Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

 

Đại đoàn kết toàn dân tộc - Cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam

Đảng luôn xác định, đoàn kết là giá trị cốt lõi, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 NHÂN DÂN ĐÓNG VAI TRÒ CHỦ THỂ, VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG  QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1), đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(2). Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”(3).

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Ngay sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng, đưa lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các tổ chức Mặt trận là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam). Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.

Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội, trong đó, người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Đại hội V của Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc như: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.

Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; (2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.

Đại hội IX nhấn mạnh: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Đại hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4).

Tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân…”.

Đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(5). Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)

ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC - CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA MỌI THÀNH CÔNG

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

Vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống nhất bởi hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh kéo dài chưa kịp được khắc phục, đất nước bị bao vây, cấm vận, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết…, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên.

Chỉ thị số 17-CT/TW của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của Mặt trận, đề cao vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, có ý nghĩa thiết thực đối với việc tạo ra sức mạnh nội sinh để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng; tạo điều kiện, tiền đề để phá bỏ bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần động viên nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch COVID-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...

Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)

Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÝ BÁU

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, có vai trò quyết định thành công của cách mạng

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc vì lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xác định đoàn kết là giá trị cốt lõi trong kho tàng truyền thống quý báu của dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu mang đến thành công cho cách mạng Việt Nam. Đây cũng là giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam đi tới thắng lợi.

Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(6).

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa như là một quy luật để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin mới đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân Việt Nam trong lịch sử.

Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động; đồng thời quan tâm đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân

Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - thực hiện đại đoàn kết trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trước đây, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì lợi ích tối thượng chung là giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cải thiện đời sống của nhân dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và cải tạo đối với giai cấp tư sản dân tộc. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp lúc đó, để khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng, Đảng đã nêu nguyên tắc tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, giàu mạnh, coi đó là mẫu số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

PHÁT HUY VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp các ngành. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc: lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện đoàn kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất; lấy tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục làm phương thức hoạt động chủ yếu.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Nguồn: PGS. TS Lê Hải Bình
Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

 

TCCS - Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.

Bác Hồ thăm lớp bình dân học vụ (tranh của họa sĩ Mai Văn Nam)_Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp cho đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp. 

Mặc dù các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng, phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc) nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu hiện thực xã hội thời bấy giờ.

Đứng trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.  Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”(1).

Khác hẳn với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do(2). Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.

Thứ hai, khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.

Năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4), bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”(5). Trên cơ sở lý luận được tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.

Theo đó, đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(6); sau khi nước nhà giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(7), rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(9). Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...

Thứ ba, xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Nội dung đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng(10).

Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(11). Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, cụ thể:

Trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(12). Song, Người nhấn mạnh, một xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”(13).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(14). Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ triệt để.

Trên lĩnh vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.

Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với thiếu nhi xã Trường Hà, huyện Hà Quảng_Nguồn: vpctn.gov.vn

Những chỉ dẫn cho giai đoạn hiện nay

Kể từ khi ra đời đến quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ cũng như trong từng chặng đường xây dựng đất nước, đồng thời dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử(15). Thực tế, sau gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(16), đây là bằng chứng sinh động và đầy sức thiết phục về nhận thức và sự vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới, vô cùng phong phú, đồng thời cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế,... trong công cuộc hoàn thiện xã hội tốt đẹp ở Việt Nam hiện nay. Thời gian tới, để tiếp tục vận dụng hiệu quả, phù hợp những giá trị mà Người để lại, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta(17). Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững, tạo lập nền tảng vật chất quan trọng để xây dựng xã hội tốt đẹp, vì lợi ích của nhân dân. Chú trọng đúng mức việc ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển đất nước; đồng thời, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân.

Thứ hai, tập trung thực hiện hiệu quả, thiết thực các chính sách xã hội, hướng tới vì lợi ích của toàn thể dân tộc; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; đặc biệt, sự phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(18). Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm quyền con người và “an ninh con người” gắn với xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt, hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng(19).

Thứ ba, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Bởi lẽ, thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp “phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(20) . Theo đó, cần xây dựng và thực thi phong cách lãnh đạo, quản lý vừa khoa học, sâu sát, sáng tạo, vừa mang tính nhân văn cao cả. Mặt khác, thực hành triệt để tự phê bình và phê bình; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và tương lai về một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Đặc biệt, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ quan điểm sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng các hoạt động đối ngoại. Chú trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có đầy đủ yếu tố dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng và phát triển một cách phù hợp, sáng tạo với thực tiễn đất nước. Mặt khác, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhằm mở rộng hợp tác để phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế./.

                                                Nguồn: PGS, TS NGUYỄN ĐÌNH BẮC

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

 

Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc

Thứ Hai, 24/06/2024, 07:55

Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.

Truyền thông đối ngoại, xu thế toàn cầu về thông tin, báo chí

Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới, các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ... Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối.

Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.

Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc -0
Ảnh minh hoạ.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xu thế chung của thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các nước lớn, trong đó chủ yếu xuất phát từ thiếu lòng tin chiến lược và nhu cầu đối với vấn đề an ninh quốc gia khiến cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gặp nhiều khó khăn, trở ngại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại của các nước. Trong bối cảnh các lực lượng thù địch đang ra sức tuyên truyền cho các giá trị phương Tây, bôi xấu, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, công tác thông tin đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức đúng đắn nhất về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là các vấn đề về dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận…

Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác truyền thông đối ngoại

Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.

Ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác truyền thông đối ngoại. Điều đó đã được thể hiện qua Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 10/5/1962 của Bộ Chính trị, về công tác tuyên truyền đối ngoại đã xác định công tác tuyên truyền đối ngoại là một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới. Tiếp đó, nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thông tin truyền thông đối ngoại qua các thời kỳ như: Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/-CT/TTg, ngày 26/4/2000 của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Ngày 10/9/2008, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 26-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”, xác định thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị với phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp với từng đối tượng”.

Ngày 14/2/2012, Bộ Chính trị khóa XI ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài”. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28/2/2013, phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Các văn bản trên là minh chứng cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới. Trên cơ sở những chủ trương, chính sách đó, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã triển khai thực hiện công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú và đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới, đề ra định hướng bao trùm của công tác đối ngoại trong giai đoạn phát triển của đất nước là triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đại hội đã khẳng định “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Thành tựu trong hoạt động truyền thông đối ngoại của Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.

Đến nay, hầu hết các cơ quan báo chí Việt Nam đã có trên nền tảng mạng internet. Một số cơ quan báo chí đã tiên phong và khá thành công trong việc ứng dụng các công nghệ số tiêu biểu như: Trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Big Data... Trước làn sóng “di dân” từ báo in sang báo điện tử, hàng trăm cơ quan báo chí cũng xây dựng các kênh truyền thông của mình trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Tiktok… Nhân sự làm việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 41.000 người (khối phát thanh, truyền hình khoảng 16.500 người). Trong đó, hơn 19.300 trường hợp được cấp thẻ nhà báo.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí được tăng cường. Hiện nay, nhiều hãng truyền thông quốc tế lớn trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Việc trao đổi thông tin với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua chương trình truyền hình ASEAN, hệ thống các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân... ở nước ngoài cũng như phiên bản tiếng nước ngoài của các báo điện tử đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ truyền thông đối ngoại; thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác, phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin kịp thời về các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nhất là tình hình ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, và những vấn đề quốc tế khác mới nổi lên như: vấn đề lao động, việc làm, di cư, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố, an ninh tiền tệ, ngân hàng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…

Trong một thế giới bất ổn, bất an, Việt Nam được bạn bè quốc tế tin cậy khi là điểm đến an ninh, an toàn, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm. Cùng với đó, Việt Nam cũng là một hình mẫu đang trên đà vươn lên mạnh mẽ, là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm, đóng vai trò chủ động và tích cực trong các công việc chung của khu vực và thế giới. Hoạt động đối ngoại của đất nước, trong đó có các hoạt động cấp cao diễn ra sôi động, liên tục đã khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán, quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, đóng góp vào việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống, hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Nguồn: Liêm Chính - Bình Nguyên