GIÁ
TRỊ KHOA HỌC, CÁCH MẠNG VÀ THỜI ĐẠI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
Thể loại bài viết: Báo in
Tóm
tắt bài viết: Trong lịch sử nhân loại, hiếm có học thuyết,
tư tưởng nào mà trong suốt quá trình hình thành và phát triển lại chịu nhiều sự
đả kích, xuyên tạc, bóp méo của các thế lực chống đối như chủ nghĩa Mác - LêNin.
Hành trình gần hai thế kỷ kể từ khi C. Mác, Ph. Ăng-ghen đặt nền móng đầu tiên
tại Đức, V.I. Lê Nin kế tục và phát triển tại Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, cho đến nay, chủ
nghĩa Mác - Lê Nin vẫn là nền tảng tư tưởng vững chắc của các đảng cộng sản cầm
quyền, trong đó có Việt Nam.
Triết
học Mác - Lê Nin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của
thế kỷ XIX; được V.I.Lê Nin bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Ngay sau khi ra đời
và trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh, nó đã trực tiếp đi vào đời
sống xã hội, lan truyền nhanh chóng từ các quốc gia thuộc châu Âu rồi sang
toàn thế giới; trở thành vũ khí lý luận sắc bén, thế giới quan, nhân sinh quan và phương
pháp luận khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân trong công cuộc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình - cải tạo một cách toàn diện các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã
hội; xóa bỏ
triệt để mọi áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng
chế độ xã hội mới, tốt đẹp - xã hội Xã hội chủ nghĩa và
Cộng sản chủ nghĩa. Sự
trường tồn của triết học Mác - Lê
Nin cũng chính bởi giá trị khoa
học, cách mạng và hết sức nhân văn ấy. Nó không chỉ là công cụ để “nhận thức
thế giới”; mà quan trọng hơn là hướng vào “cải tạo thế giới”, được biểu hiện
trên những nội dung cơ bản:
Thứ
nhất, trên cơ sở kế
thừa một cách chọn lọc và có phê phán những thành tựu của tư duy tư
tưởng triết học nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin
đã sáng tạo nên một hệ thống triết học mới hoàn toàn về chất; có
tính hoàn bị và triệt để nhất. Trong đó, đã thể hiện sự thống
nhất cao giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng; giữa quan niệm duy
vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về đời sống xã hội; giữa việc giải
thích hiện thực về mặt triết học với cung cấp phương pháp luận khoa học
cho giai cấp công nhân và chính đảng cuả nó trong cuộc đấu tranh cải tạo
hiện thực xã hội. Trước khi triết học Mác - Lê Nin xuất hiện, các học
thuyết triết học cũng đã chứa đựng không ít những luận điểm thể hiện tinh thần
biện chứng. Song, do hạn chế của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan nhất
định, nên chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng không có sự liên kết chặt chẽ,
mà trái lại luôn tách rời nhau. Theo Mác: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ
chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
- là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình
thức khách thể hay
hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, của thực tiễn”.
Thứ
hai, triết học Mác -
Lê Nin giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời
luôn thể hiện tính mở, tính phát triển trong toàn hệ thống lý luận. triết học
Mác - Lê Nin là hệ thống lý luận lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học
nhân loại xác định đúng đắn vị trí, vai trò của thực tiễn, coi thực tiễn là
“tính thứ nhất”, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát và là mục đích của mọi lý
luận. Từ đó, làm cho Triết học luôn phản ánh được “hơi thở của thực tiễn”; đồng
thời đã khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn; thực hiện gắn bó
một cách hữu cơ giữa quá trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất là
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao
động. Coi việc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là vấn đề có tính nguyên
tắc trong mọi luận điểm đề xuất. Chính điều này đã làm cho vai
trò xã hội của triết học cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri thức khoa
học của nhân loại có sự biến đổi rất căn bản. Giờ đây, triết học không chỉ có
chức năng giải thích thế giới, mà luôn đặt mục tiêu là ngọn nến soi
đường, dẫn dắt, hướng vào cải tạo thế giới bằng bởi “phương pháp
luận” khoa học, biện chứng và cách
mạng. Như lời khẳng định của C.Mác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải
tạo thế giới”
Thứ
ba, triết học Mác - Lê Nin thực
sự đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học. Với thế
giới quan và phương pháp luận khoa học, Triết học Mác - Lê Nin giữ vai trò
là ngọn đuốc sáng cho con người đi trong đêm tối, hướng vào cải tạo hiện thực
mọi mặt đời sống xã hội của con người. Đồng thời, do gắn bó mật thiết với
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giai cấp tiến bộ và cách
mạng nhất trong xã hội hiện đại, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi
ích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội nên khác hẳn với
mọi học thuyết triết học trong lịch sử, triết học Mác - Lê Nin luôn công
khai tính đảng, thấy được nguồn sức mạnh vật chất của xã hội và biến triết học
của mình thành vũ khí tinh thần của lực lượng vật chất ấy - Giai cấp
vô sản với tinh thần: “Giống
như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản
cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Nói
học thuyết Mác là học thuyết phát triển bởi nó mang bản chất khoa học, cách
mạng triệt để nhất. Ngày nay, mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, bản thân các
nước tư bản cũng có sự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi. Những hạn chế, khuyết
tật vốn có của chủ nghĩa tư bản, như ô nhiễm môi trường, xung đột, khủng bố,
bạo lực và bất ổn xã hội, khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội,... vẫn
diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp ở các nước tư bản. Thậm chí, học giả Allen
W. Wood còn chỉ ra rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu
có nhất trên thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế
giới: 400 người giàu nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài
sản của 150 triệu người nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng
lại sở hữu hơn 1/3 tổng lượng tài sản của toàn xã hội, vượt quá tổng lượng tài
sản của những người có thu nhập thấp nhất nước Mỹ - đối tượng chiếm tới 95% dân
số”. Với những mâu thuẫn mang tính bản chất đó, theo sự vận động của quy luật
xã hội, xu hướng diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự
của không chỉ thời Mác sống mà ngay cả tới tận ngày nay.
V.I.
Lê Nin từng chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học
thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho
người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín
nào, một thế lực phản động nào”. Cũng vì đó là học thuyết phát triển, học
thuyết mở nên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia của nó. Chính
Ph. Ăng-ghen từng nói rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển,
chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một
cách máy móc”. Sau này, V.I. Lê Nin cũng khẳng định và nhấn mạnh: “Chúng ta
không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ
không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
Xuất
phát từ điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải
quyết sáng tạo và thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với
cách mạng nước ta. Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người
cho rằng, đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Quan điểm này của Người đã cụ thể hóa và làm
phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; đồng thời, là cơ sở để xác định bước đi và các biện pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, Người
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời
hạnh phúc”.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chuyển hóa và vận dụng một cách linh hoạt, sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào thực tiễn cách mạng nước ta; qua đó, tạo nên hệ
thống tư tưởng của mình và tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua
dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Ðảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong 35 năm đổi
mới vừa qua, đã khẳng định và chứng minh giá trị, sức sống vĩ đại của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những luận điệu công kích, chống phá chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch,
phản động rất đa dạng, song về cơ bản, tập trung theo hai hướng:
Thứ
nhất, phủ nhận, hạ thấp vai trò và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác -Lê Nin.
Các thế lực thù địch, phản động viện dẫn lý do thời đại máy hơi nước và chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã kết thúc, nhường chỗ cho thời đại của các cuộc
cách mạng về khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, thời đại của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Chúng xuyên tạc rằng
ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lê Nin không bắt kịp và phản ánh đúng sự phát triển
của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại; cả ba vị lãnh tụ của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của
phương Tây, vì vậy, lý luận của các ông không thể giải quyết được các vấn đề có
tính lịch sử và thời đại của các nước phương Đông, nhất là ở Việt Nam. Để chỉ
ra sự phi lý của những luận điệu phủ nhận và xuyên tạc nêu trên, cần thấy rõ
rằng, chủ nghĩa Mác - Lê Nin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội,
khoa học nhân văn, vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang
đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công
nghệ. Do vậy, nói chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã lỗi thời là một sự quy chụp không
có căn cứ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học,
công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu
của chủ nghĩa tư bản; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu
sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động tiếp tục tồn tại và gia tăng, khoảng cách
giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng
lên, nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng... Trong khi đó, theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, ở xã hội xã hội chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ sẽ góp phần nâng cao năng lực, phẩm
chất và cơ hội phát triển tự do, toàn diện cho con người, đồng thời là cơ sở
cho việc thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lê Nin là một học thuyết mở, luôn tiếp nhận những
thành tựu lý luận mới và không ngừng hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn cuộc
sống.
Thứ
hai, các thế lực thù địch, phản động tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh
trên nhiều phương diện. Họ xuyên tạc rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tư
tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng của Người không được coi là một hệ thống.
Dựa vào những luận điểm của Người có tính bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lê Nin và bao hàm sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nền cộng hòa
Pháp và Mỹ, các thế lực thù địch, phản động quy kết rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người
theo chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng về cách mạng giải
phóng dân tộc, không có tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, không mang bản chất mác-xít, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Trên thực tế, đây là một sự xuyên tạc vô căn cứ, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, là
sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lê Nin với giá trị truyền thống của dân
tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận,
nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị
dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam.
Hiện
nay, trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, bởi vậy, sự phá
hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thực chất là hành vi chính trị chống Đảng. Do
đó, đấu tranh trên trận địa tư tưởng, lý luận của Đảng, trước hết, không gì
khác hơn là bảo vệ đến cùng những thành quả tư tưởng, lý luận mà C. Mác, Ph.
Ăng-ghen, V.I. Lê Nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu, đúc kết
và kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Muốn vậy, chúng ta cần nêu cao nhận thức và thực hiện những yêu cầu sau:
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên, khích lệ toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta thi đua lao động, hoàn thành mọi nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Áp dụng phương châm: “Lấy thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho nền tảng tư tưởng của
Đảng”. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có thể tồn tại
và phát triển khi đem lại những giá trị thực tiễn cho cách mạng Việt Nam, và
đến lượt mình, những giá trị thực tiễn của cách mạng nước ta lại góp phần rất
quan trọng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần tuyên truyền, phổ biến
rộng rãi những giá trị đích thực của các nguyên lý, luận điểm của C. Mác, Ph.
Ăng-ghen, V.I. Lê Nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, bổ sung, làm rõ thêm
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
Tăng cường đấu tranh,
phản bác các luận điệu sai trái, thù địch. Nâng cao ý thức, trách nhiệm chính
trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân; phát huy ý thức tự giác, hành
động tích cực và trách nhiệm tự thân của mỗi người trong đấu tranh với các luận
điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tránh lối tư duy
máy móc, giáo điều chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến mức xem đó
là vùng “cấm kỵ”, không thể bổ sung, phát triển được gì nữa; hoặc đóng cửa,
biệt lập với các trào lưu tư tưởng tiến bộ khác, làm chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng mất dần sức
sống, sức chiến đấu và giảm tính thuyết phục.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét