Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

“Bệnh xa dân” làm cán bộ dễ hư hỏng

 


Một thực tế đó là, mỗi khi có đồng chí cán bộ nào bị xử lý sai phạm thì xuất hiện tâm lý hả hê ở một bộ phận dư luận. Phần đa ý kiến không đồng tình với tâm lý hả hê đó, nhưng điều này cần được nhìn nhận thấu đáo để hiểu rõ vì sao? Một trong những nguyên nhân gây nên tâm lý đó chính là “bệnh xa dân” của cán bộ khiến dư luận đã có cái nhìn tiêu cực, thiếu cảm thông mỗi khi có vụ việc.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỀ NGHỊ SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ TIỀN LƯƠNG, PHỤ CẤP, NHÀ Ở; BỔ NHIỆM, PHONG THĂNG QUÂN HÀM, TUỔI NGHỈ HƯU,...

     Qua tổng kết Luật Sĩ quan và kiến nghị, đề xuất của các cơ quan, đơn vị; dự kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung 10 điều của luật liên quan đến việc bổ nhiệm, thăng quân hàm, tuổi nghỉ hưu, tiền lương, phụ cấp... của sĩ quan Quân đội!

Vừa qua, Bộ Quốc phòng đã tổ chức Hội nghị Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam (viết tắt là Luật Sĩ quan). 

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban soạn thảo, chủ trì hội nghị.

Dự hội nghị có Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Phó trưởng ban Thường trực Ban soạn thảo; Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó trưởng Ban soạn thảo.

Cùng dự hội nghị có Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Trung tướng Lê Quang Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; chỉ huy một số cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng.

Thành lập Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan
Tại hội nghị, Thiếu tướng Hàn Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Quốc phòng) công bố quyết định thành lập Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan. 

Trung tướng Đỗ Xuân Tụng, Cục trưởng Cục Cán bộ (Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam), thay mặt cơ quan Thường trực Ban soạn thảo báo cáo tóm tắt kết quả bước đầu triển khai xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Sĩ quan.

Theo Trung tướng Đỗ Xuân Tụng, sau khi có kết luận của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tại Hội nghị thủ trưởng Bộ Quốc phòng cho ý kiến vào nội dung tổng kết Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam ngày 3/6/2024, Vụ Pháp chế và Cục Cán bộ đã chủ động phối hợp trình thủ trưởng Bộ Quốc phòng thông qua báo cáo tổng kết thực hiện Luật Sĩ quan; quyết định thành lập và quy chế hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập; kế hoạch soạn thảo dự án Luật Sĩ quan.

Tiến hành rà soát toàn bộ nội dung Luật Sĩ quan hiện hành, dự kiến đề xuất sửa đổi một số điều của Luật Sĩ quan, dự thảo kế hoạch phân công nghiên cứu, soạn thảo dự án Luật Sĩ quan và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; gửi xin ý kiến và tổng hợp, tiếp thu ý kiến các bộ, ngành liên quan; hoàn thiện hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án luật, báo cáo thủ trưởng Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định.

Để nghị sửa đổi 10 điều của Luật Sĩ quan
Qua tổng kết Luật Sĩ quan và kiến nghị, đề xuất của các cơ quan, đơn vị; dự kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung 10 điều của luật, gồm: 

- Chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan (Điều 11);
- Tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan (Điều 13); 
- Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan (Điều 15); 
- Rút ngắn thời hạn xét thăng quân hàm cấp úy (Điều 17); 
- Bổ sung quy định về nâng lương trước thời hạn (Điều 18); 
- Tiền lương, phụ cấp, nhà ở, đất ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan tại ngũ (Điều 31); 
- Tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị (Điều 38); 
- Bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị (Điều 41); 
- Trách nhiệm của các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong tổ chức thực hiện luật (Điều 46, Điều 47). 
Cơ quan soạn thảo dự kiến sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới 13 văn bản (5 nghị định, 8 thông tư) để phù hợp với việc sửa đổi các điều của Luật Sĩ quan.
Tại hội nghị, các đồng chí thành viên Ban soạn thảo cho ý kiến làm rõ nội dung, phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; dự thảo kế hoạch phân công nghiên cứu, soạn thảo dự án Luật Sĩ quan và các văn bản dưới luật.

Sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm giữ được chất lượng, vị thế, uy tín của sĩ quan Quân đội
Phát biểu kết luận hội nghị, Đại tướng Phan Văn Giang ghi nhận, đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của các đồng chí thành viên Ban soạn thảo trong thời gian ngắn đã chuẩn bị chu đáo, đầy đủ các tài liệu và văn bản phục vụ xây dựng dự án Luật Sĩ quan.

Đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo: Về quan điểm, nguyên tắc sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng QĐND Việt Nam để xây dựng dự thảo luật trên cơ sở kế thừa những nội dung còn hợp lý, phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung đang vướng mắc, bất cập. 

Việc sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm giữ được chất lượng, vị thế, uy tín của sĩ quan Quân đội; cân đối giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; đồng thời, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và phù hợp với điều kiện thực tế công tác cán bộ trong Quân đội.

Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu cơ quan thường trực Ban soạn thảo tiếp thu đầy đủ, triệt để các ý kiến phát biểu tại hội nghị và các ý kiến tham gia bằng văn bản của các đồng chí thành viên Ban soạn thảo.

Nghiên cứu, chỉnh lý, điều chỉnh chương trình, kế hoạch soạn thảo luật bảo đảm việc xây dựng dự án Luật Sĩ quan chất lượng, hoàn thành từng nội dung công việc theo kế hoạch. 

Quá trình thực hiện, nếu có phát sinh vướng mắc kịp thời báo cáo, đề xuất biện pháp giải quyết để Trưởng ban soạn thảo xem xét, quyết định./.

Yêu nước ST.

Di chúc của Bác cùng với toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta. Di chúc còn là sự thể hiện trách nhiệm, tình yêu thương bao la của Bác dành cho những người ở lại. Nhưng trước tiên là dành cho Dân, cho Đảng. Bác viết: “… tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác chuẩn bị cho chuyến đi xa bằng những đúc kết ở tầm cao của bậc vĩ nhân, nhưng lời lẽ lại hết sức giản dị cùng những chỉ dẫn chiến lược là những dặn dò cụ thể nhưng vô cùng sâu sắc… Ai đọc cũng thấy mình được quan tâm, ân cần bằng trái tim mênh mông “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”...

Trước hết phải có Đảng vững mạnh. Đây là vấn đề Người luôn đặt lên hàng đầu, luôn được quan tâm trước hết. Bởi, để làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người “trước hết phải có Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Bác tổng kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Cần hiểu đúng: Thắng lợi rất to lớn, thắng lợi trước hết là do Đảng gắn bó với Nhân dân; là do đoàn kết chặt chẽ, phát huy được “truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của Dân ta”. Đoàn kết có vai trò cực kỳ to lớn, vì thế Người dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Với tầm nhìn xa, trông rộng, Bác đã dự báo: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,… Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”. Tuân theo chỉ dẫn của Người, suốt 55 năm qua, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn xác định đó là nhiệm vụ then chốt. Nhờ đó, chúng ta đã giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện một cách xuất sắc Di chúc thiêng liêng của Người. Điều mong ước và lời căn dặn thiết tha nhất của Bác đã thành sự thật. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập, thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc đã sum họp một nhà!

Sau khi cố gắng hàn gắn vết thương do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược, ngay khi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã đề ra một trong những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng đảng.

Liên tục qua các nhiệm kỳ, Đảng đều có nghị quyết chuyên đề để thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộCác nghị quyết đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan trọng nhằm xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, khắc phục những yếu kém trong hệ thống chính trị. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội từ đó được mở rộng, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa và xã hội phát triển. Qua các đợt vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phê bình và tự phê bình đã có những chuyển biến nhất định, sức mạnh và tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên. 

Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, BCH Trung ương đã ban hành 3 quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất. Nêu gương thể hiện rõ ràng nhất việc học tập và làm theo Bác. Đúng như Người răn dạy: Mình phải chính tâm tu thân nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới trị quốc bình thiên hạ được… Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được.

Đầu tiên là chăm lo đời sống của Nhân dân

Kế thừa truyền thống nhân - nghĩa của dân tộc, nắm vững quan điểm quần chúng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác chỉ rõ: “… Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. “Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta”. Vì vậy: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.

Thực hiện Di chúc của Người, từ một nước nghèo, nhiều năm chiến tranh, hậu quả nặng nề, sau 10 năm đổi mới (1986-1996), Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; sau 25 năm (năm 2010) đã ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Nhiều học giả nước ngoài coi đó là “những thành tích ngoạn mục”. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện, mô hình tăng trưởng dịch chuyển dần sang chiều sâu….

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào việc duy trì ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Triển khai có hiệu quả các mục tiêu giảm nghèo bền vững, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều

Học và làm theo Di chúc của Bác, chúng ta hiểu: Dân và Đảng là một câu chuyện chủ yếu mà Người để lại.

“Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác

Lên những tầng cao, thẳng cánh bay!”

(Tố Hữu)

Sưu tầm

Khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của dân tộc Việt Nam. Trong đó có những chỉ dẫn của Người về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, nhất là việc khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.

Khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các yếu tố cơ bản của môi trường tự nhiên như đất đai, nguồn nước, khoáng sản, rừng… là một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo vệ môi trường. Con người không thể sống thiếu nước, ánh sáng, không khí và đất đai. Khi những thứ này thiếu hụt sẽ đe dọa đến sự sống còn và phát triển của con người. Chính vì vậy, phải khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các yếu tố của môi trường tự nhiên là để góp phần bảo vệ môi trường sống của con người. Với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về khai thác và sử dụng tài nguyên ngay từ khi nhân dân ta bắt tay vào khôi phục và xây dựng đất nước. Cụ thể:

Một là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên rừng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khai thác và sử dụng tài nguyên phải có kế hoạch, phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải gắn liền với bảo vệ môi trường. Khai thác gắn với bảo vệ chứ không phải đánh đổi và bất chấp bằng mọi giá. Trong Lời kêu gọi đồng bào, nhân dân thi đua sản xuất và tiết kiệm năm 1965, Ng­ười khuyên mọi người: “Khai thác gỗ đi đôi với tu bổ và bảo vệ rừng; chú ý trồng cây, gây rừng ở bờ biển”. Người xem bảo vệ rừng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng như việc bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn của mình vậy; Ng­ười nhắc nhở cán bộ phải lo bảo vệ rừng, phải khéo vận động nhân dân trong việc khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên rừng. Người luôn tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để kêu gọi mọi ngư­ời khai thác rừng phải luôn có kế hoạch bảo vệ và tu bổ rừng, làm cho rừng ngày càng phát triển rộng lớn hơn, môi trường sẽ trong lành hơn. Đối với Ngư­ời, rừng là “vàng” của quốc gia nên “đồng bào cần phải cố gắng hoàn thành tốt kế hoạch đã định, đồng thời phải chú ý bảo vệ rừng… Tục ngữ nói: “Rừng vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng ta ”.

Hai là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản, trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng để kinh tế phát triển lâu dài, Người luôn nhắc nhở nhân dân khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này. Trong buổi nói chuyện với các đại biểu công nhân và cán bộ Ngành Than, Người cũng đã đề cao giá trị của tài nguyên thiên nhiên: “Người ta thường gọi than là “vàng đen”. Nó rất cần thiết cho công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, vận tải, quốc phòng và đời sống nhân dân”. Nhưng Người luôn xác định cần tới mức nào, giá trị tới mức nào cũng phải khai thác có kế hoạch, làm theo kế hoạch. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội cần rất nhiều than. Mục đích của đất nước là sản xuất thật nhiều than nhưng cần phải thống nhất, phải đúng mục đích, phải tổ chức và quản lý thật tốt, không để khai thác tự phát, vừa không kiểm soát được, vừa ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.

Ba là, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất nông nghiệp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi người trong quá trình canh tác không được lãng phí: “Hiện còn có hợp tác xã bỏ sơn, cọ không thu, đất cày rồi không cấy, không săn sóc để trâu bò chết; mỗi lần “liên hoan”, có xã giết từ 30 đến 50 lợn, lãng phí bừa bãi của hợp tác xã và của xã viên”. Bên cạnh đó, Người luôn nhắc nhở việc trồng cây phải phù hợp với mùa vụ, thời tiết. Người mượn ca dao “Bao giờ đom đóm bay ra. Hoa gạo rụng xuống thì cà mới lên” để nhắc nhở người sản xuất. Trong khai thác thủy hải sản, Người căn dặn: “ Ngoài việc đánh cá phải chú ý đến nuôi cá”. Dù trồng trọt hay chăn nuôi, Người đều đề cao sự khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các yếu tố tự nhiên và bảo vệ môi trường.

Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, nên cần được đánh giá đầy đủ, quản lý một cách hiệu quả, bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn. Cần tiếp tục nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp. Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước xuyên quốc gia. Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là vùng gần bờ. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.

Với tầm nhìn đi trước thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò to lớn của môi trường và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên. Trong tư tưởng của Người, đây là một nội dung lớn. Ngư­ời đã lên án, phê phán hành vi tàn phá tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng đến đời sống con người. Để bảo vệ môi trường thì phải tăng cường trồng cây gây rừng, phải tái tạo, bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác để từng bước nâng cao chất lượng môi trường. Ngày nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị tr­ường, dưới sự tác động các quy luật của nền kinh tế thị trường, nhiều cá nhân, tổ chức chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mà đã làm ảnh hư­ởng, xâm hại rất lớn đến môi trư­ờng sống. Trước tình trạng khai thác và sử dụng không hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, con ngư­ời đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng nh­ư tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ngộ độc thực phẩm, bệnh tật, nhất là trước tác động của biến đổi khí hậu hiện nay, chúng ta càng thấy ý nghĩa và giá trị to lớn của t­ư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường./.

Sưu tầm

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cương lĩnh hành động phụng sự Tổ quốc, nhân dân

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh cả cuộc đời của Bác, đúc kết tư tưởng, đạo đức, nhân cách, bản lĩnh, tâm hồn, tình cảm của một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người luôn vì nước, vì dân. Những nội dung đó là một cương lĩnh hành động, được liên kết xuyên suốt bởi một sợi chỉ đỏ là ý thức phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc và nhân loại.

Chỉ hơn 1.000 từ, nhưng “mấy lời để lại” - Di chúc của Bác Hồ là sự kết tinh cả cuộc đời của Bác, đúc kết tư tưởng, đạo đức, nhân cách, bản lĩnh, tâm hồn, tình cảm của một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người luôn vì nước vì dân. Di chúc của Bác Hồ đã đề cập toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là văn kiện lịch sử vô giá có ý nghĩa lý luận sâu sắc, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, định hướng cho tương lai. Những nội dung đó là một cương lĩnh hành động, được liên kết xuyên suốt bởi một sợi chỉ đỏ là ý thức phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc và nhân loại.

Ngay từ khi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951, trong lời phát biểu của mình Bác đã tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đau đáu nỗi niềm phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong Di chúc Bác căn dặn trước hết đối với Đảng: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Còn nhớ, sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, giành được chính quyền, Đảng trở thành đảng cầm quyền, Bác đã viết 10 bài báo trong 4 tháng để nói về đạo đức cách mạng, nhằm giáo dục cán bộ chống bệnh kiêu ngạo cộng sản, hách dịch, cửa quyền, lạm dụng chức vụ, tham ô, tham nhũng, lãng phí quan liêu, xa rời nhân dân. Đến năm 1949 Bác lại nói “cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy trong Di chúc Bác căn dặn cần phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Vì ở đâu đó thực hiện lơ là không thường xuyên, không nghiêm túc, phê bình lấy lệ, hời hợt. Trong phê bình “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, không lợi dụng phê bình bới lông tìm vết, tranh quyền đoạt vị, kéo bè kéo cánh, nhưng cũng không nịnh bợ, dĩ hòa, dễ người dễ ta.

Bác chỉ bảo tận tình đối với công tác cán bộ, bởi theo Bác, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng. Trong công tác đào tạo cán bộ, Bác dặn dò: Trước hết học là phải học làm người, làm việc rồi mới làm cán bộ, học để phụng sự tổ chức, đoàn thể, phụng sự dân tộc… Tư tưởng này vô cùng quan trọng, bởi đâu đó không ít người nghĩ học để làm cán bộ rồi mới làm việc, mới làm người. Điều này trái với tư tưởng, đạo đức của Bác.

Là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ luôn giữ vững tư tưởng xuyên suốt nhất quán, kiện định về tư cách của Đảng cầm quyền, trong đó nền tảng là đạo đức của đảng viên. Bác đã nói rõ, cách mạng muốn thành công trước hết phải có “Đảng cách mệnh”, tuy nhiên “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng, đó là “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình”. Di chúc của Bác nhấn mạnh vào vai trò, vị trí và tính tiền phong của đảng cầm quyền. Một chính đảng cần phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng, có nhiệm vụ làm cho dân giàu, nước mạnh. Bởi “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người đảng viên luôn xác định phải trung thành, tận tụy phục vụ đất nước, phục vụ Đảng, phục vụ Nhân dân. Bác yêu cầu mỗi đảng viên luôn ghi nhớ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Di chúc của Bác không chỉ thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, yêu dân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân mà còn tỏa sáng tấm lòng bao dung nhân ái đối với tất cả mọi người. Bác cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tâm nguyện, khát vọng suốt đời của Bác cũng vì nhân dân: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang Pháp (ngày 30-5-1946), Bác nói: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”. Bác căn dặn cán bộ, đảng viên: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân; Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân. Bởi vậy nên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân”.

Tình thương yêu của Bác trong Di chúc đối với mọi người thật cụ thể, lo lắng chu đáo không quên sót một ai. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định: Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hằng ngày của mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý có tình. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Chủ tịch Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Bác nói rằng: “Người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.

Với tấm lòng trìu mến, Bác tin tưởng vào lực lượng thanh niên, khẳng định thanh niên là chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Hơn thế nữa, đội quân chủ lực, nguồn sức mạnh tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là nhờ các thế hệ thanh niên. Bác căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Bởi nếu lực lượng thanh niên được giáo dục rèn luyện thử thách trong thực tiễn cách mạng thì chắc chắn sẽ trở thành lực lượng hậu bị vững chắc của Đảng và của dân tộc. Chiến lược đối với thế hệ trẻ của Bác không chỉ là cẩm nang cần thiết cho một giai đoạn cách mạng cụ thể mà đó còn là yêu cầu quan trọng phục vụ mãi mãi sự nghiệp và lý tưởng cách mạng.

Trong Di chúc, Bác còn ân cần dặn dò, quan tâm tới từng đối tượng như thương, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ, người có công; phụ nữ; nông dân. Đối với Bác, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Bác căn dặn, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Di chúc của Bác căn dặn tỉ mỉ, chu đáo tới tất cả mọi người, không sót một ai, toàn diện mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người. Chính bởi vậy, Di chúc của Bác mang tầm vóc một cương lĩnh hành động, phụng sự của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nửa thế kỷ quyết tâm thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta đã vững vàng lãnh đạo đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng đã đưa ra nhiều giải pháp để giữ vững vai trò tiên phong lãnh đạo, đó là: Xác định nền tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; lấy xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, hàng đầu, lâu dài; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Việc thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cùng với kết quả của công cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thoái hóa… đã và đang tạo sự phấn khởi, niềm tin trong nhân dân. Đó cũng là cơ sở để Đảng và Nhân dân ta thực hiện được tâm nguyện của Bác: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Sưu tầm

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DẤU ẤN ĐỐI NGOẠI TRONG NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM!

BÀI 3: VỮNG TIN VỮNG TIẾN TRÊN CHÍNH TRƯỜNG THẾ GIỚI!
(tiếp theo và hết)
      Đối ngoại Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới của truyền thống ngoại giao dân tộc. Trong thời đại mới, đối ngoại Đảng cần tiếp tục thể hiện rõ vai trò tiên phong, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà. Thông qua kết quả đối ngoại Đảng và uy tín, vị thế của Đảng để vừa tập hợp lực lượng trong và ngoài nước, huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước; vừa đề cao trách nhiệm, góp phần xây dựng hòa bình thế giới và sự tiến bộ nhân loại!
1. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung, nhưng thế giới đã, đang và sẽ trải qua nhiều biến động lớn, phức tạp hơn so với dự báo. Toàn thế giới đã đoàn kết cùng nhau bước qua đại dịch Covid-19, nhưng chuỗi sản xuất, trao đổi dịch vụ thế giới sẽ có những thích ứng mới trước tình trạng đứt gãy các chuỗi cung ứng và sự bất ổn trong quan hệ giữa các nền kinh tế lớn; liên kết kinh tế gia tăng trong khu vực, giữa một số nước. Cạnh tranh giữa các nước lớn, vấn đề xung đột Nga-Ukraine; giữa Nga và Liên minh châu Âu, giữa Iran và Israel diễn ra rất gay gắt, tác động sâu sắc đến cục diện an ninh chính trị thế giới.

Các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống đặt ra nhiều thách thức chưa từng có cho phát triển kinh tế-xã hội của nhiều nước. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là động lực chính trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, song cũng là một trong những trọng tâm của cạnh tranh nước lớn. Khu vực Đông Nam Á đang được các nước trong và ngoài khu vực ngày càng coi trọng, tích cực can thiệp, tạo ảnh hưởng; trong khi nội bộ khu vực vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất.

Trước tình hình đó, tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối ngoại Việt Nam nói chung, đối ngoại Đảng nói riêng cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ trường phái ngoại giao “cây tre”, gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển; thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược.

Là một trụ cột quan trọng trong mặt trận đối ngoại của đất nước, đối ngoại Đảng tập trung sức lãnh đạo nhằm đẩy mạnh, nâng tầm nhiều mặt. Trước hết, vị trí, vai trò đối ngoại Đảng phải được coi trọng, đánh giá đúng tầm mức; nhất là trong việc góp phần củng cố nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước; duy trì và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển của đất nước; đóng góp vào thành công chung của công tác đối ngoại; nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước trên chính trường quốc tế. 

Thực hiện nhất quán chủ trương Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Theo đó, mỗi trụ cột đối ngoại đều có vai trò, sứ mệnh riêng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước. 

Trong đó, đối ngoại Đảng có 3 nhiệm vụ đặc biệt quan trọng cần quan tâm lãnh đạo, thực hiện thắng lợi: 1. Tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, các quyết sách về những vấn đề đối ngoại quan trọng; 2. Triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm phát triển quan hệ với các chính đảng góp phần củng cố nền tảng chính trị cho quan hệ của Việt Nam với các nước; xây dựng khuôn khổ, định hướng quan hệ, xử lý nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng; 3. Quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ đạo công tác đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. Theo đó, trong điều kiện mới, đối ngoại Đảng tiếp tục phát huy vai trò và thế mạnh; triển khai một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, với nhiều nội dung mang tính đột phá cả trước mắt, lẫn lâu dài.

2. Để làm được điều đó, cần phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tham gia tiến hành công tác đối ngoại Đảng. Mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải đề cao vai trò, trọng trách của mình như một “sứ giả của tình hữu nghị”; góp phần làm đẹp thêm hình ảnh người đảng viên Đảng Cộng sản, đồng thời nâng cao uy danh, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong các hoạt động đối ngoại Đảng, cùng với sự tham gia của lãnh đạo cao nhất của Đảng là đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, tạo điều kiện cho các hoạt động đối ngoại Đảng của các ban Đảng và các tỉnh ủy, thành ủy cho đến tổ chức Đảng nhỏ nhất và từng đảng viên.

Tăng cường hơn nữa các chuyến thăm hữu nghị cấp cao, gặp gỡ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, Đảng quan tâm hơn nữa đến việc cử đại diện tham gia sự kiện quốc tế, khu vực và nhất là với các nước láng giềng; tăng cường các hình thức điện đàm, hội đàm, gặp gỡ, hội nghị đa phương trực tiếp hoặc trực tuyến ở các cấp.

Đối với các ban Đảng, các cấp, các ngành, cần chú trọng hơn đến việc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi trên kênh song phương và đa phương; đào tạo cán bộ, ký kết các thỏa thuận hợp tác, kết nghĩa giữa các địa phương của Việt Nam và các nước trên thế giới... Coi trọng triển khai, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã ký kết giữa các Đảng bộ trực thuộc Trung ương với các đảng đối tác để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại Đảng.

Đóng góp chung vào những thành công của đối ngoại Đảng, có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam, cán bộ, đảng viên làm công tác đối ngoại ở nước ngoài mà phần đông là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật đáng ghi nhận vì đến nay, Việt Nam đã có gần 100 cơ quan đại diện ở nước ngoài, trải khắp các châu lục và ở mỗi cơ quan này đều đã thành lập tổ chức Đảng lãnh đạo một cách trực tiếp, toàn diện.

Đây là lực lượng tuyến đầu thực hiện công tác thông tin đối ngoại tại địa bàn ngoài nước; do vậy, các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài cần đề cao vai trò, trách nhiệm, tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, về vai trò, sứ mệnh, bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; đồng thời thu thập những thông tin có chọn lọc về tình hình, sự phát triển của thế giới, khu vực, về các vấn đề được dư luận và nhân dân trong nước quan tâm; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; tạo sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước; kêu gọi, thu hút sự hợp tác, hỗ trợ của thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

3. Trong một thế giới đa cực, diễn biến phức tạp, mau lẹ, các cấp cần tiếp tục đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Đảng, với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "chủ động linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, bảo đảm phối hợp tổng thể, chặt chẽ, đồng bộ giữa các trụ cột đối ngoại. Phát huy vai trò của đối ngoại Đảng trong thúc đẩy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược đáp ứng đúng và trúng yêu cầu của tình hình mới.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển đất nước. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách và giải pháp phù hợp. Tích cực triển khai, hiện thực hóa các đề án, chiến lược lớn trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có Nghị quyết về những định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược Đối ngoại Việt Nam đến năm 2030. Đồng thời, không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại phù hợp với tình hình mới; tăng cường tính chủ động, tính chiến lược và tính đồng bộ, toàn diện trong tất cả các khâu, từ nghiên cứu dự báo đến tham mưu, xử lý các vấn đề đối ngoại và tổ chức, triển khai các hoạt động đối ngoại Đảng.

Phát huy mạnh mẽ vai trò đầu mối trong quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt động đối ngoại Đảng. Tập trung mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. 

Tiếp tục tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện và tin cậy với các đảng cầm quyền ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ vào chiều sâu, củng cố sự tin cậy chính trị, tạo nền tảng chính trị vững chắc, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; đồng thời, phát huy mạnh mẽ lợi thế đặc thù của kênh đối ngoại Đảng để góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong quan hệ song phương với các nước này. 

Cùng với đó, cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính, đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam; tăng cường thực chất quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân có vị trí, vai trò trên chính trường các nước, có nhiều ảnh hưởng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và ở từng khu vực để tạo lực lượng hậu thuẫn chính trị.

Tiếp tục phát huy vai trò của đối ngoại Đảng để đóng góp thiết thực cho công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là việc tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, tranh thủ sự đoàn kết và ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín quốc tế, vị thế của Đảng và đất nước, tạo thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Để đáp ứng yêu cầu của công tác đối ngoại Đảng trong thời kỳ mới, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo; quyết liệt phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xuống cấp về đạo đức, lối sống trong đội ngũ làm công tác ngoại giao.

Tiếp tục coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó có đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao Đảng tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao Đảng./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DẤU ẤN ĐỐI NGOẠI TRONG NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM!

BÀI 2: KHẲNG ĐỊNH “TÂM” VÀ “TẦM” CỦA ĐẢNG!
         Trong hàng loạt thông tin được viện dẫn để chống phá công tác đối ngoại Đảng, thế lực thù địch, phản động hướng mũi công kích vào việc quy kết: Đảng Cộng sản Việt Nam không hề và chưa hề có tên trên “bản đồ chính trường quốc tế”. Nếu có chỉ là sự bám víu, đối ngoại theo kiểu “nói leo, ăn theo”. Thế nhưng, đây thực chất chỉ là những lời “múa môi, sáo ngữ”, cố tình bóp méo, phủ nhận sự thật!
1. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những kết quả và thành tựu đạt được trong thời gian qua là sản phẩm kết tinh sự sáng tạo của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; trong đó có đóng góp hết sức quan trọng của công tác đối ngoại Đảng. Qua đó, “thế” và “lực”, “tâm” và “tầm”, uy tín và thanh danh của Đảng, đất nước được khẳng định vững chắc trên chính trường quốc tế.

Trong bối cảnh đất nước phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thách thức, bằng ý chí, quyết tâm cao và tinh thần: "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng", "Dọc ngang thông suốt", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng “tự chỉnh đốn” để không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện mới.

Trong suốt 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng liên tiếp (XI, XII, XIII), với việc kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vai trò, vị thế của Đảng không ngừng được củng cố, tăng cường; góp phần tạo nên bước chuyển mới trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công tác đối ngoại Đảng, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ghi nhận: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng của chúng ta càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”.

Sự ổn định bên trong là tiền đề quan trọng để Đảng đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Đảng trên trường quốc tế. Tất cả các sự kiện, ngày lễ lớn của Đảng luôn nhận được sự quan tâm theo dõi, ủng hộ của các chính đảng, tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới.

Sau khi Đại hội XIII của Đảng được tổ chức thành công, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận 215 điện mừng từ 105 đảng, 4 tổ chức khu vực và quốc tế, 76 tổ chức hữu nghị, 15 đoàn ngoại giao và 15 cá nhân đến từ 79 nước. Dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng hằng năm luôn nhận được chuyến thăm, chúc mừng từ các chính đảng, tổ chức, bạn bè quốc tế. Đây là minh chứng sinh động cho uy tín của Đảng ta và sự cảm phục đặc biệt mà các quốc gia, chính đảng, nguyên thủ quốc gia trên thế giới dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thật tự hào khi tính đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia; trong đó 96 đảng Cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 28 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Đây là con số ấn tượng, riêng có mà một chính đảng cầm quyền trên thế giới thiết lập nên. Cùng với đó, từ sau Đại hội XIII của Đảng đến đầu tháng 7-2023, các hoạt động đối ngoại cấp cao đã đóng góp quan trọng vào tăng cường sự tin cậy chính trị, tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa nước ta với các đối tác, bạn bè quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chủ trì, tham gia khoảng 150 cuộc tiếp xúc, điện đàm, thư và điện đối ngoại, các cuộc hội đàm trực tiếp hoặc trực tuyến, các cuộc tiếp, làm việc, dự hội nghị quốc tế với các vị lãnh đạo đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế. Cùng với đó, nhiều hoạt động đối ngoại hết sức sôi động, có ý nghĩa trên nhiều phương diện được các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, các đồng chí đứng đầu ban Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương thực hiện một cách chủ động, sáng tạo, hiệu quả.

2. Hoạt động đối ngoại Đảng đã tạo nền tảng chính trị quan trọng cho việc ổn định, mở rộng và thắt chặt quan hệ song phương giữa nước ta với các nước; đồng thời góp phần giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến an ninh và phát triển đất nước, cũng như các vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương. Điểm lại các hoạt động đối ngoại của đất nước từ tháng 7-2023 đến tháng 6-2024 có thể thấy, trong thời gian ngắn, lãnh đạo nhiều quốc gia, nhất là các nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới có chuyến thăm cấp nhà nước đến Việt Nam và nhận được sự đón tiếp trọng thị, chân thành, chu đáo từ các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam. 

Có thể kể đến như từ ngày 10 đến ngày 11-9-2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì đón Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam. Việc hai quốc gia từng đứng ở hai bên chiến tuyến, có thể chế chính trị khác biệt (từng được cho là đối lập), cùng ra Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện và đề ra phương hướng cho hợp tác lâu dài là sự kiện ngoại giao mang tính biệt lệ, có dấu ấn lịch sử đặc biệt quan trọng.

Cũng trong năm 2023, từ ngày 12 đến 13-12-2023, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân đã thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và phu nhân. Chuyến thăm lần này cùng với chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 30-10 đến 1-11-2022, ngay sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng, để lại dấu ấn lịch sử cho quan hệ của Đảng Cộng sản hai nước. Trả lời báo chí về kết quả chuyến thăm, đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương nhấn mạnh, chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Trung Quốc thành công tốt đẹp, đạt được nhiều kết quả lớn, thể hiện sự coi trọng cao độ của Đảng, Nhà nước Trung Quốc và cá nhân đồng chí Tập Cận Bình đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cũng như đối với uy tín của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Và mới đây, nhận lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam từ ngày 19 đến 20-6-2024. Đây là chuyến thăm với nhiều ý nghĩa quan trọng, là một điểm nhấn nổi bật của đối ngoại Việt Nam năm 2024. Chuyến thăm thể hiện sự coi trọng dành cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại hướng Đông của Nga. Trong hơn hai thập kỷ lãnh đạo Liên bang Nga, đây là lần thứ năm Tổng thống Vladimir Putin thăm Việt Nam, đồng thời là một trong những chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 5 vào tháng 3-2024.

Những chuyến đi của Tổng thống Vladimir Putin để lại dấu ấn đậm nét và đóng góp vào việc tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, trong đó có việc khởi xướng, ủng hộ thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga năm 2001 và nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012...

Từ việc thực hiện đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng và dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc. 

Trong đó, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 30 nước; bao gồm 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và tất cả thành viên ASEAN. Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 220 đối tác, hơn 70 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Cùng với đó, Việt Nam hiện là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Đây là những minh chứng sinh động, thuyết phục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và là tiền đề vững chắc để tiếp tục nâng tầm uy tín, vị thế của Đảng, của đất nước trên tất cả các lĩnh vực, các mối quan hệ quốc tế.

Thực tế còn cho thấy, đã có không ít các chính đảng, tổ chức, bạn bè quốc tế bày tỏ thiện chí, sự ủng hộ và mong muốn học hỏi kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, các hoạt động trao đổi lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn với các chính đảng qua nhiều hình thức khác nhau được tăng cường và tổ chức thực hiện ngày càng hiệu quả. Đảng ta đã phối hợp tổ chức thành công Hội thảo Lý luận lần thứ chín với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Trao đổi Lý luận lần thứ mười với Đảng Cộng sản Nhật Bản; Đối thoại Lý luận lần thứ bảy với Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) và Đối thoại Chính sách lần thứ ba với Đảng Cánh tả Đức… Các hội thảo trao đổi, đối thoại lý luận, chính sách có ý nghĩa quan trọng để các bên tổng kết và chia sẻ thành tựu về lý luận và thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Qua đó, Đảng ta có điều kiện tích lũy thêm kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về xây dựng đảng; về lãnh đạo, quản lý đất nước và giải quyết các vấn đề trên tất cả các lĩnh vực...

Gần 95 năm đã trôi qua kể từ Ngày thành lập Đảng, với bản lĩnh, trí tuệ, tài năng tuyệt vời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang chèo lái sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác đối ngoại Đảng nói riêng đạt nhiều thành tựu hết sức to lớn; là nền móng vững chắc đưa sự nghiệp cách mạng đi đến những thắng lợi vẻ vang. Đó cũng chính là bằng chứng sinh động, thuyết phục giúp bóc trần mọi luận điệu, thủ đoạn của những kẻ phản động, chống phá đang cố tình hạ bệ thành quả công tác đối ngoại của Đảng ta!





(Còn nữa).
Yêu nước ST.

Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác cácluận điệu sai trái, xuyên tạc

Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.

Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới, các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ... Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối.

Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.

Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.

Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống, hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam./.

Núp bóng môi trường chống phá đất nước

Môi trường và ô nhiễm môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị, xã hội đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, với cách nhìn thiếu thiện chí và chống phá đất nước, các thế lực thù địch đã đưa ra những quan điểm, thủ đoạn xuyên tạc cho rằng, chỉ có ở Việt Nam mới có tình trạng ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các thế lực thù địch còn vu cáo Việt Nam bắt bớ, bỏ tù những nhà hoạt động môi trường.

Môi trường là vấn đề toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang có nhiều nỗ lực, cố gắng cao nhất để giảm thiểu các hoạt động gây ô nhiễm môi trường. Nhưng các thế lực có ý đồ xấu chống phá Việt Nam luôn tìm cách để đào bới, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm. Chỉ một vụ việc nhỏ liên quan đến xả thải ra môi trường, hay xây dựng các công trình làm ô nhiễm nguồn nước... là ngay lập tức các đối tượng quy kết, quy chụp thành bản chất của chế độ chính trị.

Nhiều đối tượng còn hô hào lập nhóm, tổ chức diễn đàn trao đổi, thảo luận về vấn đề môi trường ở Việt Nam, nhưng thực chất là để kích động, chống phá Việt Nam. Thiếu tướng Trần Kim Tuyến, nguyên Cục trưởng Cục Phòng chống phản động, Bộ Công an cho biết: “Nói về những diễn đàn bảo vệ môi trường thì theo tôi, cái mục đích của họ không phải là bảo vệ môi trường, mà là lợi dụng vấn đề danh nghĩa bảo vệ môi trường để tiến hành những hoạt động phá rối an ninh trật tự”.

Mạng xã hội đã và đang trở thành một công cụ hữu hiệu để các đối tượng chống phá Việt Nam sử dụng để thổi phồng các vấn đề liên quan đến môi trường ở Việt Nam, tạo thành những điểm nóng thu hút sự quan tâm của dư luận. Đặc biệt, dưới sự điều hành của tổ chức phản động Việt Tân, các đối tượng liên tục tung tin, hình ảnh về các hoạt động gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Chúng tạo dựng, cắt ghép, nhào nặn thông tin nhằm làm cho người đọc mơ hồ, hoang mang, hoài nghi, mất niềm tin vào chế độ.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng, tác động rất lớn từ biến đổi khí hậu và môi trường. Việt Nam cũng đã chung tay cùng cộng đồng quốc tế để làm cho trái đất xanh hơn. Rất nhiều chương trình được triển khai như trồng 1 tỷ cây xanh, giảm thiểu đun đốt xả thải khí CO2. Tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 diễn ra vào tháng 12/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và cam kết giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030, tham gia tuyên bố về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”. Như vậy, Việt Nam luôn tích cực, nỗ lực cố gắng để bảo đảm môi trường sống trở nên trong sạch và thân thiện hơn. Đồng thời, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các tập thể, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Những cá nhân, tổ chức nào vi phạm về môi trường sẽ bị xử lý công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội./.

BIỂU HIỆN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH VÀ NGĂN CHẶN CÁC BIỂU HIỆN DÂN TÚY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

                          

Những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2016 trở lại đây, những hình thức mới của chủ nghĩa dân tộc dân túy (Populist nationalism) đã trỗi dậy và trở thành mối đe dọa chính đối với trật tự, tự do quốc tế. Chưa bao giờ cụm từ “chủ nghĩa dân túy” lại được nhắc đến nhiều như vậy trên chính trường và báo chí thế giới, nhất là trong các dịp bầu cử, trưng cầu dân ý ở nhiều nước Âu, Mỹ.

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan

Hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.

Thực tiễn sinh động liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, báo chí được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.

Chẳng thế mà chuyên gia phân tích chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam.

Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.

Nhìn vào những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.

Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải làm việc đó.

Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm./.