Trong số các tài sản quý báu
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, thì quan điểm lập hiến và bản Hiến pháp năm
1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo, thể hiện rất sâu sắc tư tưởng pháp
quyền - thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới
ở nước ta.
Trước hết, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi nước đã độc lập, quốc gia
có chủ quyền thì phải sớm ban hành Hiến pháp để khẳng định về mặt pháp lý một
nhà nước độc lập, có chủ quyền và là phương tiện chính trị - pháp lý cao nhất
để bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước.
Trong những năm tháng bôn ba
nước ngoài tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc nhận thức một cách sâu sắc nỗi
nhục của cảnh mất nước và giá trị cao quý của một nhà nước độc lập và có chủ
quyền. Vì thế, khẩu hiệu lập hiến của Người trước khi có nhà nước kiểu mới sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là khẩu hiệu lập hiến mang tính chất đấu tranh.
Trong “Bản yêu sách gửi cho Hội Vạn quốc” có ghi: Nếu được độc lập ngay thì
nước chúng tôi sắp đặt một nền Hiến pháp... Nếu không đáp ứng thì dân chúng tôi
sẽ khởi nghĩa.
Khi nước đã được độc lập,
dân có chủ quyền, thể hiện nhất quán trong tư tưởng lập hiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương phải tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội càng sớm càng
tốt, mặc dù lúc đó, thù trong, giặc ngoài, chính quyền non trẻ, ngàn cân treo
sợi tóc. Thực hiện quyết tâm đó, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc ta (ngày 06/01/1946) đã bầu ra Quốc hội khóa
I. Ngày 09/11/1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập, có chủ quyền. Hiến pháp năm 1946 đã mở ra một trang sử mới của dân
tộc ta với một hệ thống chính quyền thống nhất, hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về
mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Ðúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bên trong thì nhân dân tin tưởng vào chế độ mình.
Trước thế giới, Quốc hội do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp lý không ai có thể
phủ nhận được”. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia và Hiến pháp của Nhà nước có mối quan hệ không thể tách rời.
Nước không được độc lập, quốc gia chưa có chủ quyền thì chưa có điều kiện để
xây dựng và ban hành Hiến pháp. Khi nước đã độc lập, quốc gia có chủ quyền thì
phải sớm ban hành Hiến pháp để tuyên bố về mặt pháp lý với nhân dân trong nước
và thế giới một nhà nước độc lập có chủ quyền và là phương tiện để bảo vệ độc
lập và chủ quyền quốc gia.
Hai là, Hiến pháp phải là
một “Hiến pháp dân chủ” do nhân dân làm chủ.
Tư tưởng lập hiến phải là
một “hiến pháp dân chủ” do nhân dân làm chủ, được thể hiện xuyên suốt trong tất
cả các tác phẩm của Người. Trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi đến Hội
nghị Véc-xây vào đầu năm 1919 do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo gồm tám điểm, trong
đó điểm thứ hai Người yêu cầu: “Cải cách nền pháp lý ở Ðông Dương bằng cách cho
người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như
người Âu châu”. Và trong một yêu sách khác gửi cho Hội Vạn quốc đề nghị: Nếu
được độc lập ngay thì nước chúng tôi: sắp đặt một nền Hiến pháp về phương diện
chính trị và xã hội, theo như những lý tưởng dân quyền.
Những yêu sách nói trên vừa
thể hiện tư tưởng về một bản Hiến pháp mà nội dung là “sắp đặt một nền Hiến
pháp về phương diện chính trị và xã hội theo như những lý tưởng dân quyền (lý
tưởng người dân làm chủ), vừa là phương tiện “bảo đảm về mặt pháp lý” để nhân
dân được hưởng quyền như người châu Âu. Nhất quán với những tư tưởng đó, một
ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Ðộc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
(ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong đó, nhiệm vụ thứ ba là: “Trước chúng ta
đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”.
“Hiến pháp dân chủ” trong tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đòi hỏi dân chủ phải là điều kiện để cho sự
ra đời của một bản Hiến pháp. Các yếu tố độc lập, có chủ quyền nói ở phần trên
là các điều kiện cần nhưng chưa đủ để có một hiến pháp dân chủ. Ðiều kiện đủ để
có một “hiến pháp dân chủ” đó chính là một chế độ dân chủ. Vì thế, trong Tuyên
ngôn Ðộc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vua Bảo Ðại thoái vị... Dân
ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hòa”. Nhờ chế độ dân chủ cộng hòa mà có điều kiện cho sự ra đời của một bản hiến
pháp dân chủ.
Tóm lại, Hiến pháp và dân
chủ trong tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hai yếu tố không tách
rời nhau. “Hiến pháp dân chủ” phải là một bản hiến pháp do nhân dân làm chủ có
nội dung và cách thức ban hành dân chủ. Ðồng thời là phương tiện để cho nhân
dân được hưởng quyền tự do, dân chủ. Ngược lại, dân chủ là điều kiện cần và đủ
cho một bản “hiến pháp dân chủ” ra đời, tồn tại và phát huy giá trị.
Ba là, Hiến pháp là phương
tiện tổ chức và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Sức mạnh “thần linh pháp
quyền” chính là sức mạnh của Hiến pháp. Sức mạnh đó trước hết là sức mạnh của
tổ chức quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp và tuân thủ Hiến pháp. Bởi theo quan
niệm của Người: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” . Vì
thế, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước cũng tức là chủ thể tối
cao của quyền lập hiến. Thông qua quyền này, nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền
quyền lực nhà nước của mình cho các cơ quan nhà nước. Bằng phương thức đó mà tổ
chức quyền lực nhà nước mang sức mạnh của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước
được hình thành một cách chính thức, cầm quyền một cách chính đáng và buộc
quyền lực nhà nước phải tổ chức và hoạt động trong giới hạn Hiến pháp cho phép.
Đây chính là cơ sở chính trị - pháp lý cao nhất để nhân dân kiểm soát quyền lực
nhà nước và buộc nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân mà cụ thể là cán
bộ, công chức nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật
cho phép và phải chịu sự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước mà nhân dân
giao cho. Chính vì thế, với tư cách là Trưởng ban khởi thảo Hiến pháp năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân” bằng quy định, thành nguyên tắc và nội dung cơ bản của Hiến pháp, như
Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định.
Bốn là, cần phải có Hiến
pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Tư tưởng về quyền con người,
quyền công dân có mối quan hệ mật thiết không tách rời với một bản Hiến pháp
dân chủ ra đời từ nhận thức sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về thân phận của người
dân sống trong nhà nước quân chủ chuyên chế và trong nhà nước thực dân xâm
lược. Ở đó, không có Hiến pháp nên không có hiến định về quyền con người, quyền
công dân, không có các định chế về Hiến pháp, về tổ chức quyền lực nhà nước để
ràng buộc và đề cao trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ với việc thực
thi quyền con người, quyền công dân. Ðồng thời, xuất phát từ đạo lý được thừa
nhận chung, như một giá trị tiến bộ của nhân loại là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn
Ðộc lập - nền móng của Hiến pháp năm 1946 đã rút ra kết luận khoa học rằng:
“Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Như vậy, quyền con người
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là quyền của cá nhân con người như trong
Tuyên ngôn Ðộc lập của nước Mỹ, mà còn là quyền độc lập, quyền tự quyết của một
dân tộc. Tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện thành
nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”(8) và Chương II:
“Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” trong Hiến pháp năm 1946. Đúng như phát biểu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại phiên bế mạc kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, ngày
9/11/1946: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu
được kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau
khi nước nhà được tự do 14 tháng, đã làm thành bản Hiến pháp đầu tiên trong
lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu
tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm
nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt
Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có
đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được
đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công
dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt
Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”.
Năm là, Hiến pháp - phương
tiện phân công, phân nhiệm quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Có thể nói Hiến pháp năm
1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã vận dụng học thuyết
phân quyền về phương diện kỹ thuật một cách sáng tạo và độc đáo phù hợp với đặc
thù và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước
non trẻ lúc bấy giờ. Ngày nay, xem xét dưới phương diện kiểm soát quyền lực nhà
nước có thể rút ra được rất nhiều điều bổ ích về việc hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước trong điều kiện mới - xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo Hiến pháp năm 1946,
quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba quyền, gồm: “Nghị viện nhân dân (lập
pháp) là cơ quan có quyền cao nhất... do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu
một lần” (Điều 22, Điều 24), có nhiệm vụ: “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính
phủ ký với nước ngoài” (Điều 23); “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của
toàn quốc” (Điều 43), có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống
xã hội trong cả nước (Điều 52), “Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa” (Điều 63), có nhiệm vụ xét xử. Đặc biệt chế định Chủ tịch
nước vừa là người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia), vừa là người đứng
đầu Chính phủ (hành pháp) được Hiến pháp giao nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn:
“có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại luật của Nghị viện. Những luật đã
được Nghị viện biểu quyết Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là mười
hôm sau khi nhận được thông tri” (Điều 31) và “Chủ tịch nước Việt Nam không
phải chịu trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc” (Điều 50). Ngược lại,
“Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:... kiểm soát và phê bình
Chính phủ” (khoản c, Điều 36); “Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay một
nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập ra một tòa án đặc biệt để
xét xử” (Điều 51). Đây chính là chế định pháp lý hiến định góp phần kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Nghiên cứu các quy định của
Hiến pháp năm 1946 có thể thấy, Hiến pháp không quy định nguyên tắc phân quyền,
nhưng việc phân công quyền lực nhà nước rất rõ ràng, minh bạch, Chủ tịch nước
có quyền phủ quyết tương đối (yêu cầu thảo luận lại luật trong vòng 10 ngày) và
được miễn trừ trách nhiệm nhưng Nghị viện có quyền bất tín nhiệm đối với nội
các, truy tố Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước hay nhân viên nội các về tội phản
quốc. Các quy định này góp phần định hình cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ngoài cơ chế kiểm soát giữa
các quyền; thanh tra, kiểm tra, tự phê bình và phê bình là các phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý. Người nói:
“Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân
dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ
kịp thời”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến vai trò của cơ quan chuyên trách
của Nhà nước trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là các ban thanh tra
trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, Người còn nhấn mạnh tính độc lập của các cơ
quan này. Ngay trong Sắc lệnh số 64/SL, ngày 23/11/1945, đã quy định rất rõ
quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt trong việc “đình chức, bắt giam bất cứ
nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm tội” và “sẽ thiết lập
ngay tại Hà Nội một Tòa án đặc biệt để xử những nhân viên của các Ủy ban nhân
dân hay các cơ quan Chính phủ do Ban thanh tra truy tố”. Những quy định trong
Sắc lệnh số 64/SL ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền
non trẻ mới ra đời có mấy tháng thể hiện sâu sắc quan điểm xây dựng một bộ máy
nhà nước kiểu mới trong sạch, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét