt kế hoạch đã
định, đồng thời phải chú ý bảo vệ rừng… Tục ngữ nói: “Rừng vàng, biển bạc”.
Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng ta ”.
Hai là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và
hiệu quả tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản, trong quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, phát triển đất
nước. Nhưng để kinh tế phát triển lâu dài, Người luôn nhắc nhở nhân dân khai
thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này. Trong buổi nói chuyện với các đại
biểu công nhân và cán bộ Ngành Than, Người cũng đã đề cao giá trị của tài
nguyên thiên nhiên: “Người ta thường gọi than là “vàng đen”. Nó rất cần thiết
cho công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, vận tải, quốc phòng và đời sống
nhân dân”. Nhưng Người luôn xác định cần tới mức nào, giá trị tới mức nào cũng
phải khai thác có kế hoạch, làm theo kế hoạch. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội cần rất nhiều than.
Mục đích của đất nước là sản xuất thật nhiều than nhưng cần phải thống nhất,
phải đúng mục đích, phải tổ chức và quản lý thật tốt, không để khai thác tự
phát, vừa không kiểm soát được, vừa ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
Ba là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất nông nghiệp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi người trong
quá trình canh tác không được lãng phí: “Hiện còn có hợp tác xã bỏ sơn, cọ
không thu, đất cày rồi không cấy, không săn sóc để trâu bò chết; mỗi lần “liên
hoan”, có xã giết từ 30 đến 50 lợn, lãng phí bừa bãi của hợp tác xã và của xã
viên”. Bên cạnh đó, Người luôn nhắc nhở việc trồng cây phải phù hợp với mùa vụ,
thời tiết. Người mượn ca dao “Bao giờ đom đóm bay ra. Hoa gạo rụng xuống thì cà
mới lên” để nhắc nhở người sản xuất. Trong khai thác thủy hải sản, Người căn
dặn: “ Ngoài việc đánh cá phải chú ý đến nuôi cá”. Dù trồng trọt hay chăn nuôi,
Người đều đề cao sự khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các yếu tố
tự nhiên và bảo vệ môi trường.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan
trọng của đất nước, nên cần được đánh giá đầy đủ, quản lý một cách hiệu quả,
bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước
mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm,
phù hợp với từng giai đoạn. Cần tiếp tục nâng cao chất lượng quy hoạch,
quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên
quốc gia. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở
dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết
hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp. Quy hoạch khai
thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ
động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước
xuyên quốc gia. Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình
trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là
vùng gần bờ. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo,
các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền
thống.
Với tầm
nhìn đi trước thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò to lớn của
môi trường và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của việc bảo vệ môi trường, tài
nguyên thiên nhiên. Trong tư tưởng của Người, đây là một nội dung lớn. Người
đã lên án, phê phán hành vi tàn phá tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng đến đời sống
con người. Để bảo vệ môi trường thì phải tăng cường trồng cây gây rừng, phải
tái tạo, bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác để từng bước nâng cao
chất lượng môi trường. Ngày nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,
dưới sự tác động các quy luật của nền kinh tế thị trường, nhiều cá nhân, tổ chức
chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mà đã làm ảnh hưởng, xâm hại rất lớn đến môi trường
sống. Trước tình trạng khai thác và sử dụng không hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, con người đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng như
tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ngộ độc thực phẩm,
bệnh tật, nhất là trước tác động của biến đổi khí hậu hiện nay, chúng ta càng
thấy ý nghĩa và giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên, môi trường./.
Sưu tầm
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cương lĩnh hành động phụng sự Tổ quốc, nhân dân
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
sự kết tinh cả cuộc đời của Bác, đúc kết tư tưởng, đạo đức, nhân cách, bản
lĩnh, tâm hồn, tình cảm của một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người luôn vì nước,
vì dân. Những nội dung đó là một cương lĩnh hành động, được liên kết xuyên suốt
bởi một sợi chỉ đỏ là ý thức phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc và nhân loại.
Chỉ hơn 1.000 từ, nhưng “mấy lời để lại” - Di chúc của Bác Hồ
là sự kết tinh cả cuộc đời của Bác, đúc kết tư tưởng, đạo đức, nhân cách, bản
lĩnh, tâm hồn, tình cảm của một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người luôn vì nước
vì dân. Di chúc của Bác Hồ đã đề cập toàn diện những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là văn kiện lịch sử vô giá có ý nghĩa lý luận sâu sắc, thể hiện
tầm nhìn xa trông rộng, định hướng cho tương lai. Những nội dung đó là một
cương lĩnh hành động, được liên kết xuyên suốt bởi một sợi chỉ đỏ là ý thức
phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc và nhân loại.
Ngay từ khi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951,
trong lời phát biểu của mình Bác đã tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích
của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng
sự Tổ quốc”. Đau đáu nỗi niềm phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, trong Di chúc Bác căn dặn trước hết đối với Đảng: “Trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình…”. Còn nhớ, sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi,
giành được chính quyền, Đảng trở thành đảng cầm quyền, Bác đã viết 10 bài báo
trong 4 tháng để nói về đạo đức cách mạng, nhằm giáo dục cán bộ chống bệnh kiêu
ngạo cộng sản, hách dịch, cửa quyền, lạm dụng chức vụ, tham ô, tham nhũng, lãng
phí quan liêu, xa rời nhân dân. Đến năm 1949 Bác lại nói “cán bộ các cơ quan,
đoàn thể, cấp cao thì thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ
công vi tư”. Vì vậy trong Di chúc Bác căn dặn cần phải nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình. Vì ở đâu đó thực hiện lơ là không thường xuyên, không nghiêm túc,
phê bình lấy lệ, hời hợt. Trong phê bình “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”, không lợi dụng phê bình bới lông tìm vết, tranh quyền đoạt vị, kéo bè
kéo cánh, nhưng cũng không nịnh bợ, dĩ hòa, dễ người dễ ta.
Bác chỉ bảo tận tình đối với công tác cán bộ, bởi theo Bác,
cán bộ là cái gốc của mọi công việc, đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Trong công tác đào tạo cán bộ, Bác dặn dò: Trước hết học là phải học làm người,
làm việc rồi mới làm cán bộ, học để phụng sự tổ chức, đoàn thể, phụng sự dân
tộc… Tư tưởng này vô cùng quan trọng, bởi đâu đó không ít người nghĩ học để làm
cán bộ rồi mới làm việc, mới làm người. Điều này trái với tư tưởng, đạo đức của
Bác.
Là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam, Bác Hồ luôn giữ vững tư tưởng xuyên suốt nhất quán, kiện định về tư cách
của Đảng cầm quyền, trong đó nền tảng là đạo đức của đảng viên. Bác đã nói rõ,
cách mạng muốn thành công trước hết phải có “Đảng cách mệnh”, tuy nhiên “Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng, đó là “đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình”. Di chúc của Bác nhấn mạnh vào vai trò, vị trí và tính tiền phong của
đảng cầm quyền. Một chính đảng cần phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng, có
nhiệm vụ làm cho dân giàu, nước mạnh. Bởi “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người
đảng viên luôn xác định phải trung thành, tận tụy phục vụ đất nước, phục vụ
Đảng, phục vụ Nhân dân. Bác yêu cầu mỗi đảng viên luôn ghi nhớ: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Di chúc của Bác không chỉ thể hiện sâu sắc tinh thần yêu
nước, yêu dân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân mà còn tỏa sáng tấm
lòng bao dung nhân ái đối với tất cả mọi người. Bác cho rằng: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân”. Tâm nguyện, khát vọng suốt đời của Bác cũng vì nhân dân:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang Pháp (ngày
30-5-1946), Bác nói: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi
Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc
ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ
quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ,
tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ,
bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
Bác căn dặn cán bộ, đảng viên: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân;
Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân. Bởi vậy nên việc
gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
“Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ
có lỗi. Vì vậy cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức
quan tâm đến đời sống của nhân dân”. “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột,
bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm
vụ. Cho nên Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền kinh tế và văn
hóa lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại
luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống
hằng ngày của nhân dân”.
Tình thương yêu của Bác trong Di chúc đối với mọi người thật
cụ thể, lo lắng chu đáo không quên sót một ai. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nhận định: Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn.
Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hằng ngày của
mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý có tình. Trong tình yêu đó có chỗ
cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu,
cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa
nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối,
lòng Chủ tịch Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui
mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Bác nói rằng: “Người Việt
Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng
ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.
Với tấm lòng trìu mến, Bác tin tưởng vào lực lượng thanh
niên, khẳng định thanh niên là chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Hơn thế nữa, đội quân chủ lực,
nguồn sức mạnh tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính
là nhờ các thế hệ thanh niên. Bác căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Bởi nếu lực lượng thanh niên
được giáo dục rèn luyện thử thách trong thực tiễn cách mạng thì chắc chắn sẽ
trở thành lực lượng hậu bị vững chắc của Đảng và của dân tộc. Chiến lược đối
với thế hệ trẻ của Bác không chỉ là cẩm nang cần thiết cho một giai đoạn cách
mạng cụ thể mà đó còn là yêu cầu quan trọng phục vụ mãi mãi sự nghiệp và lý
tưởng cách mạng.
Trong Di chúc, Bác còn ân cần dặn dò, quan tâm tới từng đối
tượng như thương, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ, người có công; phụ nữ; nông
dân. Đối với Bác, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Bác căn dặn, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt
để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân”. Di chúc của Bác căn dặn tỉ mỉ, chu đáo tới tất cả mọi người, không sót
một ai, toàn diện mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người.
Chính bởi vậy, Di chúc của Bác mang tầm vóc một cương lĩnh hành động, phụng sự
của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như
trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nửa thế kỷ quyết tâm thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta đã
vững vàng lãnh đạo đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt chính trị,
xã hội, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng đã đưa ra
nhiều giải pháp để giữ vững vai trò tiên phong lãnh đạo, đó là: Xác định nền
tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; lấy xây dựng và
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, hàng đầu, lâu dài; dựa vào Nhân dân để
xây dựng Đảng. Việc thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cùng với kết
quả của công cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, thoái hóa… đã và đang tạo sự phấn khởi, niềm tin trong nhân dân. Đó cũng
là cơ sở để Đảng và Nhân dân ta thực hiện được tâm nguyện của Bác: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Sưu tầm
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DẤU ẤN ĐỐI NGOẠI TRONG NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DẤU ẤN ĐỐI NGOẠI TRONG NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM!
Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác cácluận điệu sai trái, xuyên tạc
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia
trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh
truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.
Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong
công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và
phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi
ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế
tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất
nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất
nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới,
các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ... Bên cạnh đó, thực hiện
tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch,
bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử
chống đối.
Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là
đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông
tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng
bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của
dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm
thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế.
Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông
đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị
văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta,
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần
bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước
có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình
Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội
nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa
phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp
chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền
hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền
hình nước ngoài.
Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng
bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong
và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong
nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ
trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống,
hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước.
Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam
luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên
tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận ở Việt Nam./.
Núp bóng môi trường chống phá đất nước
Môi trường và ô nhiễm môi trường là
vấn đề mang tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ phát
triển kinh tế, chế độ chính trị, xã hội đều đang phải đối mặt với tình trạng ô
nhiễm môi trường. Tuy nhiên, với cách nhìn thiếu thiện chí và chống phá đất nước,
các thế lực thù địch đã đưa ra những quan điểm, thủ đoạn xuyên tạc cho rằng, chỉ
có ở Việt Nam mới có tình trạng ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các thế lực thù
địch còn vu cáo Việt Nam bắt bớ, bỏ tù những nhà hoạt động môi trường.
Môi trường là vấn đề toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều
quốc gia khác đang có nhiều nỗ lực, cố gắng cao nhất để giảm thiểu các hoạt
động gây ô nhiễm môi trường. Nhưng các thế lực có ý đồ xấu chống phá Việt Nam
luôn tìm cách để đào bới, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm. Chỉ một vụ việc
nhỏ liên quan đến xả thải ra môi trường, hay xây dựng các công trình làm ô
nhiễm nguồn nước... là ngay lập tức các đối tượng quy kết, quy chụp thành bản
chất của chế độ chính trị.
Nhiều đối tượng còn hô hào lập nhóm, tổ chức diễn đàn
trao đổi, thảo luận về vấn đề môi trường ở Việt Nam, nhưng thực chất là để kích
động, chống phá Việt Nam. Thiếu tướng Trần Kim Tuyến, nguyên Cục trưởng Cục
Phòng chống phản động, Bộ Công an cho biết: “Nói về những diễn đàn bảo vệ môi
trường thì theo tôi, cái mục đích của họ không phải là bảo vệ môi trường, mà là
lợi dụng vấn đề danh nghĩa bảo vệ môi trường để tiến hành những hoạt động phá
rối an ninh trật tự”.
Mạng xã hội đã và đang trở thành một công cụ hữu hiệu
để các đối tượng chống phá Việt Nam sử dụng để thổi phồng các vấn đề liên quan
đến môi trường ở Việt Nam, tạo thành những điểm nóng thu hút sự quan tâm của dư
luận. Đặc biệt, dưới sự điều hành của tổ chức phản động Việt Tân, các đối tượng
liên tục tung tin, hình ảnh về các hoạt động gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng, cắt ghép, nhào nặn thông tin nhằm làm cho người đọc mơ hồ,
hoang mang, hoài nghi, mất niềm tin vào chế độ.
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng,
tác động rất lớn từ biến đổi khí hậu và môi trường. Việt Nam cũng đã chung tay
cùng cộng đồng quốc tế để làm cho trái đất xanh hơn. Rất nhiều chương trình
được triển khai như trồng 1 tỷ cây xanh, giảm thiểu đun đốt xả thải khí CO2.
Tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 diễn ra vào tháng
12/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0”
vào năm 2050 và cam kết giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030, tham
gia tuyên bố về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Chúng
ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường
sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai
thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi
trường”. Như vậy, Việt Nam luôn tích cực, nỗ lực cố gắng để bảo đảm môi trường
sống trở nên trong sạch và thân thiện hơn. Đồng thời, luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho các tập thể, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Những
cá nhân, tổ chức nào vi phạm về môi trường sẽ bị xử lý công bằng, nghiêm minh,
đúng người, đúng tội./.
BIỂU HIỆN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH VÀ NGĂN CHẶN CÁC BIỂU HIỆN DÂN TÚY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2016 trở lại đây, những hình thức mới của chủ nghĩa dân tộc dân túy (Populist nationalism) đã trỗi dậy và trở thành mối đe dọa chính đối với trật tự, tự do quốc tế. Chưa bao giờ cụm từ “chủ nghĩa dân túy” lại được nhắc đến nhiều như vậy trên chính trường và báo chí thế giới, nhất là trong các dịp bầu cử, trưng cầu dân ý ở nhiều nước Âu, Mỹ.
“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan
Hệ thống báo
chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành
quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền tự do báo chí.
Thực tiễn sinh động
liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách
quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, báo chí
được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc
gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các
quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận,
tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ
ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật
Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân
biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm
2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để
công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo
chí phát huy đúng vai trò.
Chẳng thế mà chuyên gia phân tích
chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt
Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo
của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các
phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình
và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông
tin của Việt Nam.
Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều
hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí
tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ
dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã
hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo,
Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông
tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ
99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ
chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải
quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo
các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.
Nhìn vào những thành quả trong
bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông
tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất
vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức
Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF
xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên
nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế
giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.
Tự do báo chí được coi như một
trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm
và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức
năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí
phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành
“báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính
nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói
thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ
thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà
đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi
vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo
chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm
pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc
hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng
đều phải làm việc đó.
Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt
Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng
và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức,
cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con
số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm./.