Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức hậu thuẫn, kích động các đối tượng trong nước lợi dụng phản biện xã hội để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập. Họ nhân danh phản biện để phản bác, chống đối các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Họ thường lợi dụng các thời điểm nhạy cảm chính trị của đất nước như trước và trong quá trình tổ chức đại hội Đảng, các kỳ bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp hoặc khi diễn ra những sự kiện quốc tế quan trọng; khi Quốc hội, Chính phủ lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo luật, chương trình, đề án... để lấy danh nghĩa phản biện xã hội tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Những hoạt động này của các thế lực thù địch khá đa dạng, song
tập trung ở một số thủ đoạn: (1) Lợi dụng internet, mạng xã hội, lấy danh nghĩa
phản biện xã hội để đưa ra những bài nói, bài viết, các video clip nêu những ý
kiến sai lệch về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và các quyết sách cụ thể ở các bộ, ngành, địa phương; (2) thông qua
hình thức gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ
chức và lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước với dụng ý không lành mạnh; (3)
lợi dụng các diễn đàn quốc tế, các cơ quan báo chí nước ngoài để nêu quan điểm
bằng bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn với nội dung xuyên tạc, thổi phồng,
bôi đen những hạn chế trong nước, nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong
bộ máy nhà nước, hòng làm cho thế giới hiểu sai về đường lối, quan điểm, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam; (4) khi Đảng, Nhà nước, các cơ
quan bộ, ngành, địa phương không tiếp nhận những ý kiến “phản biện” (thực chất
là các luận điệu, quan điểm, ý kiến phản động, phá hoại) thì vu khống Đảng, Nhà
nước ta vi phạm, đàn áp dân chủ.
Phản biện xã hội là việc phân tích, đánh giá, lập luận, tranh
luận có tính chất độc lập, khoa học của các lực lượng xã hội (bao gồm cá nhân
hoặc tổ chức) nhằm khẳng định hoặc bác bỏ, hay đề xuất sửa đổi chủ trương,
chính sách, từ đó giúp cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh cho phù
hợp hơn với lợi ích chung của cộng đồng. Xét về bản chất, phản biện xã hội
là một hình thức thể hiện quyền tự do được xây dựng trên cơ sở quyền tự do ngôn
luận. Theo đó, phản biện xã hội chính là quyền bày tỏ ý kiến một cách có hệ
thống và có cơ sở khoa học nhằm thực hiện quyền dân chủ của cá nhân đã được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế về quyền con người.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Hiến pháp và pháp luật, nước ta
đã cụ thể hóa quyền tham gia phản biện xã hội của các tổ chức chính trị-xã hội,
các tầng lớp nhân dân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 đã hiến định một số quyền con người, quyền công dân có nội dung liên quan
mật thiết đến phản biện xã hội như quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận,
quyền trưng cầu ý dân, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Theo đó, Điều
28 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan Nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến,
kiến nghị của công dân”.
Hiến pháp năm 2013 cũng chính thức ghi nhận phản biện xã hội với
tính chất là một chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quy định này lại tiếp
tục được cụ thể hóa tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020; Luật
Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022...
Nhằm làm cho hoạt động phản biện xã hội thực sự đi vào hiện thực
cuộc sống, tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, Đảng, Nhà nước
ta còn chú trọng quan tâm hoàn thiện các điều kiện bảo đảm thực hiện phản biện
xã hội. Các điều kiện đó là:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống thể chế minh bạch, dân chủ, ghi nhận
đầy đủ các quyền của chủ thể phản biện xã hội (bao gồm quyền tự do ngôn luận,
quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền thực
hiện phản biện xã hội...); quy định rõ trách nhiệm công khai thông tin và trách
nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm tính minh bạch trong
hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin của người
dân, xác định rõ trách nhiệm cung cấp và công khai thông tin từ phía các cơ
quan công quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính; quy định rõ quyền và trách
nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin cũng như có chế tài rõ
ràng, cụ thể và nghiêm minh đối với những hành vi che giấu hoặc từ chối cung
cấp thông tin của các cơ quan và công chức nhà nước.
Thứ ba, nâng cao ý thức tôn trọng tự do ngôn luận, đối thoại,
lắng nghe và phản hồi của chủ thể được phản biện, trực tiếp là các cơ
quan, cán bộ, công chức Nhà nước, kết hợp giữa giáo dục với cơ chế ràng buộc để
chủ thể được phản biện không chỉ lắng nghe ý kiến của xã hội mà còn phải biết
tiếp thu, hiện thực hóa nó trong những chính sách cụ thể; xây dựng cơ chế thông
tin hai chiều giữa Nhà nước và công dân.
Thứ tư, nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động để mọi người dân nhận thức rõ về quyền lợi
và trách nhiệm công dân; giúp nhân dân có nhận thức đầy đủ về nguyên tắc, nội
dung, hình thức, biện pháp tiến hành phản biện xã hội...
Những dẫn chứng trên đây đã cho thấy, phản biện xã hội ở Việt
Nam không chỉ kế thừa mà còn có sự bổ sung, phát triển các nguyên tắc, tiêu
chuẩn quốc tế và khu vực về dân chủ, tự do ngôn luận nói chung, về phản biện xã
hội nói riêng. Việc khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị-xã
hội, các tầng lớp nhân dân tham gia phản biện xã hội, qua đó phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước
Việt Nam, được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trong hiến pháp và pháp
luật của Nhà nước.
Phản biện xã hội ở Việt Nam là một phương thức hữu hiệu để nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, là bước phát triển cao của hình thức dân chủ
trực tiếp, thể hiện rõ vai trò chủ thể quyền lực của nhân dân trong chế độ xã
hội chủ nghĩa. Người dân có thể sử dụng quyền lực của mình một cách trực tiếp
thông qua việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, hoặc kiến nghị, đóng
góp ý kiến, phản biện, hoặc trực tiếp tham gia xây dựng chính sách, pháp luật
và biểu quyết khi được trưng cầu ý kiến.
Như vậy, phản biện xã hội ở Việt Nam không chỉ là con đường,
phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình mà còn là để bảo vệ
quyền làm chủ của mình; không chỉ là công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực
Nhà nước mà còn để bảo vệ Đảng, Nhà nước. Bản chất tiến bộ của chế độ xã hội
chủ nghĩa quy định phản biện xã hội ở Việt Nam phải thể hiện được tính xây
dựng, không phải để tạo ra sự xa cách, chia rẽ, đối lập nhân dân với Đảng, Nhà
nước, mà là để nhân dân tiến gần hơn với hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước, làm cho “ý Đảng hợp với lòng dân”, để nhân dân thực thi một cách
trực tiếp, thực chất hơn quyền lực của mình, đồng thời giúp cho Nhà nước hoàn
thành tốt hơn vai trò phục vụ nhân dân. Do đó, mọi âm mưu, hành vi lợi
dụng phản biện xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ phá hoại mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải kiên
quyết đấu tranh, bác bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét